Kết nối các sự kiện trong chuỗi hành vi “gây hấn” của Trung Quốc trong thời gian qua, từ cắt cáp tàu Bình Minh 02, tàu Viking II, Tuyên bố mời thầu 9 lô dầu khí đến việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, có thể thấy rõ tiến trình “kiểm soát” và tham vọng “quản lý” Biển Đông của Trung Quốc, hiện thực hóa “đường lưỡi bò” và “tranh chấp hóa” Biển Đông, biến toàn bộ vùng biển này trở thành “vùng tranh chấp” để buộc các quốc gia trong khu vực ngồi vào bàn đàm phán theo cách của Trung Quốc.
2. Quyền chủ quyền và quyền tài phán theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982 (UNCLOS)
Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982, quốc gia ven biển có quyền xác định các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (nội thủy[2], lãnh hải[3]) và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (vùng tiếp giáp lãnh hải[4], vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa). Điều này thể hiện rõ nội dung của nguyên tắc "đất thống trị biển", theo đó lãnh thổ đất liền là cơ sở để xác lập và mở rộng chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Cần lưu ý rằng diện tích lãnh thổ không đóng vai trò quan trọng bởi chủ quyền trên lãnh thổ đó mới là nền tảng quyết định việc mở rộng quyền lực quốc gia ra phía biển[5].
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền lãnh hải, có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở[6]. Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió[7].
Thềm lục địa của quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phận kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn[8].
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa mang tính chất đặc quyền, tồn tại một cách thực tế và đương nhiên (ipso facto and ab initio), không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Điều đó có nghĩa các quốc gia khác không được quyền tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của quốc gia ven biển, nếu không được sự cho phép của quốc gia này, ngay cả trong trường hợp quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa[9].
Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, quốc gia ven biển có đặc quyền trong việc xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình. Quốc gia ven biển đồng thời có quyền tài phán đặc biệt đối với những công trình trên, bao gồm cả việc ban hành và đảm bảo thực thi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hải quan, thuế quan, y tế, an ninh và nhập cư[10].
Xét về vị trí địa lý, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa không phải là bộ phận của lãnh thổ quốc gia (quốc gia ven biển không có chủ quyền mà chỉ thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán) nhưng cũng không là bộ phận của biển quốc tế. Xét về quy chế pháp lý, đây là vùng biển đặc thù bao gồm quyền của quốc gia ven biển và các quốc gia khác: một mặt, bảo đảm cho quốc gia ven biển thẩm quyền riêng biệt trong việc xây dựng, lắp đặt các công trình nhân tạo và khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên; mặt khác, công nhận cho các quốc gia khác một số quyền tự do biển cả như quyền tự do hàng hải. Điều này cho phép giải quyết đồng thời hai vấn đề đặt ra trong quy chế pháp lý của các vùng biển này, đó là mở rộng quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và bảo đảm tính ổn định tương đối của biển cả là nơi mà lợi ích chung của cộng đồng cần được tôn trọng.
3. Việt Nam thực thi quyền phù hợp với quy định của UNCLOS
Phù hợp với các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã xác định hệ thống đường cơ sở, bao gồm đường cơ sở ven bờ lục địa và đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[11]. Đối với hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, Việt Nam áp dụng phương pháp đường cơ sơ thẳng, nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc bờ biển và các đảo gần bờ, bao gồm 10 đoạn nối 11 điểm từ A0 (nằm trong vùng nước lịch sử Việt Nam – Campuchia) đến A11 (trong vịnh Bắc Bộ). Trừ điểm A8 nằm trên mũi Đại Lãnh (Phú Yên), các điểm còn lại đều nằm trên các đảo ven bờ.
Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam bao gồm: vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Theo quy định tại Điều 33 UNCLOS, chiều rộng thực của vùng tiếp giáp sẽ phụ thuộc vào chiều rộng của lãnh hải do quốc gia ven biển xác định. Trên cơ sở thiết lập lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, Việt Nam tuyên bố vùng tiếp giáp lãnh là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải[12].
Bên cạnh vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế đồng thời được ghi nhận tại phần V của UNCLOS, theo đó vùng đặc quyền kinh tế bao trùm lên vùng tiếp giáp lãnh hải, với ranh giới trong là đường biên giới quốc gia trên biển và ranh giới phía ngoài là đường mà mỗi điểm trên đường đó ở cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách không vượt quá 200 hải lý. Phù hợp với qui định trên của UNCLOS, Việt Nam tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở[13].
Cùng với vùng đặc quyền kinh tế, Việt Nam xác định thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lýtính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét[14]. Việc xác định trên hoàn toàn phù hợp với qui định tại điều 76 về thềm lục địa của UNCLOS.
Trong vụ việc nêu trên, tọa độ Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 là ở vị trí 15o29'58'' bắc và 111o12'06'' đông, cách đảo Lý Sơn của Việt Nam (thuộc điểm A10 trong hệ thống đường cơ sở Việt Nam) khoảng 119 hải lý (220 km). Như vậy, vị trí đặt và hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Tại những vùng biển này, Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt (quyền chủ quyền) trong việc thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên, bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật, ở vùng nước bên trên đáy biển, ở đáy biển cũng như lòng đất dưới đáy biển[15], đồng thời có quyền tài phán đối với việc lắp đặt thiết bị, công trình nhân tạo[16]. Trung Quốc có quyền qua lại nhưng đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của Việt Nam và không được cản trở những hoạt động thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam[17].
Trong thời gian qua, Việt Nam đã sử dụng các biện pháp ngoại giao nhằm yêu cầu Trung Quốc chấm dứt hành vi vi phạm. Việt Nam đã nhiều lần gửi công hàm và tiến hành trên 30 lần tiếp xúc ngoại giao với các cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc để yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, chấm dứt các hành động xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Trên thực địa, lực lượng chấp pháp trên biển của Việt Nam, bao gồm các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư kiên quyết bảo vệ các quyền của Việt Nam được ghi nhận bởi UNCLOS, yêu cầu các tàu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và rút khỏi vùng biển Việt Nam. Như vậy, Việt Nam thực thi quyền trên cơ sở các quy định của luật quốc tế, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, các điều khoản có liên quan của UNCLOS, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông và các thỏa thuận khác giữa hai nước, giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
4. Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam
4.1. Trung Quốc vi phạm UNCLOS khi đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981
Trong thông báo ngày 8/6/2014, Trung Quốc đưa ra lập luận rằng: giàn khoan Hải Dương 981 nằm ở vị trí cách đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa) khoảng 17 hải lý nên nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của quần đảo Hoàng Sa. Vì vậy, việc giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt và hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí là hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.
Lập luận của Trung Quốc mâu thuẫn và không có cơ sở pháp lý: Liên quan đến việc xác lập và quy chế pháp lý của các vùng biển, theo quy định tại Điều 33 của UNCLOS, vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền lãnh hải, có chiều rộng không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Như vậy, ranh giới phía trong của vùng tiếp giáp lãnh hải là đường biên giới quốc gia trên biển và ranh giới phía ngoài là đường mà mỗi điểm trên đường đó ở cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách không vượt quá 24 hải lý. Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia không thực hiện chủ quyền mà chỉ có thẩm quyền hạn chế trong các lĩnh vực y tế, thuế quan, hải quan và xuất nhập cảnh nhằm ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến những lĩnh vực trên xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải quốc gia[18]. Do đó, việc Trung Quốc khẳng định hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 được thực hiện trong vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia hoàn toàn mâu thuẫn và không phù hợp với quy định của UNCLOS.
Quần đảo Hoàng Sa là bộ phận lãnh thổ Việt Nam: Trung Quốc không có quyền viện dẫn quần đảo Hoàng Sa làm cơ sở để xác lập các vùng biển vì quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Về vấn đề này, Trung Quốc chỉ đưa ra yêu sách mà không có bằng chứng pháp lý cụ thể, lập luận luôn thay đổi, mập mờ và mang tính ngụy biện. Trong khi đó, Việt Nam có những bằng chứng lịch sử và pháp lý xác thực để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[19].
Trong Tuyên bố ngày 8/6/2014, Trung Quốc đặc biệt viện dẫn Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (Việt Nam dân chủ cộng hòa) gửi Thủ tướng Chu Ân Lai (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) ngày 14/9/1958 để diễn giải Việt Nam công nhận Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Phía Trung Quốc cho rằng, trong Tuyên bố về lãnh hải ngày 4/9/1958, Chính phủ Trung Quốc xác định chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý, áp dụng đối với tất cả các đảo của Trung Quốc, bao gồm quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam); Công thư 1958 đã “ghi nhận và tán thành” quyết định về hải phận của Trung Quốc nên đó là sự thừa nhận và tán thành chủ trương lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ.
Đây là cách giải thích suy diễn và không phù hợp với các quy định của luật quốc tế. Việc phân tích, giải thích một văn bản, trước hết, cần bám sát và căn cứ vào nội dung, câu từ của văn bản đó; sau đó có thể được bổ trợ bằng những yếu tố khác như bối cảnh đưa ra văn bản. Vì vậy, có thể thấy sự lệch lạc của lập luận trên thông qua một số điểm sau:
- Thứ nhất, Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Trung Quốc là tuyên bố về lãnh hải, tức là tuyên bố về vùng biển. Bức Công thư 1958 nêu rõ sự ghi nhận và tán thành chiều rộng lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố là 12 hải lý; vì vậy không thể đồng nhất việc tán thành chiều rộng lãnh hải với sự thừa nhận chủ quyền lãnh thổ. Về vấn đề này, giáo sư Monique Chemillier - Gendreau có quan điểm: Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là sự ghi nhận và tán thành bản Tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về lãnh hải của Trung Quốc, không có sự khẳng định công nhận yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Thứ hai, Tuyên bố lãnh hải 1958 là hành vi pháp lý đơn phương của Trung Quốc. Vì vậy, theo quy định của luật quốc tế, Tuyên bố này chỉ ràng buộc Trung Quốc mà không đương nhiên có hiệu lực và ràng buộc các quốc gia khác. Trong phán quyết ngày 18/12/1951 giải quyết tranh chấp về đánh cá giữa Anh và Na Uy, Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốcđã nêu rõ “việc phân định các vùng biển luôn luôn có khía cạnh quốc tế; nó không thể phụ thuộc vào ý chí duy nhất của quốc gia ven biển như được thể hiện trong pháp luật quốc gia. Nếu tuyên bố hoạch định là hành vi pháp lý đơn phương (…) thì ngược lại giá trị của hành vi đó đối với các quốc gia khác sẽ do luật quốc tế điều chỉnh” (Phán quyết ngày 18/12/1951, trang 132).
Với tính chất là tuyên bố đơn phương, Trung Quốc có thể đưa ra yêu sách đối với các đảo đang là đối tượng tranh chấp với những quốc gia khác; nhưng tuyên bố đó không tạo ra cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền đối với những đảo này. Theo nguyên tắc đất thống trị biển, lãnh hải được thiết lập từ lãnh thổ đất liền hoặc đảo; nhưng tuyên bố đơn phương về thiết lập lãnh hải không trao cho quốc gia tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Tuyên bố đơn phương của Trung Quốc về thiết lập lãnh hải đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không tạo ra danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc và không có hiệu lực đối với Việt Nam; hai quần đảo này luôn là một bộ phận lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, quyết định ủng hộ chiều rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc không có ý nghĩa là sự thừa nhận về chủ quyền lãnh thổ.
Trung Quốc đã cố tình suy diễn khi chỉ nhấn mạnh và tách riêng thuật ngữ “ghi nhận và tán thành”. Cần giải thích các từ ngữ trong toàn bộ nội dung của văn bản. Trong Công thư 1958, ý kiến bảo lưu đã được thể hiện rõ ràng tại đoạn 3, theo đó Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Như vậy, bức Công thư không đề cập vấn đề chủ quyền lãnh thổ; chỉ ghi nhận, tán thành chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Điều này càng được củng cố khi xem xét bối cảnh lịch sử đương thời, liên quan đến tình hình của Việt Nam và tiến trình pháp điển hóa luật biển quốc tế.
Đối với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, các sự kiện trên nằm trong giai đoạn 1956-1965 trong thời điểm đấu tranh chống lại sự can thiệp từ phía Mỹ. Vì vậy, sự ủng hộ của Trung Quốc và sự gắn kết giữa Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ. Trong bối cảnh đó, Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mục đích đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh của nước này chống lại chính sách tự do trên biển của Mỹ. Công thư cho thấy sự cam kết mang tính chính trị nhiều hơn là pháp lý, một hình thức thường được các nước xã hội chủ nghĩa thể hiện đoàn kết về tư tưởng.
Bên cạnh đó, nội dung Công thư năm 1958 về ghi nhận chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý cần được đặt trong bối cảnh pháp điển hóa luật biển quốc tế. Sau thất bại của Hội nghị pháp điển hóa luật quốc tế La Haye năm 1930, Hội nghị luật biển lần thứ nhất của Liên hợp quốcđược tổ chức tại Geneva năm 1958, với việc thông qua bốn điều ước quốc tế: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về biển cả; Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả và Công ước về thềm lục địa. Tuy nhiên, Hội nghị vẫn không thể đạt được thỏa thuận về xác định chiều rộng lãnh hải. Mỗi quốc gia đơn phương đưa ra những yêu sách khác nhau: Mỹ yêu cầu lãnh hải có chiều rộng là 3 hải lý, một số nước tuyên bố 4,5 hải lý, còn Trung Quốc đưa ra quan điểm là 12 hải lý. Trong bối cảnh trên và trên cơ sở mối quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ủng hộ xu hướng xác định chiều rộng lãnh hải 12 hải lý nên chấp nhận và tán thành chiều rộng lãnh hải mà Trung Quốc tuyên bố. Đó là bối cảnh và nội dung của bức Công thư 1958.
Công thư năm 1958 có hiệu lực đối với nội dung được ghi nhận trong bức Công thư: nội dung đó là sự tán thành chiều rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc; không có ý nghĩa từ bỏ hay công nhận chủ quyền lãnh thổ. Điều này được thể hiện rõ nét ở cả hai phương diện thực tế và pháp lý. Vào thời điểm năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với đường ranh giới tạm thời là vĩ tuyến 17. Cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng cho tình thế này là Hội nghị Geneva về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, với việc ký kết Hiệp định Geneva ngày 21/7/1954. Trong Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva, các bên tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam (điểm 7). Tuy nhiên, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế trước mắt, Chính phủ Việt Nam cộng hòa (Việt Nam cộng hoà) tạm thời quản lý phần lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở về phía nam; Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tạm thời quản lý phần lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở ra bắc. Tuyên bố nhấn mạnh: Giới tuyến quân sự này chỉ có tính chất tạm thời, và “trong mọi trường hợp không được xác định là đường ranh giới về chính trị hay đường biên giới quốc gia” (điểm 6).
Sự quản lý trên chỉ là tạm thời nên Hiệp định Genevaquy định các bên sẽ tiến hành tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Trong khi chờ đợi để thực hiện tổng tuyển cử, “bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản trị hành chính ở vùng ấy” (Điều 14 Hiệp định Geneva). Do tác động của nhiều yếu tố khách quan, cuộc tổng tuyển cử không được tiến hành, và do vậy hai Chính phủ Việt Nam cộng hoà và Việt Nam dân chủ cộng hoà tạm thời cùng tồn tại trên thực tế và quản lý hai bộ phận lãnh thổ (nằm hai bên vĩ tuyến 17) của Việt Nam.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía nam vĩ tuyến 17 nên tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Trên cơ sở quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã tiếp tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thông qua các văn bản quản lý hành chính cũng như các hoạt động thực thi chủ quyền trên thực tế. Vì vậy, hải quân của Việt Nam Cộng hoà đã quyết liệt chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chống lại sự xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Do chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực, vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật quốc tế, sự hiện diện hiện nay của Trung Quốc ở Hoàng Sa không làm phát sinh danh nghĩa chủ quyền đối với Trung Quốc.
Trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt, trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại đồng thời nhiều Chính phủ quản lý từng phần lãnh thổ. Ở miền Nam, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, và sau đó ngày 6/6/1969 thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Năm 1975, sau thời gian đấu tranh, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam giành chính quyền từ tay Chính phủ Việt Nam cộng hoàvà đổi tên thành Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMN Việt Nam). Ngày 2/7/1976, trên cơ sở tổng tuyển cử hai miền Nam - Bắc của Việt Nam, CHMN Việt Nam thống nhất với Việt Nam dân chủ cộng hoà, thành lập Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam).
Như vậy, từ phương diện pháp lý quốc tế, sự thống nhất của Việt Nam là hợp pháp; CHXHCN Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất Việt Nam cộng hoà, CHMN Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do đó, là đại diện hợp pháp của Việt Nam, đương nhiên có quyền tiếp nhận các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam cộng hoà/CHMN Việt Nam và Việt Nam dân chủ cộng hoà, là chủ thể thực hiện chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và quyền thiết lập các vùng biển bao quanh: theo quy định của UNCLOS, ngoài lãnh thổ đất liền, các cấu trúc địa chất trên biển, với tính chất là một phần kéo dài của lãnh thổ đất liền, có những vai trò nhất định trong xác lập các vùng biển. Những cấu trúc này được chia thành các nhóm sau: (i) Quần đảo là một tổng thể các đảo kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử (Điều 46. b); (ii) Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Đảo có quyền có các vùng biển bao quanh tương tự như lãnh thổ đất liền (Điều 121 khoản 1, 2); (iii) Đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa (Điều 121 khoản 3); (iv) Bãi cạn lúc nổi lúc chìm là vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thị lộ ra, khi thủy triều lên cao thì ngập nước (Điều 13 khoản 1). Các vùng đất hoàn toàn bị chìm ngập dưới biển thì được xác định là một phần của đáy biển và không có bất kỳ vai trò gì trong hoạch định các vùng biển. Như vậy, việc sử dụng các khái niệm "đảo, đảo đá, bãi cạn, cồn san hô và bãi ngầm" thuộc "quần đảo" Hoàng Sa và Trường Sa chỉ mang tính tương đối, không theo nghĩa của UNCLOS mà theo cách sử dụng ngôn ngữ thông thường.
Như vậy, theo quy định của UNCLOS, những cấu trúc địa chất thuộc quần đảo Hoàng Sa cao hơn mặt biển ngay cả khi thủy triều lên cao nhất có thể được hưởng quy chế của đảo hoặc đảo đá khi không đủ điều kiện cho người đến ở hay không có đời sống kinh tế riêng. Hầu hết các nhà nghiên cứu khi phân tích quy chế pháp lý của quần đảo Hoàng Sa đều có quan điểm rằng chúng chỉ có quy chế pháp lý của đảo đá theo quy định tại Điều 121 khoản 3 của UNCLOS. Những đảo đá này đều có diện tích rất nhỏ. Tri Tôn là cấu trúc địa chất nằm ngoài cùng về phía nam thuộc quần đảo Hoàng Sa, cao hơn mặt nước biển từ 4m đến 6m, chỉ có diện tích khoảng 0,5 km2. Phú Lâm có diện tích lớn nhất quần đảo Hoàng Sa cũng chỉ vào khoảng 1,5km2. Các nhà quan sát ghi nhận rằng những đảo đá này không có khả năng duy trì cuộc sống con người hay đời sống kinh tế riêng. Do đó, Tri Tôn chỉ có lãnh hải rộng không vượt quá 12 hải lý bao quanh[20].
Như vậy, Trung Quốc không có cơ sở pháp lý khi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 và thực hiện hoạt động thăm dò dầu khí ở khoảng cách 17 hải lý tính từ Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Với vị trí hiện tại của giàn khoan Hải Dương 981, việc hạ đặt và hoạt động của giàn khoan này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc đã vi phạm các quy định của UNCLOS khi đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 và triển khai hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
4.2. Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam
Phù hợp với quy định của UNCLOS, Việt Nam thực hiện quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên, bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh vật, thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển[21].
Như vậy, với tư cách là quốc gia ven biển, Việt Nam được UNCLOS ghi nhận thẩm quyền riêng biệt, mang tính chất đặc quyền đối với nguồn tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền chủ quyền của Việt Nam, không được tiến hành thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên nói trên khi chưa có sự chấp thuận của Việt Nam[22]. Vì vậy, hành vi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc để thực hiện hoạt động thăm dò tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là sự vi phạm nghiêm trọng quy định của UNCLOS, xâm phạm trực tiếp quyền chủ quyền của Việt Nam được thiết lập phù hợp với quy định của UNCLOS.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 của UNCLOS, trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước. Như vậy, tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Việt Nam có quyền tài phán riêng biệt nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên, bao gồm tài nguyên sinh vật và phi sinh vật, thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Trung Quốc đã thực hiện hành vi vi phạm khi đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 và tiến hành các hoạt động nhằm khai thác trái phép tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, xâm phạm các quyền tài phán của Việt Nam[23].
Bên cạnh đó, Việt Nam có quyền tài phán riêng biệt đối với hành vi vi phạm trong các lĩnh vực sau:
- Tại vùng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, thực thi quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Vì vậy, khi hoạt động trên vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân nước ngoài không được tiến hành xây dựng, lắp đặt, sử dụng trái phép các thiết bị, công trình nhân tạo; khoan, đào trái phép; tiến hành nghiên cứu khoa học trái phép; gây ô nhiễm môi trường biển; tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí hoặc chất nổ, chất độc hại cũng như các loại phương tiện thiết bị khác có khả năng gây hại đối với người, tài nguyên và ô nhiễm môi trường biển[24].
- Thực thi quyền tài phán đối với tàu thuyền, tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động đe dọa chủ quyền, tuyên truyền gây phương hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam[25].
Không chỉ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc đồng thời huy động một số lượng lớn các loại tàu cản trở hoạt động chấp pháp trên biển của các tàu chức năng Việt Nam trong việc đảm bảo thực thi các quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Sự vi phạm này ngày càng gia tăng khi Trung Quốc luôn duy trì trên 100 tàu các loại, bao gồm các tàu quân sự… và liên tục tiến hành các hoạt động cản trở, đâm va các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư của Việt Nam.
Trung Quốc đồng thời tiến hành nhiều hoạt động nhằm bắt giữ tàu thuyền đánh cá của Việt Nam đang thực hiện đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây thiệt hại lớn về tài sản. Nghiêm trọng hơn, lực lượng chức năng Trung Quốc đã có những hành vi đánh đập, gây thương tích, đe dọa tính mạng ngư dân Việt Nam[26]. Những hành vi trên là sự vi phạm nghiêm trọng các quy định của UNCLOS về quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, xâm phạm trực tiếp các quyền của Việt Nam được thiết lập phù hợp với quy định của UNCLOS.
Là thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ước (nguyên tắc Pacta Sunt Servanda). Đây đồng thời là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và được pháp điển hóa trong Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế (Điều 26). Hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, vi phạm nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và các quy định của UNCLOS. Với hành động trên, Trung Quốc đồng thời vi phạm thỏa thuận với các quốc gia ASEAN ghi nhận trong Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC). Trong Tuyên bố nêu trên, Trung Quốc đã đưa ra cam kết sẽ cùng với các nước ASEAN thúc đẩy môi trường hòa bình, hữu nghị và hòa hợp tại Biển Đông, giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa sử dụng hay sử dụng vũ lực, thông qua tham khảo ý kiến và thương lượng hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc phổ cập của luật quốc tế, trong đó có UNCLOS. Dù không có giá trị ràng buộc về pháp lý, Tuyên bố trên cũng đã thể hiện ý chí, cam kết của Trung Quốc trong việc giải quyết những xung đột, mâu thuẫn tại Biển Đông.
Không chỉ vi phạm các quy định trong điều ước quốc tế đa phương và cam kết khu vực, Trung Quốc đồng thời vi phạm các thỏa thuận song phương ký kết giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể: Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển năm 2011; Tuyên bố chung của người đứng đầu nhà nước Việt Nam và Trung Quốc tháng 6 năm 2013; Tuyên bố chung của Thủ tướng Chính phủ 2 nước vào tháng 10/2013. Trong những cam kết này, các bên đã thỏa thuận: i) đảm bảo biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác; ii) giải quyết bất đồng trên cơ sở các nguyên tắc và quy phạm luật quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển 1982; và iii) không thực hiện những hành động làm phức tạp thêm tình hình. Như vậy, với hành vi đơn phương hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển Việt Nam, xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam được quy định trong UNCLOS, Trung Quốc đã thực hiện trái với tinh thần cam kết giữa hai quốc gia.
Trước những hành vi vi phạm của Trung Quốc, tại vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, buộc các chủ thể vi phạm phải tuân thủ và tôn trọng[27]. Là quốc gia hòa bình, thành viên của Hiến chương Liên hợp quốc cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật quốc tế, kiên trì con đường hòa bình, giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Vì vậy, trên cơ sở giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và không tiến hành các hoạt động làm phức tập thêm tình hình, các tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam kiên trì thực hiện chức năng chấp pháp trên biển, phù hợp với quy định của UNCLOS, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 cùng toàn bộ các tàu quân sự, hải cảnh, hải giám đang hoạt động trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Đối với hành vi vi phạm của tàu thuyền nước ngoài, thực hiện trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có quyền kiểm tra, bắt giữ và trong trường hợp cần thiết, tiến hành truy đuổi tàu thuyền thực hiện hành vi vi phạm để xét xử theo quy định của pháp luật. Việc truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng. Quyền truy đuổi của của các lực lượng tuần tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia khác[28].
Trong trường hợp Trung Quốc không dừng các hành vi vi phạm, Việt Nam có quyền đưa vụ việc ra trước cơ quan tài phán quốc tế, theo trình tự thủ tục quy định tại phần XV của UNCLOS, nhằm buộc Trung Quốc tuân thủ các quy định của UNCLOS mà Trung Quốc là thành viên. Trên thực tế, sự kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao và đấu tranh pháp lý được nhiều quốc gia vận dụng, bao gồm các quốc gia Đông Nam Á như Philippines, có thể là cơ sở để tham khảo, vận dụng kinh nghiệm đối với Việt Nam[29].
[1]Nội dung thông báo ngày 8/6/2014 được đăng tải tại trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc: http://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/zxxx_662805/t1163264.shtml.
[2]Nội thủy là vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và giáp với bờ biển (Điều 8 khoản 1 UNCLOS).
[3]Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền nội thuỷ, có chiều rộng không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở (Điều 2, 3, UNCLOS) (1 hải lý = 1852 mét).
[4]Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền lãnh hải, có chiều rộng không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (điều 33, UNCLOS).
[5]Nguyên tắc "đất thống trị biển" được đề cập nhiều lần trong các phán quyết của Tòa công lý quốc tế. Xem Phán quyết của Tòa ngày 20/2/1969 trong vụ Thềm lục địa biển Bắc, Tuyển tập các phán quyết của Tòa công lý quốc tế, 1969, tr. 51; Phán quyết của Tòa ngày 19/12/1978 trong vụ Thềm lục địa biển Egée, Tuyển tập các phán quyết của Tòa công lý quốc tế, 1978, tr. 36; Phán quyết của Tòa ngày 16/3/2001 trong vụ Hoạch định ranh giới trên biển và các vấn đề lãnh thổ giữa Qatar và Bahreïn, Tuyển tập các phán quyết của Tòa công lý quốc tế, 2001, tr. 97.
[6]Theo quy định của UNCLOS, có hai phương pháp xác định đường cơ sở: phương pháp đường cơ sở thông thường và phương pháp đường cơ sở thẳng. Đường cơ sở thông thường là ngấn nước thủy triều thấp nhất chạy dọc theo bờ biển, được thể hiện trên các hải đồ tỉ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận (Điều 5). Trong trường hợp đường cơ sở thông thường không còn phù hợp với địa hình bờ biển, quốc gia ven biển được phép áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng là đường gãy khúc nối liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thuỷ triều thấp nhất dọc bờ biển và các đảo ven bờ (Điều 7).
[7]UNCLOS, Điều 56 (1); 57.
[8]UNCLOS, Điều 76. Theo quy định tại điều này, ranh giới phía trong của thềm lục địa là đường biên giới quốc gia trên biển (ranh giới ngoài của lãnh hải). Ranh giới ngoài của thềm lục địa là bờ ngoài của rìa lục địa. Việc xác định đường ranh giới này sẽ khác nhau trong hai trường hợp: (i) Khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chiều rộng của thềm lục địa được mở rộng tới 200 hải lý tính từ đường cơ sở (khoản 1); (ii) Khi bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển phải căn cứ vào các đặc điểm địa chất của thềm lục địa để xác định, trên cơ sở áp dụng hai phương pháp sau: Phương pháp "chân dốc lục địa", theo đó quốc gia ven biển nối những điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý (khoản 4, a, ii) và phương pháp "bề dày lớp đá trầm tích", theo đó quốc gia ven biển xác định bề dày của lớp đá trầm tích với điều kiện bề dày này phải ít nhất bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm xác định đến chân dốc lục địa (khoản 4, a, i). Trong mọi trường hợp, ranh giới phía ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển, được xác định theo hai phương pháp trên, không được mở rộng quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2500 mét, là đường nối các điểm ở đáy biển có độ sâu 2500 mét, một khoảng cách không quá 100 hải lý (khoản 2, 5). Quốc gia ven biển có nghĩa vụ thông báo cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa về việc xác định các ranh giới thềm lục địa của mình, khi thềm lục địa đó mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (khoản 8).
[10]UNCLOS, Điều 56, 60, 77.
[11]Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang là đối tượng tranh chấp với nhiều quốc gia nên đường cơ sở của các quần đảo này sẽ được xác định trong một văn bản chuyên biệt. Xem Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
[12]Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Điều 2; Luật biên giới quốc gia năm 2003, Điều 4, khoản 2; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 13.
[13]Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Điều 3; Luật biên giới quốc gia năm 2003, Điều 4, khoản 3; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 15.
[14]Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Điều 4; Luật biên giới quốc gia năm 2003, Điều 4, khoản 4; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 17.
[15]UNCLOS, Điều 56; Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam về vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngày 12/5/1977, Điều 3,4.
[19]Rất nhiều tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để có thông tin tổng thể về quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo nói trên, tham khảo trang thông tin điện tử về Biên giới lãnh thổ của Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://biengioilanhtho.gov.Việt Nam /vie/home.aspx. Đặc biệt, xem Nguyễn Nhã, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Luận án tiến sĩ lịch sử, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
[20]Xem thêm Coquia J. R., "Những vấn đề ranh giới biển ở Biển Đông", Tạp chí Luật – Trường Đại học British Colombia, 1990, tr. 117-120; Tao cheng, "Tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông", Tạp chí Luật quốc tế, 1975, tr. 267; Dzurek D., "Các cuộc tranh chấp về biên giới và tài nguyên ở biển Đông", Niên giám biển, 1985, tr. 254-271.
[21]UNCLOS, Điều 56, 77; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 16, 17.
[22]UNCLOS, Điều 58 (3); Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 16 (3), 18 (5).
[23]Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 16, 17, 37; Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Điều 172, 188.
[24]UNCLOS, Điều 56, 60, 77, 80, 81; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 34-36; Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Điều 183, 191.
[25]UNCLOS, Điều 58; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 37; Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Điều 80, 81.
[26]Trong thời gian gần đây, Trung Quốc liên tục thực hiện các hoạt động bắt giữ bắt giữ tàu cá Việt Nam, gây thiệt hại về tài sản và xâm phạm sức khỏe, đe dọa tính mạng của ngư dân Việt Nam, ví dụ:
- Ngày 07/5/2014, tại khu vực có tọa độ 16o50‘N-112o49‘E (cách bắc Tây Bắc đảo Linh Côn, quần đảo Hoàng Sa khoảng 10 hải lý), tàu cá của Quảng Ngãi số hiệu QNg 96416 TS cùng 16 ngư dân, đã bị tàu Trung Quốc số hiệu 1241 bắn đạn lửa; dùng vòi rồng phun nước; dùng búa, chai lọ, bu lông ném sang tàu; dùng câu liêm cắt đứt dây và hệ thống liên lạc, định vị. Sau đó, thêm 01 tàu ngư chính Trung Quốc chưa rõ số hiệu đã khống chế, đâm thẳng vào tàu gây vỡ mạn phải và toàn bộ kính ca bin, hỏng nhiều thiết bị và tài sản trên tàu. Thiệt hại ước tính khoảng 890 triệu đồng;
- Ngày 16/5/2014, tàu cá của Quảng Ngãi mang số hiệu QNg 90205 TS trong khi đang hoạt động nghề cá bình thường tại khu vực có tọa độ 16o55‘N-112o21‘E, gần đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đã bị tàu ngư chính Trung Quốc số hiệu 306 chạy đến khống chế. Nghiêm trọng hơn, lực lượng chức năng của Trung Quốc đã lên tàu cá đập phá hầu hết tài sản trên tàu, đánh và gây thương tích nặng đối với hai ngư dân Việt Nam tên là Nguyễn Huyền Lê Anh và Nguyễn Tấn Hải của tàu cá nói trên;
- Ngày 17/5/2014, tàu cá của tỉnh Quảng Ngãi mang số hiệu QNg 96011 TS cùng 13 ngư dân khi đang hoạt động tại khu vực có tọa độ 15o16‘N-111o18‘E, cách đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam khoảng 31 hải lý, đã bị tàu Trung Quốc số hiệu 21102, khống chế, lấy đi một số tài sản và ngư lưới cụ. Thiệt hại ước tính khoảng 50 triệu đồng;
- Đặc biệt, ngày 26/5/2014, tại khu vực có tọa độ 15o16’42”N-111o01’30”E, ngư trường truyền thống thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, tàu cá Đà Nẵng mang số hiệu ĐNa 90152 TS cùng 10 ngư dân trên tàu đã bị tàu Trung Quốc mang số hiệu 11209 đã đâm chìm. Các ngư dân đã được lực lượng kiểm ngư, Cảnh sát biển Việt Nam cứu vớt và đưa lên tàu an toàn. (xem Họp báo quốc tế của Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 27/5/2014)
[28]UNCLOS, Điều 111; Luật biển Việt Nam năm 2012, Điều 41.
[29]Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc tại Tòa trọng tài thành lập theo quy định của Phụ lục VII của UNCLOS. Trong trường hợp khởi kiện, Việt Nam sẽ tránh được các trường hợp ngoại lệ được quy định tại Điều 298 của UNCLOS và được nêu ra trong tuyên bố của Trung Quốc ngày 25/8/2006, khi tập trung vào một số nội dung như: i) Yêu cầu Tòa tuyên bố: các quyền mà Trung Quốc yêu sách thiết lập trên biển Đông phải phù hợp và tuân thủ quy định của UNCLOS, bao gồm các quyền tại vùng đặc quyền kinh tế theo phần V và tại thềm lục địa theo phần VI của Công ước. vì vậy yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm 80% diện tích biển Đông là sự vi phạm nghiêm trọng các quy định của Công ước; ii) Yêu cầu Tòa xác định: Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS khi đơn phương lắp đặt bất hợp pháp công trình nhân tạo (giàn khoan Hải Dương 981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Điều 60 UNCLOS); iii) Trung Quốc đã vi phạm Công ước khi đơn phương thăm dò, khai thác bất hợp pháp nguồn tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Điều 56, 77 UNCLOS); iv) Trung Quốc đã vi phạm pháp luật quốc tế khi cản trở tàu thuyền chức năng của Việt Nam thực hiện quyền tài phán hợp pháp trên vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam; v) Yêu cầu Tòa xác định quy chế pháp lý của các cấu trúc địa chất thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đã vi phạm khi đơn phương thực hiện các hành vi nhằm thay đổi hiện trạng của những cấu trúc địa chất này.