Nhìn ra thế giới

Chiến lược của Bình Nhưỡng: va đập, chuyển hướng, và đột phá

CHDCND Triều Tiên hiện có Tổng sản phẩm quốc nội khoảng 28 tỉ USD, tương đương với Turmenistan, tuy nhiên đã tạo được một bối cảnh khiến các nước như Mỹ, Nhật, Nam Triều Tiên, Trung Quốc và Nga phải cố ngồi vào bàn đàm phán để thuyết phục Bình Nhưỡng không chế tạo và thử vũ khí hủy diệt. Và ba năm cầm quyền vừa qua của Chủ tịch Kim Jong Un đang cho thấy một Triều Tiên âm thầm chuyển đổi dưới màu áo cũ của tư tưởng Chủ thể (1955).

Những di sản

Trách nhiệm khách quan đặt lên vai lãnh tụ tối cao ở Bình Nhưỡng là rất nặng nề. Triều Tiên là nước có diện tích canh tác ít (dưới 18%)[1], địa thế không thuận cho phòng thủ, khó ngăn chặn các lực lượng triển khai nhanh từ cả hai đầu đất nước (như lịch sử từng chỉ ra), chưa kể Hiệp định Bàn Môn Điếm 1953 chỉ xác định ranh giới trên đất liền, không xác định ranh giới trên biển[2]. Trình độ nhận thức của dân chúng, theo các học giả Nga, hiện còn đang ở mức tư duy của thời kỳ Khủng hoảng tên lửa trên biển Caribe năm 1962[3].

Khủng hoảng kinh tếgần nhất gây bởi cuộc đổi tiền 30/11/2009, được xem là một bản sao của cuộc đổi tiền năm 1947 ở Liên Xô. Nhân dân bất thần được báo về lệnh đổi tiền, với chỉ tiêu ban đầu vô cũng khắc nghiệt: mỗi gia đình không được đổi quá 100 ngàn von Bắc Triều Tiên…Tới lúc đó thu nhập của một gia đình ở Triểu Tiên, theo các nguồn của Nga, là từ 50 – 100 ngàn von/tháng. 100 đồng tiền von cũ đổi được một đống von mới. Kèm theo các biện pháp kiểm soát giá, lương và tiền kiểu như sử dụng các đội cảnh sát tuần tra bắt giữ những ai bán hàng cao hơn giá nhà nước quy định. Hậu quả của cải cách bằng biện pháp hành chính như thế, tương tự như ở các cuộc đổi tiền tại một số nước thuộc phe XHCN, là làm tê liệt kinh tế trong nước.

Về con số cụ thể, trước khi đổi tiền (2009) một kg gạo trên thị trường có giá 2000 von (bằng khoảng tiền lương “phó thường dân”), và 1 USD đổi được 3500 von (để so sánh, trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ, một kg gạo giá 46 von, và 1USD giá 210 von).

Vì không ai muốn bán hàng mà chịu lỗ, (trừ nhà nước như Liên Xô) nên các chợ không hoạt động, để rồi bị chính quyền chính thức đóng cửa. Bán hàng thu ngoại tệ cũng bị cấm. Kết quả là tình hình ngày một xấu hơn. Ngay cả những gia đình thuộc diện “thượng lưu” cũng khó có khả năng trang trải nhu yếu phẩm. Các tầng lớp nhân dân đều kêu ca.

Hiểu rằng tình hình bắt đầu tuột ra khỏi vòng kiểm soát, chính quyền nới lỏng đai thắt thị trường. Các chợ và cửa hàng bán hàng thu ngoại tệ được mở trở lại từ tháng 5/2010, chính quyền địa phương nhận chỉ thị không “ngăn sông cấm chợ” và không cản trở hoạt động kinh tế tư nhân nữa. Thời kỳ siêu lạm phát phải mãi tới 2012 mới tắt, nhưng bây giờ một kg gạo ngoài chợ đã lên tới 4500 von, còn 8000 von là giá một đồng USD. Tiếp tục tiến triển xu thế gạo ngày một đắt lên trong tương quan với đồng đô la Mỹ, đã bắt đầu từ năm 2000.

Di sản trực tiếp này hẳn đã khiến cho chính quyền của Chủ tịch Kim Jong Un cho đến nay tiếp tục áp dụng một đường lối kinh tế cận thị trường hơn[4].

Chiến lược “tam giác” về đối ngoại

Một nghiên cứu được cả các nguồn tiếng Nga trích dẫn là “Chiến lược của Bắc Triều Tiên: Dữ tợn, yếu và điên rồ”, của George Friedman, trênchuyên mục Địa Chính trị hàng tuần, của Stratfor số ra cuối tháng 12/2013[5]. Dù “vũ điệu ngoại giao” này trong mắt ai có vẻ hơi quá thô đến mức dữ dằn, các nguồn của Mỹ sau quan sát hàng thập kỷ, đã có lời khen ngợi.

Tác giả Friedman cho rằng các cường quốc thỉnh thoảng lại cho Bắc Triều Tiên tiền và lương thực, để họ đừng chế tạo vũ khí. Nước này thỉnh thoảng đồng ý dừng chế tác, nhưng rồi lại tiếp tục các hoạt động hạt nhân của mình. Bắc Triều Tiên chưa từng hoàn chỉnh một vũ khí nào, nhưng thường xuyên dọa sẽ thử một loại vũ khí nào đó. Trong khi thử, họ cho biết nỗ lực như thế nhằm vào các cựu thù là Mỹ và Nam Triều Tiên.

Friedman viết,khi Liên Xô sụp đổ, Bắc Triều Tiên rơi vào tình cảnh kinh tế vô cùng cơ cực. Đã có những dự báo rằng chính phủ Bình Nhưỡng sẽ sụp, dẫn tới thống nhất bán đảo Triều Tiên. Dĩ nhiên, mục tiêu của Bắc Triều tiên là bảo tồn chế độ, Bình Nhưỡng rất ngại các thế lực bên ngoài sẽ xâm lấn hoặc sẽ hiệp trợ nổi dậy từ bên trong. Dù yếu về tiềm lực, Bắc Triều tiênvẫn cần một chiến lược ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ nói trên.

Thứ nhất, Bắc Triều tiên cần định vị chính mình như một thế lực hung bạo, tỏ ra mình là một thế lực có sức tàn phá khủng khiếp. Thứ hai, họ tỏ ra mình yếu đến mức dù hung bạo đến mức nào, cũng không cần phải xô ngã họ (chế độ ở Bình Nhưỡng) vì đằng nào họ cũng sắp đổ vì lung lay từ bên trong (own defects). Và thứ ba, họ tỏ ra là điên rồ, là một thế lực nguy hiểm đến mức có thể dấn vào mạo hiểm lớn nhất có thế tưởng tượng được ngay với bất kỳ sự khiêu khích nào dù ở mức độ thấp.

Đây là một chiến lược có những điểm xuất sắc (briliance), các nhà quan sát chiến lược Mỹ đánh giá. Nó đã phát huy hiệu quả được khoảng ¼ thế kỷ nay và vẫn còn phát huy tác dụng. Khi bài chơi là (biết làm)“kẻ yếu”, vẫn có thể giành được lợi lộc rõ rệt. Đấu pháp này cho phép (về đối nội) giữ được chế độ, (về đối ngoại) tập hợp chú ý vào mình như một người chơi quốc tế có ảnh hưởng, đến mức có thể “nặn bóp” được những thỏa hiệp từ các siêu cường (các nguồntiếng Ngacũng đăngcác nhận định như thế này). Tuy nhiên theo giới quan sát chiến lược Mỹ, nếu “dấn ga” quá dữ dằn trên hướng này, nỗi sợ sự hung đồ và mất trí sẽ phá vỡ nỗi an ủi rằng “anh” là kẻ yếu trong tâm tưởng của các đối thủ. Friedman cho rằng giữ cân bằng của tam giác đều chiến lược này là hệ trọng.

Học giả Mỹ cho rằng không chỉ một nước nhỏ và biệt lập như Bắc Triều Tiên chơi bài “hung hăng” hay “điên rồ” để “chuyển lửa ra ngoài”, giữ quyền bính ổn định. Nhưng Bình Nhưỡng, vẫn theo Friedman, là mẫu mực trong thực thi chiến lược của mình từ sau kỷ nguyên Liên Xô. Khác với một số học giả Nga có ý “chê” nền ngoại giao của Bắc Triều Tiên là thiển cận[6], Friedman viết tiếp: “Ngoại giao là nghệ thuật của các dân tộc giành mục tiêu của mình mà không phải lâm vào chiến tranh. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước nhỏ, đơn độc để làm sao tồn tại được tránh khỏi chiến tranh. Như trong một số trường hợp khác, sự tỏ ra muốn dấn vào một cuộc chiến tranh, bất chấp (trong bụng là) những tính toán hợp lý, lại là cơ sở để tránh chiến tranh. Đây là một chiến lược có lý, và đối với Bắc Triều tiên và Iran, ít nhất như vậy, hiện tại vẫn còn đang sử dụng được”. Các học giả Mỹ nhận định so với trường hợp của Iran, Triều Tiên còn bị đe dọa bởi nạn đói.

Ân nhân thời “kháng Mỹ viện Triều”

Vẫn theo George Friedman, Mỹ đã ngạc nhiên nhận thấy dù Trung Quốc cũng tiến hành các hành vi bên miệng hố xung đột với láng giềng, cụ thể trên các biển Đông (với Việt Nam) và trên biển Hoa Đông với Nhật Bản, Bắc Kinh khá say sưa trong đóng vai người thuyết phục Bình Nhưỡng chớ thử vũ khí hạt nhân nữa. Kết quả là những đợt chế tác hay thử vũ khí của các nguyên soái đã dẫn tới một “vũ điệu ngoại giao” không thể tránh khỏi của người Mỹ và người Nhật trước mắt người Tàu, để được Bắc Kinh chia sẻ các thông tin, và có biện pháp ngăn ngừa bán đảo Triều Tiên bùng nổ khủng hoảng. Nói chung Bắc Kinh cũng đã miễn cưỡng chiếu cố (oblidge) yêu cầu của Washington và Tokio. Về toàn cảnh, vẫn theo các chuyên gia Mỹ, là Bình Nhưỡng sẽ dừng việc thử “bánh trứng” (vĩ khí hạt nhân) một dạo, Trung Quốc kêu gọi tuyệt đối không ai được chọc giận Bắc Triều Tiên, còn người Mỹ và người Nhật, run như dẽ vì điều một Bắc Triều Tiên “hung tợn, yếu, và điên rồ” sắp làm, phải luôn miệng cảm ơn Trung Quốc đã làm ơn làm phúc giải tỏa xung đột. Kết quả là làm gì có ai dám mặt dày mày dạn, để đề cập những vấn nạn về thương mại (mà Trung Quốc gây ra), hay nêu vấn đề những hòn đảo nhỏ (mà Trung Quốc cho mình quyền tranh chấp) một khi Trung quốc đã dùng sức mạnh của mình để buộc Bắc Triểu Tiên phải lùi bước.

Người Mỹ tiết lộ họ đã không thể biết Bắc Kinh nghĩ gì, nên không có cơ sở để cho rằng Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã hiệp đồng trên mặt trận này. Về phần mình, Bắc Triều Tiên sẽ vẫn dàn dựng những khủng hoảng mới, và sự can ngăn tiếp nối của Trung quốc, theo học giả Mỹ, quả là đắc lợi cho Trung Quốc lắm thay.

Người Mỹ biết chắc rằng Trung Quốc đang có một sự quan tâm ngày cảng lớn hơn về ổn định tình hình ở Bắc Triều Tiên.

Ông chủ và… khổ chủ

Nhà “Triều tiên học” từ thời Liên Xô Andrei Lankov, là tác giả hơn 10 đầu sách về chế độ chính trị ở Bình Nhưỡng từ kỷ nguyên Stalin, bằng các thứ tiếng Anh, Triều tiên và Nga.

Trong bài viết “Bắc Triều Tiên đã cãi nhau với Trung quốc như thế nào”[7], Lankov đánh dấu các mốc mà theo ông từ đó, quan hệ Trung Quốc – Bắc Triều Tiên biến đổi về chất. Bắt đầu là sự kiện chiếc cầu Trung quốc xây mới từ thành phố Đan Đông (tỉnh Liêu Ninh) qua con sông Áp Lục nổi tiếng lịch sử, sang thành phố  Sinuiju của Bắc Triều Tiên. Chiếc cầu này đã được xây từ biên giới Trung Quốc sang phía Triều Tiên, dự kiến dài khoảng 1 km. Nó đã được hoàn thiện hoàn toàn ở phía Trung Quốc để rồi, theo Lankov, như bị một con dao lớn chặt đứt ở phía Triều Tiên. Trên thực tế, sau nỗ lực xây dựng cầu của công nhân Trung quốc để khánh thành vào mùa hè năm 2014, việc xây dựng cầu đột ngột bị dừng lại vào mùa xuân năm ấy. Lịch sử như quay lại những năm 40, khi chiếc cầu cũ bắc qua sông Áp Lục được xây. Hôm nay, vô cùng chật hẹp, nó tiếp tục gánh trên mình ¾ “gánh nặng” nhập khẩu từ Trung Quốc. Được biết 80 phần trăm (kim ngạch) ngoại thương của Bắc Triều Tiên hiện nay là với Trung quốc.

Bắc Triều tiên cũng tốp lại một số hạng mục (nhạy cảm?) khác. Lankov dẫn công trình dang dở đường dây tải điện nối thị trấn Hồn Xuân (Trung quốc) với khu đặc quyền kinh tế Rason nằm ở rìa tây bắc của lãnh thổ Bắc Triều Tiên, trong “tam giác” ba biên giới, nơi gặp nhau của biên thùy ba nước Nga (vùng Primorskii Krai), Trung quốc (tỉnh Cát Lâm) và CHDCND Triều Tiên. Được bắt đầu từ 2011, nó hiện là những cột điện đứng “chờ” các dây tải điện chắc sẽ không bao giờ đến? Vì từ 2013, Bắc Kinh đã chấm dứt tài trợ cho tất cả những dự án nào ở Bắc Triều Tiên đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước Trung quốc, vẫn theo các nguồn Nga.

Một điều gây khó chịu cho Hoa Lục là, dù có nhiều doanh nghiệpTrung quốc làm ăn hiệu quả ở Triều Tiên, khi có bê bối xảy ra, nhà đương cục Bắc Triều Tiên “không nể mũi”, thẳng tay tịch thu tài sản của thương gia Trung quốc, bất cần các hậu quả chính trị hay pháp lý.

Cũng khoảng từ cuối 2013, trên đài báo Bắc Kinh bắt đầu xuất hiện các tin bài phê phán CHDCND Triều Tiên. Điều làm học giả chú ý, là chúng xuất hiện cả trên những báo là phụ trương của Nhân dân Nhật báo Trung Quốc. Cũng trên các báo chính thức của Trung Quốc, bắt đầu có tiếng nói,chủ yếu vẫn của những tướng về hưu, đe rằng, đại loại, trong trường hợp chế độ ở Bình Nhưỡng lung lay, hoặc rơi vào can qua với Hàn Quốc, Trung Quốc sẽ án binh bất động. Kết cục là Bắc Kinh hẳn đã coi các hành vi “hung tợn, điên rồ” của Bình Nhưỡng là độc hại đối với lợi ích của Trung Quốc, một khi không có cách gây ảnh hưởng lên vị láng giềng nhỏ bé này, Bắc Kinh đang bắn tín hiệu này (lợi ích Trung Quốc bị Bình Nhưỡng làm hư hoại) qua các trung tâm nghiên cứu và các kênh thông tin khác, cả ở Trung Quốc lẫn hải ngoại.

Về phần mình, các phương tiện thông tin đại chúng của Bắc Triều Tiên bình rằng các nước nhỏ không thể tin vào lời hứa của những nước lớn là sẽ bảo vệ mình (nước nhỏ), nên cần phải tự xây dựng những lực lượng kiềm chế có sức mạnh[8].

Nhiều quan sát viên quốc tế nghĩ rằng đến bước ngoặt của quan hệ hai nước Trung Triều là tháng 2/2013 khi Bình Nhưỡng thử hạt nhân lần thứ ba, bất chấp nhiều cảnh báo từ phía Trung Quốc. Họ cũng lưu tâm đến việc xử bắn bí thư Trung ương Đảng Jang Sung-taek, người từng phụ trách quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Sau khi ông này mất, đã bị hô biến một số lượng lớn (Lankov cho rằng gần như đa số) các quan chức và thương gia Bắc Triều Tiên (trong số họ có những người giàu, và có quyền hoạt động kinh tế đối ngoại ngoài quốc doanh). Lankov nhận định,từ đây Bắc Kinh nhận thấy cần cho Bình Nhưỡng một bài học về ai là ông chủ vùng Đông Á này.

Các quan sát viên cho rằng giữa hai ông chủ mới ở Bắc Kinh và Bình Nhưỡng đã không còn ấm áp như các triều đại trước. Rằng cả những người cổ súy lẫn những người phản đối chế độ Kim ở Trug Quốc đều nhất trí được với nhau, là Tập Cận Bình nhìn nhận Bắc Triều Tiên rõ ràng không được thiện cảm như các lãnh đạo trước, không còn cho rằng đây là một đồng minh, hay một vùng đệm hữu ích, mà như một nguồn sinh ra những vấn nạn, vẫn theo Lankov.

Lankov cho rằng Trung Quốc, nay cảm thấy mình như một siêu cường, sẽ cố làm sao các nước lân bang yếu kém hơn, vì thế việc thống nhất bán đảo Triều Tiên nhất là khi Seoul chủ động, không hề nằm trong kế hoạch của Bắc Kinh[9]. Ngoài ra, giới quan sát cho rằng Bắc Triều Tiên cần cho Trung quốc với tư cách vùng đệm, để giữ quân đội Mỹ đóng trên bán đảo Triều Tiên cách quãng ra khỏi Trung quốc.

Các học giả cũng cho rằng Trung Quốc đặc biệt không ưa tham vọng hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Một khi Trung Quốc là một ông chủ “chính quy” của cái cặp hạt nhân, người Hán cho rằng việc ai nữa trong vùng này sở hữu vũ khí hạt nhân “ngoài luồng” đangphá hoại uy tín chính trị và tiếm lực quân sự của Trung Quốc. Mặt khác, nguy cơ hạt nhân của Bắc Triều Tiên có thể là nguyên nhân, nhưng có khi lại chính là cớ để quân Mỹ có mặt ở Đông Bắc Á, điều mà Bắc Kinh không thể thích thú, theo học giả Nga.

Trong vụ “canh chẳng ngọt” vô tiền lệ này của quan hệ Trung - Triều, còn các yếu tố khác nữa: quan hệ thương mại giữa Bắc Kinh với Seoul (có kim ngạch) cao gấp 50 lần so với quan hệ thương mại giữa Bắc Kinh với Bình Nhưỡng, và bầu không khí chính trị cũng nồng ấm hơn so với trước; sự chỉ trích của Bắc Triều Tiên rằng các điều kiện mà Bắc Kinh đặt ra cho Bình Nhướng là bất bình đẳng và tước đoạt (Lankov dùng từ “ăn cướp”), trong khi Trung Quốc cho rằng họ, trái lại, đã ưu tiên Bắc Triều Tiên, và luôn là khổ chủ của những vụ đổ bể về hợp tác thương mại song phương…

Điều Trung quốc không bằng lòng nữa là kể cả trước đó, nhưng nhất là từ mốc 2008, CHDCND Triều Tiên đã hoàn toàn phụ thuộc vào ngoại thương và viện trợ với Trung Quốc. Ấy vậy mà đã vài chục năm nay, Bình Nhưỡng luôn tìm cách tăng số lượng các nhà tài trợ lên, luôn “đu dây” nhịp nhàng giữa Trung Quốc và Hàn Quốc, đôi khi còn “khiêu vũ” với cả Washington[10].

Tác giả Lankov cho rằng quan hệ Trung - Triều đang ở điểm thấp nhất trong hai chục thập kỷ nay. Và trong một cuộc khủng hoảng như thế, một khi tìm kiếm đường hướng cải cách kinh tế,Bắc Triều Tiên sẽ ở vào thế bất lợi, vì cần đầu tư từ bên ngoài và sự ủng hộ về kinh tế đối ngoại, mà về thực chất, họ đang chỉ trông đợi được vào Trung quốc.

“Cải cách ngầm”

Chiến lược răn đe kiểu gây dựng nỗi sợ “kẻ cố cùng liều thân” sẽ không khả dụng mãi mà không bị “bắt bài”.

Tháng 12/2014, nhà “Bắc Triều tiên học” kỳ cựu Andrei Lankov viết bài[11]cho hay từ khoảng hai năm lại đây, dường như Nguyên soái Kim Jong Un đã quyết định đột phá vào “cứ điểm” mà phụ thân ông từng suốt đời e ngại. Bắc Triều tiên sẽ hướng theomột quỹ đạo phát triển, giống với giai đoạn đầu cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam (những năm từ giữa thập kỷ 80).

Cụ thể từ xuân 2013, nông nghiệp Bắc Triều tiên đã âm thầm chuyển sang khoán hộ. Dù các phương tiện truyền thông của nhà nước vẫn kín tiếng việc này, trên thực tế đã nay năm lại đây người nông dân Bắc Triều Tiên đã không còn làm việc chỉ để nhận được khoản 650 gam lương thực/ngày, mà là 30 phần trăm từ sản lượng họ gặt hái được. Kể từ 2015 này, theo các nguồn Nga, họ sẽ được nhận tới 60% mùa màng.

Trong công nghiệp, quyền (tự chủ trong sản xuất kinh doanh) của giám đốc được tích cực mở rộng, một sự nới rộng không theo sơ đồ hạch toán kiểu Gorbachov, mà là một kiểu tư nhân hóa ngầm, tương tự như của Đặng Tiểu Bình ở Trung quốc những năm 1980. Trong kinh tế đối ngoại dưới màn che các cuộc diễn tập kiểu “ngoại giao tên lửa - hạt nhân” truyền thống, là những nỗ lực tìm kiếm gắt gao những nguồn đầu tư nước ngoài, chứ không chấp nhận mãi thế nhận “trứng một giỏ” từ Bắc Kinh...

Những định mệnh

Tiến hành cải cách dĩ nhiên sẽ không thể không nới lỏng cương “hành chính – quan liêu – bao cấp”, và không thể chặn được thông tin từ thế giới bên ngoài tràn vào theo “nguyên tắc bình thông”. Từ đây nhô ra một thách thức kiểu “bức tường Berlin”, vì bên kia vĩ tuyến 38 là những đồng bào Hàn Quốc có thu nhập theo đầu người cao hơn đến vài chục lần so với dân Bắc Triều Tiên – một chênh lệch được đánh giá là chưa từng có trong lịch sử hai nước bất kỳ có chung đường biên giới.

Các nhà quan sát quốc tế nhận thấy Chủ tịch Kim đang muốn đưa đất nước mình vào quỹ đạo “chuyên chính phát triển” (phát triển là trên hết/developmetal dictature). Mô hình này từng tồn tại ở Đài Loan và Hàn Quốc nhiều thập kỷ về trước, còn nay đang vận hành ở Trung Quốc và Việt Nam, về cơ bản dựa trên độc quyền lãnh đạo về chính trị và nguồn lao động rẻ, “dễ bảo”. Tuy nhiên sự nghiệp đổi mới này ở có một thách thức khác biệt, chẳng hạn, với thể chế “chuyển giao quyền lực” giữa các ê kíp lãnh đạo như hiện hành ở Bắc Kinh. Đó là, bất chấp thăng trầm của công cuộc cải tổ kinh tế, chính quyền ở Bình Nhưỡng truyền đời di sản phải mang huyết thống của Đại Nguyên Soái Kim Nhật Thành… Một sứ mệnh nan giải, vì ít nhất, các nhà cách mạng tiền bối từng chỉ ra: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó hơn.

    



[1]http://en.wikipedia.org/wiki/Agriculture_in_North_Korea

[2]Bắc và Nam Triều Tiên ở ngưỡng cửa chiến tranh – lịch sử cuộc xung đột và các hậu quả có thể xảy ra (СевернаяиЮжнаяКореянапорогевойны- историяконфликтаиеговозможныепоследствия. Bài của Truyền hình Trung ương Nga  http://www.1tv.ru/news/print/165940

[3]BắcTriềuTiênthuhútsựchú ý côngluận(Северная Корея превратилась в информационный повод ).Chuyên mục Chiến lược của Đài phát thanh Vesti của Nga, radiovesti.ru/episode/show/episode_id/19889

[4]Điềugì xảyravớitỉgiá USDvà giá cảởBắcTriềuTiên (ЧтотворитсяскурсомдоллараиценамивСевернойКорее) bàicủaTạpchí Ngaslonhttp://slon.ru/world/inflyatsiya_v_severnoy_koree-1206258.xhtml

[5]Ferocious, Weak and Crazy: The North Korean Strategy; https://www.stratfor.com/weekly/ferocious-weak-and-crazy-north-korean-strategy

[6]BắcTriềuTiênthuhútsựchú ý côngluận(Северная Корея превратилась в информационный повод) .Chuyên mục Chiến lược của Đài phát thanh Vesti của Nga, radiovesti.ru/episode/show/episode_id/19889

[7]Как Северная Корея поссорилась с Китаем, bàitrêntạpchí Slon, Nga.

[8]Trung Quốc và Bắc Triều Tiên: rắc rối quan hệ đối tác (China and North Korea: A Tangled Partnership).  Bài trên tạp chí Stratfor  https://www.stratfor.com/weekly/china-and-north-korea-tangled-partnership

[9]Bắc Triều Tiên đã cãi nhau với Trung Quốc như thế nào(КакСевернаяКореяпоссориласьсКитаем), bài trên tạp chí Slon, Nga.

[10]Bắc Triều tiên đã cãi nhau với Trung quốc như thế nào(КакСевернаяКореяпоссориласьсКитаем), bài trên tạp chí Slon, Nga.

[11]Ba kịch bản thất bại của Bắc Triều Tiên (КрахСевернойКореи: трисценария), bài trên tạp chí Slon, Nga;

 http://slon.ru/world/krakh_severnoy_korei_tri_stsenariya-1190799.xhtml

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578261

Hôm nay

279

Hôm qua

2352

Tuần này

21460

Tháng này

225318

Tháng qua

130677

Tất cả

114578261