Cuộc sống quanh ta

BÁO CÁO CHÍNH TRỊ của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII(Tóm tắt những vấn đề chủ yếu)

Phần thứ nhất

KIỂM ĐIỂM 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVI.

            Đảng bộ và nhân dân Nghệ An bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, có những thuận lợi cơ bản: Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu được những kết quả quan trọng; Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới, chính thức gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một số định hướng lớn do Đại hội XV đề ra được khẳng định rõ hơn sau khi có Kết luận 20-KL/TW, Nghị quyết 37-NQ/TW, 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và một số chương trình, đề án lớn được Chính phủ phê duyệt. Nguồn lực được tích luỹ từ những năm trước, tạo thế và lực cho sự phát triển cao hơn.
            Tuy nhiên, trong 5 năm qua tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp. Từ cuối năm 2007 kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn do lạm phát và suy giảm kinh tế; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xẩy ra; các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, đẩy mạnh hoạt động "diễn biến hoà bình". Trong khi yêu cầu đòi hỏi phải có sự phát triển nhanh, nhưng các điều kiện nguồn lực của tỉnh để đáp ứng lại chưa tương xứng; địa bàn rộng lớn, chủ yếu là miền núi, kinh tế -xã hội còn nhiều khó khăn, đã ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của tỉnh. Trước tình hình đó, Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân tỉnh nhà đã nỗ lực phấn đấu vươn lên đạt được những kết quả quan trọng:   
             A- Những kết quả đạt được:
            I- Phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh:
            1- Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá và chuyển dịch đúng hướng, sản xuất kinh doanh trong các ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển:
            Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2005-2010 đạt 9,75%. GDP bình quân đạt 14,16 triệu đồng/người/năm, tăng 2,5 lần so với đầu nhiệm kỳ.Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 34,41% năm 2005 xuống 28,47%; tỷ trọng ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 29,30% lên 33,44%; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 36,29% lên 38,09% năm 2010.
            Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của thiên tai, dịch bệnh, song vẫn có bước phát triển khá.Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân 5 năm đạt trên 5,32%/mục tiêu nghị quyết 5,5-5,8%; đạt mục tiêu sản lượng lương thực ổn định ở mức trên 1 triệu tấn; diện tích, sản lượng một số cây công nghiệp tăng khá; nhiều mô hình kinh tế trang trại, chăn nuôi tập trung, bán công nghiệp được đầu tư xây dựng và phát triển có hiệu quả; độ che phủ rừng đạt 53%/mục tiêu nghị quyết 53%; sản lượng nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản đều đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
            Giá trị sản suấtcông nghiệp, xây dựng tăng khá, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 15,24%/năm.Tập trung quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp;đầu tư phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế của tỉnh. Nhiều nhà máy lớn được xây dựng, nâng cấp, một số nhà máy đã đi vào hoạt động có hiệu quả, nhiều sản phẩm tăng nhanh so với đầu nhiệm kỳ, tạo tiền đề để phát triển nhanh hơn trong nhiệm kỳ tiếp theo.
             Dịch vụ phát triển nhanh, đa dạng, một số ngành có tốc độ phát triển cao hơn mục tiêu nghị quyết. Giá trị sản xuất dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 11,26%. Các ngành dịch vụ, như: Vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng ... phát triển nhanh, cơ bản đạt và vượt mục tiêu nghị quyết đề ra.
            Thu ngân sách hàng năm tăng khá. Dự ước năm 2010 đạt trên 5.000 tỷ đồng/mục tiêu Nghị quyết 5.000-5.500 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với đầu nhiệm kỳ, đạt tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm 25%/năm.
            Thu hút đầu tư có bước chuyển biến tích cực, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong nhiệm kỳ đãthu hút hơn 224 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 51,7 ngàn tỷ đồng, trong đó có một số dự án có quy mô lớn. Tổng vốn đầu tư xã hội được huy động đạt 75-76 ngàn tỷ đồng/mục tiêu Đại hội 70-75 ngàn tỷ đồng, tăng 2,7 lần so với 5 năm trước, trong đó nguồn huy động trong dân chiếm 20%.
            2- Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội không ngừng được tăng cường, nhất là giao thông, đô thị. Các công trình được xác định tại Nghị quyết Đại hội XVI đều được triển khai, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả. Thành phố Vinh được công nhận đô thị loại I, Thị xã Cửa Lò đạt đô thị loại III; quy hoạch, xây dựng thành lập thị xã Thái Hoà, chuẩn bị thành lập thị xã Hoàng Mai, Con Cuông; nhiều thị trấn, trung tâm của các huyện được quy hoạch, xây dựng và nâng cấp; nhiều khu đô thị mới được hình thành và phát triển; bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc.
            3- Văn hóa xã hội được chăm lo và có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện.
            Tạo chuyển biến rõ rệt trong giáo dục, đào tạo. Chất lượng giáo dục mũi nhọn và toàn diện được nâng lên; tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp, đỗ cao đẳng, đại học, số học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh giỏi quốc gia năm sau cao hơn năm trước. Đạt mục tiêu 20/20 huyện, thành, thị được công nhận phổ cập THCS, 100% xã có trường mầm non; cơ bản hoàn thành chương trình nâng cấp các trường trung cấp lên cao đẳng và đại học. Khuyến khích, thu hút đầu tư xây dựng một số trường đại học, các cơ sở đào tạo chất lượng cao để xây dựng Vinh và Cửa Lò thành trung tâm đào tạo, dạy nghề vùng Bắc Trung bộ.
Hoạt động khoa học và công nghệđã hướng vào mục tiêu đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào phục vụ sản xuất và đời sống, nhất là các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Một số đề tài khoa học xã hội và nhân văn được triển khai đã góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp. Thực hiện có hiệu quả 9 chương trình khoa học công nghệ và các nhiệm vụ khoa học công nghệ trọng tâm giai đoạn 2006-2010.
             Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, dân số kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em có nhiều tiến bộ. Tập trung xây dựng trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, tăng cường bác sỹ về cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động y tế, phát triển nhanh các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập. Trang thiết bị, cơ sở vật chất từ tuyến tỉnh, các trung tâm y tế huyện và trạm y tế xã, phường, thị trấn được tăng cường. Mức giảm sinh hàng năm đạt 0,7 ‰. Tỷ lệ tăng dân số đến năm 2010 ước đạt 1% /MT Đại hội <1%.
             Thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Tạo việc làm hàng năm hơn 34 ngàn người/năm; tỷ lệ người thất nghiệp thành thị giảm từ 5,5% xuống còn 3,55%/mục tiêu 3%; bình quân mỗi năm giảm được 12.000-14.000 hộ nghèo, năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 12%, vượt mục tiêu Đại hội đề ra.
            Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân.Quản lý Nhà nước về hoạt động văn hoá, thể thao được tăng cường. Ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả các hủ tục, tệ nạn xã hội, các hoạt động vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa. Xây dựng nhiều dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy hiệu quả các di tích lịch sử, văn hoá gắn với phát triển du lịch, dịch vụ. Năm 2010 ước đạt 80% gia đình được công nhận gia đình văn hoá/mục tiêu 80-85%; 47% làng, bản, khối phố văn hoá/mục tiêu 45-50%; 100% số xã, phường, thị trấn có thiết chế văn hoá, trong đó thiết chế đạt chuẩn quốc gia là 50%. Hệ thống phát thanh truyền hình các cấp được tăng cường về cơ sở vật chất, đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản tiếp tục được củng cố và phát triển. Tổ chức tốt các sự kiện, các ngày lễ lớn.
            4- Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị-xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm: Củng cố cơ sở an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu; bảo đảm an toàn các mục tiêu trọng điểm, an ninh biên giới, các hoạt động chính trị xã hội và an ninh các vùng đặc thù; 100% toà án cấp huyện được tăng thẩm quyền xét xử. Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, quan hệ hữu nghị hợp tác đặc biệt với các tỉnh có chung biên giới của nước bạn Lào, góp phần bảo vệ an ninh biên giới và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
            II- Kết quả công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:
1- Công tác xây dựng Đảng có tiến bộ và đạt được những kết quả quan trọng.
             Công tác chính trị, tư tưởng được tăng cường. Chú trọng xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên, tập trung chỉ đạo có kết quả bước đầu Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh; đổi mới việc triển khai quán triệt, học tập các nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ nên các chủ trương của Đảng sớm đi vào cuộc sống.
            Triển khai có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; hệ thống tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển; hàng năm tổ chức cơ sở đảng được xếp loại trong sạch vững mạnh chiếm tỷ lệ trên 76%; phát triển trên 660 chi bộ đảng trực thuộc đảng uỷ cơ sở, 129 tổ chức cơ sở đảng; số xóm, bản chưa có chi bộ, chưa có đảng viên giảm nhiều; tích cực chỉ đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là vùng giáo và vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện nền nếp việc nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm và cuối nhiệm kỳ; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
             Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được chú trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Thực hiện tốt Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW3 (khoá X) về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo Điều 30 và Điều 32 Điều lệ Đảng; xử lý các vụ việc khá kịp thời, cơ bản các kết luận kiểm tra được thực hiện nghiêm túc.
             Công tác dân vận được đổi mới theo hướng chỉ đạo xây dựng các mô hình, đi sâu, đi sát cơ sở. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW7 (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, phát huy tốt hơn vai trò, tính năng động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
            2- Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Hội đồng nhân dân các cấp đã phát huy vai trò cơ quan quyền lực của địa phương; từng bước cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của các ban HĐND và đại biểu HĐND; thực hiện nền nếp việc tiếp xúc cử tri, nâng cao chất lượng các kỳ họp và hoạt động giám sát.
       Ủy ban nhân dân các cấp đã bám sát các chủ trương của cấp ủy và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân để cụ thể hoá bằng các cơ chế chính sách, giải pháp, các chương trình, dự án và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Công tác chỉ đạo, điều hành được cải tiến cụ thể hơn trong phân công và xác định trách nhiệm cá nhân. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí đạt nhiều kết quả.
            3- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: Đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động,tích cực vươn lên hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ; vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và các phong trào thi đua yêu nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, đoàn thể ngày càng được trẻ hoá.
             B- Những khuyết điểm, yếu kém:
            I- Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chuyển dịch cơ cấu còn chậm; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của tỉnh; một số chỉ tiêu không đạt mục tiêu Nghị quyết:
             Tốc độ tăng trưởng bình quân cả nhiệm kỳ chỉ đạt 9,75%/MT 12-13%. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng chậm. Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp. Chưa có những nguồn thu ngân sách lớn và bền vững. Thu hút đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu; số vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế; dự án lớn mang tính đột phá trong phát triển kinh tế của tỉnh còn ít. Một số dự án trọng điểm kéo dài, chậm phát huy hiệu quả.
            Một số mũi trọng điểm, đột phá trong phát triển kinh tế đạt thấp so với mục tiêu Nghị quyết, như: Xi măng, chăn nuôi đại gia súc; giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, v.v...
            Quy mô nền kinh tế còn nhỏ; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hạn chế. Hợp tác xã chậm được đổi mới. Việc xây dựng, phát triển các làng nghề và làng có nghề tiểu thủ công nghiệp còn chậm và chưa vững chắc.
            Quản lý quy hoạch, đất đai và môi trường ở một số nơi chưa tốt. Quản lý hoạt động khoáng sản có nhiều yếu kém; hiệu quả khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản còn thấp.
II- Một số vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá-xã hội chưa được giải quyết tốt.
 Chất lượng giáo dục toàn diện chưa cao, chênh lệch giữa miền núi và miền xuôi còn lớn. Trường chuẩn quốc gia đạt thấp so với mục tiêu Nghị quyết (đạt 41%/MT 60%).
 Các cơ sở khám, chữa bệnh, nhất là tuyến huyện tuy được nâng cấp, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Một số khuyết điểm trong công tác quản lý hành nghề y dược tư nhân, thực hiện các quy định về y đức... chậm được khắc phục; tỷ lệ sinh con thứ 3+ ở một số nơi còn cao.
            Mức sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa còn thấp. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh chỉ bằng 70% mức bình quân chung cả nước. Sức ép về lao động thiếu việc làm còn lớn. Số người nghiện ma tuý và nhiễm HIV vẫn tiếp tục tăng, tai nạn giao thông còn nhiều.
 An ninh vùng đặc thù và khiếu kiện trong nội bộ nhân dân ở một số nơi còn tiềm ẩn phức tạp, dễ gây mất ổn định.
III- Hoạt động của chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn một số hạn chế.
 Hội đồng nhân dân ở một số nơi chưa thể hiện đầy đủ vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước của địa phương. Chất lượng hoạt động của một số đại biểu còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cử tri. Chất lượng một số kỳ họp, giám sát chưa đáp ứng yêu cầu và mong muốn của nhân dân.
            Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí tuy có tiến bộ nhưng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Sự phối hợp trong chỉ đạo, điều hành ở một số nơi chưa tốt, xử lý công việc ở một số lĩnh vực còn gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Một bộ phận cán bộ công chức trình độ, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, một số có biểu hiện: Cửa quyền, nhũng nhiễu, quan liêu, viphạm các quy định của pháp luật. Công tác dân vận chính quyền một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở có nơi còn hạn chế, chưa phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có lúc, có nơi hoạt động còn mang tính hình thức, hành chính hoá, nội dung và phương thức hoạt động chưa thiết thực. Năng lực tập hợp,vận động quần chúng còn hạn chế.
IV- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức Đảng và đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đoàn kết, cộng sự một số nơi chưa tốt.
 Chưa quan tâm đúng mức đến công tác tư tưởng để tạo sự đồng thuận cao trong đảng và các tầng lớp nhân dân. Nắm bắt dư luận xã hội chưa sâu, chưa chủ động dự báo và định hướng dư luận xã hội. Thông tin kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng Đảng đến với các tầng lớp nhân dân chưa đầy đủ và thiếu kịp thời. Quán triệt và triển khai thực hiện một số chủ trương, nghị quyết của cấp uỷ có nơi, có lúc chưa sâu, còn hình thức, chưa tạo sự thống nhất và nhất quán cao trong nhận thức và tổ chức thực hiện.
Triển khai thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” vẫn còn mặt hạn chế, việc tuyên truyền và nhân rộng các gương điển hình làm theo tấm gương đạo đức của Bác chưa được coi trọng đúng mức; chưa xây dựng được nhiều điển hình tiên tiến là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan đơn vị.
            Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn hạn chế. Vị trí, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng ở một số cơ quan, doanh nghiệp chưa được phát huy tốt. Tự phê bình và phê bình, kỷ cương, kỷ luật còn hạn chế; đoàn kết, cộng sự một số nơi chưa tốt, nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc của cấp uỷ có lúc, có nơi không được thực hiện tốt. Thường trực Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tự phê bình và phê bình thẳng thắn, nhưng có lúc chưa thật sự chân thành và trách nhiệm với nhau. Trong Thường trực Tỉnh uỷ thiếu đoàn kết; trong Ban Thường vụ Tỉnh uỷ có biểu hiện thiếu thống nhất, cục bộ dẫn đến sự phân tâm trong Ban Chấp hành, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
 Công tác đào tạo, quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch cán bộ ở một số nơi chất lượng còn hạn chế. Việc đánh giá, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và tuyển dụng cán bộ nhiều trường hợp chưa đúng, vẫn còn có biểu hiện thiếu khách quan, cục bộ, nể nang, né tránh, chưa điều hoà được chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cả hệ thống. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức.
 Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự tiên phong, gương mẫu, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện, thậm chí có những đảng viên suy thoái phẩm chất đạo đức, tham nhũng, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước, đã làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
            C- Nguyên nhân khuyết điểm, yếu kém và bài học kinh nghiệm:
            I- Nguyên nhân:
Những khuyết điểm, yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là:
            1- Về khách quan: Xuất phát điểm thấp; địa bàn rộng lớn, nhiều vùng, miền, trong đó chủ yếu là miền núi, đời sống còn nhiều khó khăn. Diễn biến bất thường của nền kinh tế thế giới và trong nước (lạm phát, suy giảm kinh tế...). Thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề về tài sản, tính mạng của nhân dân.
            2- Về chủ quan:
 Việc quán triệt, cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng bằng các cơ chế, chính sách của Nhà nước còn hạn chế và thiếu đồng bộ. Nhận thức, tư duy về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, chủ quan, nóng vội, không dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, đang là lực cản lớn đối với quá trình phát triển của tỉnh.
 Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền trên một số lĩnh vực chưa tập trung, thiếu kiên quyết. Trách nhiệm người đứng đầu một số nơi chưa cao, tư tưởng tự thoả mãn, cầm chừng. Kỷ cương, kỷ luật có nơi, có lúc chưa nghiêm; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa đồng bộ; đoàn kết, cộng sự của không ít cấp uỷ đảng còn hạn chế.
 Công tác tổ chức, cán bộ một số nơi còn bất cập. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ, cán bộ quản lý còn hạn chế; chậm tăng cường, củng cố các đơn vị có phong trào yếu kém. Công tác quản lý, kiểm tra giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên có lúc, có nơi chưa chặt chẽ. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu.
 Môi trường xã hội chưa thực sự đồng thuận, một số chỉ tiêu của Đại hội xác định quá cao, trong khi nguồn lực của tỉnh còn hạn chế.
            II- Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đạt được cũng như những khuyết điểm và yếu kém nêu trên, rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
            1- Thường xuyên chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảm bảo các nguyên tắc xây dựng đảng, thật sự phát huy dân chủ, nói đi đôi với làm; kỷ luật, kỷ cương; đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm nền tảng cho sự nhất trí, đồng thuận trong xã hội. Phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị các cấp trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.
2- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn của địa phương. Việc ban hành các chủ trương, chính sách phải trên cơ sở khoa học, thực tiễn và đảm bảo tính khả thi cao. Chú trọng công tác dự báo, kịp thời điều chỉnh, đề ra các giải pháp phù hợp. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, gắn với đề cao trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu, "nói đi đôi với làm" của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
            3- Chăm lo, củng cố đoàn kết nội bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường công tác tuyên truyền; làm tốt công tác dân vận, thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, các địa phương, người Nghệ An trong và ngoài nước.
D- Đánh giá tổng quát:
Giai đoạn 2005 - 2010 tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng kinh tế - xã hội Nghệ An vẫn có bước phát triển khá. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; 21/28 chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra đã đạt và vượt, tạo tiền đề quan trọng cho bước phát triển thời kỳ tới. Tình hình chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Các vấn đề xã hội được chăm lo và có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở ngày càng được củng cố và phát triển.
Tuy vậy, Nghệ An vẫn đang là một tỉnh nghèo; mức tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu Nghị quyết và chưa bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Lao động thiếu việc làm còn lớn; tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn. An ninh vùng đặc thù còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và năng lực chỉ đạo điều hành của các cấp chính quyền so với yêu cầu còn bất cập.
 Phần thứ hai
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
GIAI ĐOẠN 2010-2015.
            A- Phương hướng và quan điểm phát triển:
            Huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là nguồn nhân lực, ưu tiên đầu tư khai thác tiềm năng miền Tây, vùng Biển và đô thị. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên cho các vùng kinh tế trọng điểm và vùng kinh tế khó khăn; chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; giữ gìn và phát huy các truyền thống, bản sắc văn hoá Xứ Nghệ; kiểm soát, kìm giữ, đẩy lùi các tệ nạn xã hội và tội phạm; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Xây dựng Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng vững mạnh.
            Để thực hiện phương hướng trên cần quán triệt các quan điểm sau đây:
            - Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.
Phát huy nội lực gắn với khai thác tối đa nguồn lực từ bên ngoài. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KHCN, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức, tăng cường bảo vệ và làm giàu thêm môi trường.
- Phát triển kinh tế phải gắn với chăm lo tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền.
            B- Mục tiêu tổng quát:
            Tiếptục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; tăng cường đoàn kết, thống nhất; đưa Nghệ An trở thành tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm 2015; tạo cơ sở để đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; phấn đấu xây dựng thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng Bắc Trung bộ.
            C-Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015:
            I- Về kinh tế:
            - Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm: 11-12%.
            - Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng 39- 40%, dịch vụ 39-40%, nông lâm ngư nghiệp 20-21%.
            - Thu ngân sách: 9.500 - 10.000 tỷ đồng.
            - Kim ngạch xuất khẩu: 500-550 triệu USD.
            - GDP bình quân đầu người: Phấn đấu đạt 1.700-1.800 USD.
            - Tổng đầu tư toàn xã hội: Phấn đấu 180.000 tỷ đồng.
            II- Về xã hội:
            - Các xã, phường đều có trường mầm non đủ tiêu chuẩn; trên 65% số trường đạt chuẩn quốc gia.
            - Đạt tỷ lệ 25 giường bệnh trên vạn dân; 100% trạm y tế cấp xã ở đồng bằng và 80-90% ở miền núi có bác sỹ; 95% số xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế.
            - Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống 15%.
            - 95-97% trẻ em trong diện được tiêm chủng.
            - Mức giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,4-0,5‰; tốc độ tăng dân số dưới 1%.
            - 82-85% gia đình văn hoá; 70% làng bản, khối phố, 100% xã, phường, thị trấn có thiết chế văn hoá thể thao (trong đó 60-65% đạt chuẩn quốc gia).
            - 96% dân số nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 97% dân số đô thị được dùng nước sạch.
            - Lao động qua đào tạo đạt trên 55% tổng lao động xã hội; 80% lao động nông nghiệp được tập huấn kỹ thuật.
            - Tạo việc làm và thu hút lao động bình quân 35.000 - 40.000    người/năm.
            - Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2,0%/năm.
            - Đảm bảo độ che phủ rừng trên 55%.
            - 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới.
            III- Quốc phòng, an ninh:
            - 80% số xã, phường, thị trấn; 75% số cơ quan, doanh nghiệp, trường học đạt loại khá trở lên trong phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc".
- 100% các cơ quan tư pháp huyện, thành, thị đạt trong sạch, vững mạnh.
- Hàng năm 75-80% cơ sở xã, phường, thị trấn đạt cơ sở an toàn làm chủ sẵn sàng chiến đấu vững mạnh toàn diện.
IV- Xây dựng Đảng:
- 75-80% số tổ chức cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.
- Trên 95% khối phố, xóm, thôn, bản có tổ chức đảng và đảng viên.
- Kết nạp đảng viên mới bình quân hàng năm 5.500 người.
            D- Nhiệm vụ chủ yếu:
            I - Về phát triển kinh tế:
1- Công nghiệp - xây dựng:
             Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm từ 17-18%. Ưu tiên các nhóm sản phẩm có lợi thế của tỉnh, như: Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, đồ uống; công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, điện, điện tử, công nghệ thông tin, dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ; ưu tiên phát triển các dự án công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, phục vụ cho các dự án công nghiệp quy mô lớn của tỉnh và các Khu kinh tế Nghi Sơn, Vũng Áng.
            Tiếp tục đầu tư, từng bước đồng bộ hoá hệ thống cơ sở hạ tầng công nghiệp. Trong đó chú trọng xây dựng và phát triển Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An có hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; hạ tầng Khu công nghiệp Hoàng Mai, Khu công nghiệp Đông Hồi; Khu kinh tế Cửa khẩu Thanh Thuỷ.
             Phấn đấu đến năm 2015 có tổng công suất xi măng 7 triệu tấn/năm, sản lượng 6,4 triệu tấn/năm; thuỷ điện đạt 800-850MW, xây dựng cụm nhiệt điện Quỳnh Lưu 2400 MW, phấn đấu đưa sản lượng điện đạt 2,9-3,1 tỷ KWh; luyện thép 500.000 tấn/năm; tổng công suất các nhà máy bia là 250 triệu lít/ năm; công suất ép mía đường 15.000 tấn mía/ngày; chế biến đá trắng lên trên 1 triệu tấn/năm; công suất chế biến sữa lên 40-50 triệu lít/năm.
            2- Các ngành dịch vụ:
            Phấn đấu để Nghệ An trở thành trung tâm dịch vụ thương mại, du lịch, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục đào tạo và y tế của khu vực Bắc Trung bộ vào năm 2015. Tổng mức luân chuyển hàng hoá tăng bình quân 16-18%/năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 500-550 triệu USD (xuất khẩu hàng hoá đạt khoảng 250-300 triệu USD). Tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp mạng lưới chợ bao gồm chợ huyện, chợ vùng, chợ nông thôn theo Quy hoạch. Phát triển hệ thống mạng lưới hạ tầng thương mại, nhất là hệ thống chợ, siêu thị. Xây dựng các trung tâm thương mại Vinh - Cửa Lò tầm quốc gia theo đề án xây dựng Thành phố Vinh thành Trung tâm kinh tế- văn hoá vùng bắc Trung bộ.
             Phát triển mạnh các loại hình du lịch văn hoá lịch sử, sinh thái, nghỉ dưỡng, đưa du lịch Vinh - Cửa Lò - Nam Đàn trở thành cụm du lịch, dịch vụ gắn các tua du lịch quốc gia, quốc tế. Mở rộng, phát triển các điểm du lịch Bãi Lữ, Đảo Ngư, Pù Mát,…đồng thời tạo thêm một số điểm du lịch mới, hấp dẫn như: Khu du lịch lịch sử Văn hoá Đền Cuông-Cửa Hiền, Đền Cờn gắn với biển Quỳnh Lưu, Mũi Rồng (Nghi Lộc), lâm viên núi Quyết (Vinh); các điểm du lịch ven Sông Lam và tuyến đường Cửa Hội - Nam Đàn. Xây dựng Thành phố Vinh, Thị xã Cửa Lò thành trung tâm lưu trú và trung chuyển khách du lịch. Phấn đấu năm 2015 đạt 3,5-4 triệu lượt khách du lịch, doanh thu du lịch đạt 3.000-3.500 tỷ đồng, tăng bình quân 20-22%/năm.
             Hiện đại hoá và nâng cao năng lực thông tin truyền thông, công nghệ thông tin. Xây dựng Công viên công nghệ thông tin tại Thành phố Vinh. Phấn đấu đến năm 2015 đưa số máy điện thoại lên 90-95 máy/100 dân. Đưa hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Nghệ An trở thành hệ thống ngân hàng phát triển mạnh và là trung tâm tài chính tiền tệ khu vực Bắc Trung bộ.
            3- Về nông nghiệp, nông thôn và nông dân:
            Tập trung xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đến năm 2015 giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác đạt 47-50 triệu đồng/ha; giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 4,5-5%/năm. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Đẩy mạnh việc gắn kết chặt chẽ "4 nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
             Quy hoạch và phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao; mở rộng diện tích áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế của tỉnh. Ổn định diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, đảm bảo sản lượng lương thực khoảng 1,1 triệu tấn. Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung theo quy hoạch, gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu (tập trung thực hiện cải tạo giống và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật tăng năng suất lạc lên 28 tạ/ha, sản lượng 70.000 tấn; năng suất mía 700 tạ/ha, sản lượng 2,1 triệu tấn mía cây; năng suất sắn 400 tạ/ha, sản lượng 160.000 tấn; trồng mới bình quân hàng năm trên 600 ha để có diện tích chè khoảng 12.000 ha, năng suất 110 tấn búp tươi/ha, sản lượng búp tươi khoảng 103,7 ngàn tấn; diện tích dứa 2.000 ha, sản lượng khoảng 50.400 tấn; diện tích cao su 22.600 ha, sản lượng mủ khô khoảng 8.200 tấn).
             Tập trung chỉ đạo để chăn nuôi phát triển nhanh, mạnh cả về số lượng và chất lượng. Phát triển bò sữa và chế biến sữa, theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với công nghệ tiên tiến. Phấn đấu đến năm 2015 đạt 1 triệu con trâu, bò (trong đó đàn bò cho sữa thường xuyên đạt 25 ngàn con), 1,5 triệu con lợn, 16 triệu con gia cầm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp lên 40-45%.
             Tăng nhanh diện tích rừng trồng, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.   Có chính sách thu hút doanh nghiệp vào trồng rừng, đưa nghề rừng thành một ngành kinh tế quan trọng. Phấn đấu đạt diện tích rừng nguyên liệu khoảng 250 ngàn ha, độ che phủ đạt trên 55%.
            Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt nam đến năm 2020. Phát triển mạnh ngành công nghiệp gắn với kinh tế biển, như công nghiệp chế biến hải sản, công nghiệp cơ khí đóng mới và sửa chữa tàu biển, công nghiệp cảng, dịch vụ cảng và kho bãi phục vụ kinh tế biển. Mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, phát triển nuôi tôm thâm canh. Chú trọng phát triển nghề nuôi ngao, cua; nuôi cá lồng bằng công nghệ mới. Đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống dịch vụ nghề cá ở cảng cá Cửa hội, Lạch Quèn, Lạch Vạn. Phấn đấu sản lượng thủy sản đến năm 2015 đạt 100.000 tấn.
            Tập trung thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới. Phấn đấu đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới; tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề 30-35%; được bồi dưỡng, tập huấn kỹ thuật 80%; đạt 150 làng nghề; có 96% dân cư nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
            4- Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh:
             Giao thông:Tiếp tục đầu tư nâng cấp mở rộng Cảng Cửa Lò. Xây dựng Cảng Đông Hồi. Nâng cấp Sân bay Vinh, mở thêm các tuyến bay trong nước và một số tuyến quốc tế trong khu vực. Mở rộng, nâng cấp quốc lộ 1, quốc lộ 7 và quốc lộ 46, 48. Xây dựng các tuyến giao thông quan trọng: đường trung tâm Vinh - Cửa Lò, đường ven biển, đường nối Thái Hoà - Vùng Hoàng Mai, đường Nam Cấm - Đô Lương - Tân Kỳ phục vụ công nghiệp xi măng, đường đến Cảng số 2 Cửa Lò. Tiếp tục cải tạo và nâng cấp các tuyến tỉnh lộ, đường khu kinh tế, khu công nghiệp, đường du lịch, đường vùng biên giới, giao thông vùng cây nguyên liệu, hệ thống giao thông trên địa bàn miền núi phía Tây, đường vào trung tâm các xã, cầu thay thế bến đò, các cầu vượt, các bến cảng thuỷ nội địa.
             Thuỷ lợi, nước sinh hoạt: Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi để nâng cao hiệu suất sử dụng của các công trình, đảm bảo diện tích tưới ổn định 235.000 ha vào năm 2015. Trọng điểm là các công trình: Hồ Bản Mồng, Hồ Vực Mấu, Cống Nam Đàn, Hồ Khe Lại, hệ thống kênh mương Sông Sào giai đoạn 2, các hồ chứa ách yếu đưa nước phục vụ sản xuất. Đầu tư hệ thống thuỷ lợi phục vụ tưới vùng màu ven biển, cây công nghiệp ở vùng trung du, núi thấp. Nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển, đầu tư cứng hoá mặt đê và trồng cây chắn sóng bảo vệ đê và đảm bảo an toàn trong phòng chống bão lụt.
            Điện: Xây mới, cải tạo mạng đường dây trung thế (loại 22 KV, 35 KV) theo quy hoạch đã được Bộ Công Thương phê duyệt đến năm 2020. Tiếp tục phát triển, cải tạo mạng lưới điện và hệ thống các trạm ở các đô thị, khu công nghiệp và khu vực nông thôn. Xây dựng các trạm 220 KV, 110 KV tương thích với việc tuyền tải điện từ các nhà máy sản xuất điện và nơi tiêu thụ. Phát triển lưới điện 35KV và lưới điện 22KV sau các trạm 110KV đến các xã. Cải tạo hệ thống điện Thành phố Vinh. Phấn đấu trên 98% số hộ được dùng điện bằng các loại nguồn vào năm 2015 và 90% số hộ được bán điện tại nhà.
            Thông tin, truyền thông:Nâng cấp các tổng đài và cáp quang hóa toàn bộ hệ thống truyền dẫn; phủ sóng di động trong toàn tỉnh; phát triển mạng lưới trạm chuyển mạch đáp ứng triển khai mạng 3G; phát triển mạng lưới Internet tốc độ cao, truyền hình kỹ thuật số đến tất cả các xã. Đẩy mạnh và hoàn chỉnh xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin: Đầu tư trang bị máy tính, đường truyền, cơ sở vật chất để kết nối Internet đến các xã; hoàn thiện và đưa vào sử dụng có hiệu quả mạng truyền số chuyên dùng từ trung ương tới tỉnh, huyện, xã; phát triển cáp quang đến các trạm viễn thông, trạm truy nhập; tiếp tục triển khai thực hiện các dự án thuộc đề án phổ cập các dịch vụ bưu chính, viễn thông cho vùng bưu chính, viễn thông công ích. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành. Phổ cập kiến thức và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục - đào tạo từ cấp phổ thông trung học.
            Cấp nước, thoát nước: Xây dựng quy hoạch về nguồn nước cung cấp cho các đô thị và nông thôn, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng khan hiếm nước. Xây dựng thêm các nhà máy nước phục vụ nhu cầu của Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An, các khu công nghiệp và các đô thị; nâng công suất của các nhà máy nước hiện có để đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất. Tập trung đầu tư đồng bộ để nâng cấp, xây mới hệ thống thoát nước mưa và nước thải, bãi thu gom và xử lý chất thải cho các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp.
             Một số hạ tầng kinh tế-xã hội quan trọng khác: Mở rộng cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn, nâng cấp một số cửa khẩu phụ thành cửa khẩu chính (Tam Hợp, Thông Thụ). Hình thành Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy. Hoàn thiện hệ thống hạ tầng các KCN của tỉnh. Tiếp tục thực hiện xây dựng và nâng cấp một số bệnh viện: Bệnh viện Đa khoa Nghệ An 700 giường, bệnh viện vùng Tây Bắc, bệnh viện vùng Tây Nam, một số bệnh viện tuyến huyện, trạm y tế xã; nâng cấp các công trình văn hoá: Khu di tích Kim Liên, Lê Hồng Phong, xây dựng khu di tích Truông Bồn,.... và nâng cấp một số trường cao đẳng lên đại học như: Đại học Y, Đại học Văn hoá,...
            5- Các mũi trọng điểm trong phát triển kinh tế:
             Khai thác, chế biến khoáng sản, trọng tâm là: Xi măng, vật liệu xây dựng, sắt, đá trắng, thiếc: Phấn đấu đến năm 2015 có tổng công suất xi măng 7 triệu tấn/năm; sản lượng xi măng đạt khoảng 6,4 triệu tấn/năm. Thu hút đầu tư xây dựng các nhà máy luyện thép công nghệ cao. Hạn chế bán sản phẩm thô, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm tinh chế, đưa công suất chế biến đá trắng lên 1 triệu tấn/năm.
 Điện: Xây dựng các nhà máy thuỷ điện, đưa tổng công suất các nhà máy thuỷ điện trên địa bàn lên 800-850 MW; Xây dựng cụm nhiệt điện Quỳnh Lưu 2400 MW; phấn đấu đưa sản lượng điện đạt 2,9-3,1 tỷ KWh.
 Bia: Tiếp tục nâng công suất các nhà máy bia, để đến năm 2015 công suất các nhà máy bia đạt 250 triệu lít/ năm.
 Mía đường: Phát triển vùng nguyên liệu mía khoảng 30 ngàn ha, đưa năng suất lên 700 tạ/ha, sản lượng khoảng 2,1 triệu tấn mía cây. Đảm bảo nguyên liệu cho các nhà máy đường với công suất ép đạt 15.000 tấn mía/ngày.
             Chăn nuôi đại gia súc và chế biến sữa: Phát triển chăn nuôi bò và chế biến sữa, tổng đàn bò cho sữa thường xuyên đạt 25 ngàn con; công suất chế biến sữa lên 40-50 triệu lít/năm. Phấn đấu đạt 1 triệu con trâu, bò, 1,5 triệu con lợn, 16 triệu con gia cầm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp lên 40-45% vào năm 2015.
             Kinh tế rừng, trọng tâm là: Trồng và chế biến gỗ, cao su, chè: Đưa diện tích cao su lên 22.600 ha, sản lượng mủ đạt khoảng 8.200 tấn vào năm 2015. Diện tích rừng nguyên liệu lên khoảng 250 ngàn ha, sản lượng gỗ khai thác hàng năm khoảng 300 ngàn m3. Trồng mới bình quân hàng năm trên 600 ha để có diện tích chè khoảng 12.000 ha, năng suất 110 tấn búp tươi/ha, sản lượng búp tươi đạt khoảng 103,7 ngàn tấn.
            Tập trung thực hiện tốt chương trình, dự án công nghệ cao, trước hết là lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học tạo tiền đề để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức.
            6- Phát triển các vùng trọng điểm :
             Thành phố Vinh - Khu kinh tế Đông Nam gắn với Vùng Nam Nghệ - Bắc Hà: Tập trung chỉ đạo thực hiện quyết định số 239/2005/QĐ-TTg ngày 30/9/2005 của Thủ Tướng Chính phủ về xây dựng thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hoá vùng Bắc Trung Bộ và Quyết định 1210/QĐ-TTg ngày 5/9/2009 công nhận thành phố Vinh đô thị loại I. Xây dựng Khu kinh tế Đông Nam thành khu kinh tế đa ngành, đa chức năng gắn với thành phố Vinh trở thành cực tăng trưởng của tỉnh. Tiếp tục hoàn chỉnh xây dựng kết cấu hạ tầng Khu công nghiệp Nam Cấm, Khu công nghiệp Thọ Lộc; phấn đấu đến năm 2015 các doanh nghiệp lấp đầy diện tích với các ngành nghề có giá trị gia tăng cao, chiếm ít diện tích và thân thiện với môi trường.
 Hoàng Mai – Đông Hồi gắn với Vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ: Xây dựng Vùng Hoàng Mai- Đông Hồi trong khu vực Nam Thanh - Bắc Nghệ thành vùng kinh tế trọng điểm theo định hướng được Chính phủ phê duyệt. Phát triển các ngành công nghiệp động lực như xi măng, nhiệt điện, luyện thép, công nghiệp cơ khí, hoá chất (nâng công suất xi măng Hoàng Mai lên 2,8 triệu tấn/năm; xây dựng xi măng Tân Thắng 2,4 triệu tấn, xây dựng Nhà máy nhiệt điện 2.400MW, Nhà máy luyện thép 500.000 tấn/năm); đầu tư xây dựng Cảng Đông Hồi, hạ tầng KCN Đông Hồi, KCN Hoàng Mai.
             Tân Kỳ - Đô Lương - Nghĩa Đàn - Thái Hoà - Quỳ Hợp gắn với Miền Tây Nghệ An: Hướng phát triển là chăn nuôi đại gia súc (đặc biệt là bò sữa), cây công nghiệp và kinh tế lâm nghiệp. Phát triển các ngành công nghiệp động lực: Thủy điện, xi măng, vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản, khai thác khoáng sản. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án xi măng Đô Lương, Tân Kỳ, các nhà máy thuỷ điện Nhãn Hạc, Khe Bố, Hủa Na...; xây dựng một số cơ sở sản xuất gạch ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, khai thác và chế biến đá trắng và đá granit ở Quỳ Hợp, Tân Kỳ. Xây dựng các khu công nghiệp: Phủ Quỳ, Nghĩa Đàn, Sông Dinh, Tân Kỳ và một số khu công nghiệp nhỏ khác trên địa bàn các huyện miền núi. Đẩy mạnh việc hình thành các thị tứ, phát triển hệ thống chợ. Hình thành Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thuỷ.
             II- Phát triển văn hoá-xã hội:
1- Phát triển giáo dục đào tạo và dạy nghề:
            Nâng cao chất lượng giáo dục ở Miền núi, chú trọng chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng và đưa các nội dung giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, văn hoá Xứ Nghệ… vào các trường học. Củng cố mạng lưới trường, lớp. Phấn đấu đến năm 2015 nâng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ lên 25%, trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 85%; 99,5% trẻ em trong độ tuổi tiểu học được đến trường, 60% số học sinh lớp 3 được học ngoại ngữ theo chương trình mới; 75% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; tỷ lệ hoàn thành cấp học được duy trì ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học; thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, Thái Hoà và một số huyện có điều kiện kinh tế xã hội phát triển đạt phổ cập giáo dục trung học; 65-70% số trường mầm non và phổ thông toàn tỉnh đạt chuẩn quốc gia.Xây dựng, mở rộng quy mô Đại học Vinh, Đại học Y khoa Vinh, Đại học sư phạm kỹ thuật, Đại học công nghệ Vạn Xuân; sớm hoàn thành nâng cấp các trường cao đẳng thành Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật, Đại học Văn hoá. Xây dựng Thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò thành Trung tâm đào tạo đại học, dạy nghề của vùng Bắc Trung bộ.
             2- Phát triển văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao:
             Tiếp tục đẩy mạnh vànâng cao chất lượng cuộc vận động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Chú trọng xây dựng các đơn vị văn hoá, gia đình văn hoá một cách thực chất. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hoá, đảm bảo an ninh văn hoá. Duy trì và khôi phục các lễ hội truyền thống, phát triển rộng khắp các phong trào văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng. Củng cố các mối quan hệ truyền thống, bản sắc văn hoá Xứ Nghệ. Bảo tồn và phát huy có hiệu quả các di tích lịch sử, văn hoá gắn với phát triển du lịch. Phấn đấu năm 2015 có 82-85% gia đình văn hoá; 45-50% làng, bản, khối phố văn hoá; đảm bảo 100% xã phường có thiết chế văn hoá, trong đó có 60-65% đạt chuẩn quốc gia; 30-35% số dân thường xuyên tham gia luyện tập thể dục thể thao, 20-25% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao. Phấn đấu đến năm 2015 Nghệ An trở thành một trong 10 trung tâm thể thao mạnh của cả nước.
             Xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới của quê hương, đất nước. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
             Thực hiện tốt việc phát sóng phát thanh - truyền hình Nghệ An qua kênh Vinasat, từng bước chuyển đổi phát sóng truyền hình theo hướng số hoá, nhằm tăng chất lượng hưởng thụ của người dân và diện phủ sóng phát thanh truyền hình quốc gia và đài tỉnh ở vùng sâu, vùng xa, vùng lõm.
             Phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội vì lợi ích của nhân dân và đất nước, khắc phục xu hướng thương mại hoá đơn thuần, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản.
            3- Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân và dân số, kế hoạch hoá gia đình:
            Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh gắn với đề cao y đức của người thầy thuốc. Tăng cường công tác y tế dự phòng, cung cấp những kiến thức cơ bản về phòng ngừa bệnh tật, chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng. Chủ động phòng chống, không để phát sinh dịch lớn. Giảm tỷ lệ mắc và chết do các bệnh truyền nhiễm; kìm hãm đại dịch HIV/AIDS, chủ động phòng chống đại dịch cúm ở người (H1N1).
             Từng bước nâng cấp và hiện đại hoá hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện vùng, các trung tâm y tế huyện, trạm xá phường, xã, thị trấn, phát triển nhân lực cho ngành y tế. Hoàn thành bệnh viện đa khoa tỉnh (700 giường bệnh), bệnh viện đa khoa vùng Tây Bắc (250 giường bệnh), bệnh viện đa khoa vùng Tây Nam (150 giường bệnh). Xây dựng Trường Đại học Y tại cơ sở 2, thu hút xây dựng Bệnh viện Y học hạt nhân và Ung bướu, Trung tâm huyết học truyền máu, các bệnh viện chuyên khoa, đa khoa để Nghệ An trở thành Trung tâm y tế của vùng Bắc Trung Bộ. Phấn đấu đến năm 2015 đạt tỷ lệ 25 giường bệnh trên 1 vạn dân, 7 bác sĩ trên 1 vạn dân; 80-90% trạm y tế cấp xã ở miền núi và 100% trạm y tế cấp xã ở đồng bằng có bác sĩ; 95% số xã phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế.
 Đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hoá gia đình để giảm tỷ lệ sinh hàng năm 0,4-0,5‰, dân số trung bình đạt khoảng 3,09 triệu người vào năm 2015. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá đến năm 2015 có 20-25% dân số đô thị.
            4 - Lao động, việc làm và an sinh xã hội:
             Phấn đấu hằng năm tạo việc làm cho khoảng 35-40 ngàn người. Đến năm 2015, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống còn 3%; tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng tăng lên 24,20%, thương mại, dịch vụ 25,8%, khu vực nông - lâm- ngư nghiệp giảm xuống dưới 50%. Triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn và các xã nghèo chương trình 30a/CP của Chính phủ. Phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 2%. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công và công tác bảo trợ xã hội. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân tham gia công tác đền ơn đáp nghĩa”. Nâng cao mức sống cho các đối tượng chính sách bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm nhân thọ… bảo đảm môi trường an sinh cho nhân dân.
            5 - Khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường:
            Xây dựng và phát triển năng lực khoa học công nghệ đạt mức khá so với các địa phương khác trong cả nước. Trọng tâm là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, tạo ra khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ đầu vào. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả 12 chương trình khoa học công nghệ cấp tỉnh.
              Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường.Triển khai thực hiện tốt việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu vực trung tâm thành phố thị xã, khu dân cư. Tập trung giải quyết ô nhiễm môi trường tại các KCN, bệnh viện, khu dân cư, chợ. Hoàn thành 100% việc xây dựng các khu neo đậu tầu, thuyền tránh trú bão theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc nghề cá; 100% tàu, thuyền đánh bắt xa bờ có đủ thiết bị thông tin liên lạc.
            III - Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội:
            Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng cơ sở, cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc gia, an ninh biên giới và các vùng đặc thù. Nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chiến tranh tâm lý, tự diễn biến, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch. Phòng ngừa và đấu tranh không để hình thành tổ chức chính trị đối lập. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh và phát huy tốt quan hệ quốc tế, nhất là với các tỉnh của bạn Lào.
            Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân ngay từ cơ sở. Không để xẩy ra điểm nóng, hạn chế tối đa đoàn đông người và đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp lên tỉnh và Trung ương.
            IV- Đổi mới công tác vận động quần chúng, nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
1- Mặt trận Tổ quốc: Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tăng cường đồng thuận xã hội, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh. Thực hiện cơ chế tư vấn, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới chính sách, chế độ đối với cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong thời kỳ mới.
2- Tổ chức công đoàn: Đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho người lao động. Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng. Tích cực vận động công chức, nhân viên và người lao động thực hiện quy chế dân chủ, tham gia thực hiện tốt cải cách hành chính.
3- Hội nông dân:Phát huy vai trò trung tâm nòng cốt trong công tác tập hợp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân và xây dựng nông thôn mới. Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án "Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020", theo tinh thần Kết luận 61-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương.
4- Đội ngũ trí thức. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 7 (khoá X) và Chương trình hành động của Tỉnh uỷ về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
5- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 7 (khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống của đoàn viên, thanh niên.
6- Hội liên hiệp phụ nữ: Đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, giúp nhau xoá đói giảm nghèo; xây dựng gia đình hạnh phúc; thường xuyên chăm lo công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ nữ, tuyên truyền thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để chị em phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động chính trị, kinh tế - xã hội. 
7- Hội Cựu chiến binh:Tiếp tục pháthuy bản chất, truyền thống "Bộ đội cụ Hồ", tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.
8- Có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp; phát huy tiềm năng và vai trò tích cực những người Nghệ An sinh sống, học tập trong và ngoài nước, đóng góp xây dựng quê hương giàu mạnh.
9- Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hoá, sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc.
10- Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Phòng chống, đấu tranh với những âm mưu, hành động chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
11- Phát huy những giá trị đạo đức, văn hoá tốt đẹp của tôn giáo. Động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
V- Kiện toàn, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy Nhà nước.
            Tiếp tục cải tiến nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trên tất cả các lĩnh vực. Củng cố, kiện toàn bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban nhân dân các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, coi đây là một trong những khâu đột phá để thu hút đầu tư, xây dựng nền hành chính của tỉnh từng bước hiện đại, chuyên nghiệp.
            VI- Tăng cường xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
 1- Công tác chính trị, tư tưởng:
            Có nhiều hình thức giáo dục, tuyên truyền phù hợp để đưa chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo các cấp.
             Tập trung làm tốt công tác tư tưởng, định hướng dư luận, tạo đồng thuận cao để phát triển. Khắc phục bằng được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hẹp hòi, níu kéo, nóng vội, chậm thích ứng với cơ chế mới. Tạo phong trào thi đua, khuyến khích và bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trên cơ sở đó, chấn chỉnh tác phong, lối sống, nâng cao đạo đức, trách nhiệm, kỹ năng công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
            Tăng cường công tác quản lý báo chí, thông tin, bảo đảm chủ động, thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng định hướng về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh đưa tin bất lợi, tạo dư luận xấu, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân. Có biện pháp đấu tranh với các luận điệu vu khống, xuyên tạc của thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước.
            2- Công tác tổ chức, xây dựng Đảng:
            Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, quan tâm những người lao động trực tiếp, đội ngũ trí thức, tuổi trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, giáo dân... và lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; thường xuyên tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết nội bộ, nhất là trong thường trực, ban thường vụ cấp uỷ.
            Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác tổ chức cán bộ. Rút kinh nghiệm để làm tốt hơn công tác đào tạo, quy hoạch, đánh giá, bố trí đúng cán bộ. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút. Khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp; xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp. Thực hiện nhất thể hoá một số chức danh lãnh đạo cấp cơ sở. Mở rộng thực hiện một số chức danh lãnh đạo chủ chốt không phải người địa phương. Thực hiện tốt hơn công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác an ninh nội bộ trong tình hình mới.
            3- Công tác kiểm tra, giám sát, phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí:
            Cấp uỷ đảng các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; nội dung trọng tâm vào việc thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của TW, của Tỉnh uỷ và cấp uỷ cùng cấp. Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải nắm chắc và kịp thời kiểm tra, xử lý và tham mưu xử lý các tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ. Gắn kiểm tra, thanh tra với phòng chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết kịp thời, dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
            4- Công tác dân vận: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu qủa công tác dân vận. Quan tâm tổ chức bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận các cấp. Có chính sách động viên cán bộ dân vận cơ sở, cốt cán vùng giáo, già làng, trưởng bản vùng dân tộc thiểu số.
5- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
            E- Những giải pháp chủ yếu:
I- Nâng cao nhận thức tư tưởng, đẩy mạnh công tác dân vận, tạo đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong nhân dân, phát huy truyền thống cách mạng để tạo động lực cho quá trình phát triển:
            Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền, cung cấp đầy đủ, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, những thành tựu đã đạt được cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tăng cường công tác đối thoại, cung cấp thông tin một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện để người dân tham gia giám sát; đồng thời có biện pháp tuyên truyền rộng rãi để nhân dân hiểu, đồng tình ủng hộ, tạo môi trường xã hội đồng thuận, thuận lợi cho thu hút đầu tư.
            Tiếp tục phát huy các giá trị truyền thống lịch sử, cách mạng và văn hoá của quê hương, đức tính cần cù, hiếu học của người dân Xứ Nghệ, tạo nên hào khí mới xây dựng quê hương. Làm cho khát vọng vươn lên thoát khỏi đói nghèo, trở thành khá giả, giàu có là mục tiêu, là quyết tâm, là niềm tự hào của mỗi người dân, mỗi gia đình, làng xóm, cơ quan, đơn vị.
             Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác dân vận. Thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị theo Quyết định 290-QĐ/TW. Tạo sự chuyển biến rõ nét về công tác dân vận của các cấp chính quyền, cơ quan nhà nước, các lực lượng vũ trang.
            II- Tập trung phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu thế phát triển chung của nền kinh tế.
             Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh uỷ (khoá XVI) về chương trình phát triển nguồn nhân lực.Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đảm bảo cả về thể lực và trí lực trên cơ sở củng cố hệ thống giáo dục từ bậc mầm non, phổ thông, đến đào tạo chuyên nghiệp và phát triển hệ thống hạ tầng xã hội như giáo dục-đào tạo, y tế, văn hoá. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy tốt năng lực.
            III- Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí:
            Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính một cách mạnh mẽ và đồng bộ, nhất là cải cách thủ tục hành chính trên các lĩnh vực thu hút đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, tài chính, cán bộ theo hướng giải quyết công việc thuận lợi nhất, nhanh nhất cho dân và nhà đầu tư. Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn giỏi đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; xử lý kịp thời và nghiêm khắc đối với những cán bộ, công chức lợi dụng công vụ để nhũng nhiễu, hạch sách, tham ô, tham nhũng, nhận hối lộ.
Thực hiện phân cấp triệt để và toàn diện theo quy định hiện hành cho các ngành, cáchuyện, thành, thị và các xã, phường, thị trấn. Nguyên tắc của phân cấp là: Việc gì, cấp nào quản lý có hiệu quả nhất, thiết thực nhất thì giao cho cấp đó quản lý và điều hành, nhưng phải đảm bảo sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
             Thực hiện tốt chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Công khai minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, khoáng sản, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng phí tài sản của nhà nước và nhân dân. Khuyến khích, bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. 
            IV- Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, xây dựng quy hoạch:
            Rà soát lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội các địa phương để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với định hướng phát triển của Trung ương và của tỉnh.Xây dựng quy hoạch chi tiết các ngành, lĩnh vực, nhất là các vùng kinh tế, khu công nghiệp và đô thị mới. Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch.
            V- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển:
            Tiếp tục nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách nhằm thu hút các nguồn lực trong đầu tư phát triển, trong đó tập trung vào các chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tăng cường công tác xúc tiến vận động tạo nguồn lực đầu tư ngoài vốn ngân sách nhà nước. Chủ động lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng các chương trình dự án để cung cấp cho các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh để họ có điều kiện lựa chọn và quyết định đầu tư.
             Triển khai có hiệu quả các giải pháp tạo nguồn thu, chống thất thu, tiết kiệm chi, chống thất thoát trong đầu tư xây dựng để tạo nguồn phục vụ cho đầu tư phát triển. Làm tốt quy hoạch hạ tầng để tạo quỹ đất. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp trong phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
            Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư và xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình đầu tư xây dựng. Tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc quản lý và sử dụng các dự án bằng nguồn vốn nhà nước.
VI- Đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ:
            Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh, trong quản lý hành chính Nhà nước và trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của các ngành, các cấp. Tiếp cận nhanh và áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, hình thành và phát triển một số lĩnh vực công nghệ cao, trước mắt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả các đề tài khoa học, đảm bảo các kết quả nghiên cứu phải được ứng dụng có hiệu quả trong thực tế. Có chính sách phù hợp, khuyến khích trọng dụng nhân tài, tôn vinh những người làm công tác khoa học có nhiều cống hiến cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
            VII- Chăm lo bảo vệ tốt môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên:
             Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường đối với mọi người dân. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Bảo đảm yêu cầu về môi trường ngay từ khâu thẩm định, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nghiêm cấm việc nhập ngoại các dây chuyền, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng và đã lạc hậu. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
             Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt.Tăng cường công tác kiểm tra, tổ chức tốt việc khai thác, chế biến khoáng sản.
            VIII- Nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện:
Trong nhiệm kỳ Đại hội XVII, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm và các chương trình, đề án trọng điểm sau:
1- Những nhiệm vụ trọng tâm:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.
- Đẩy mạnh công tác tư tưởng, cải cách hành chính, tạo đồng thuận cao để phát triển kinh tế-xã hội.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước.
- Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là giao thông, thuỷ lợi, đô thị.
2- Các chương trình, đề án trọng điểm:
                - Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
- Đề án phát triển Thành phố Vinh trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá vùng Bắc Trung bộ.
- Đề án phát triển kinh tế xã hội Miền Tây thời kỳ 2010-2020.
- Đề án nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
                                                           *
                                                                                   *      *
Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII là Đại hội thể hiện ý chí, nguyện vọng của Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh nhà trong thời kỳ mới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện phát huy truyền thống cách mạng của quê hương Xô - Viết anh hùng, quê hương của Bác Hồ muôn vàn kính yêu, dấy lên phong trào thi đua yêu nước, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, khai thác tốt mọi nguồn lực, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2010-2015 sẽ quyết nghị./.
                                                                                                         

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511207

Hôm nay

2206

Hôm qua

2359

Tuần này

21581

Tháng này

218080

Tháng qua

121356

Tất cả

114511207