Đức Hưng: Cơ duyên nào để ông, một người con xứ Nghệ lại bén duyên cùng Hò khoan Lệ Thủy Quảng Bình?
Nguyễn Hùng Vĩ : Đúng là thiên duyên thật. Tôi nhận lời mời của UBND tỉnh Quảng Bình làm kịch bản và tổng đạo diễn cho Đại lễ hội Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoằng Phúc lần đầu tiên tổ chức. Họ yêu cầu có một số tác phẩm mang tinh thần văn hóa Phật giáo, nhưng theo dân ca Quảng Bình để biểu diễn sân khấu quảng trường. Thời gian chỉ trong vòng 30 ngày tập tành, chuẩn bị từ rằm tháng chạp đến rằm tháng giêng. Ở giữa là nghỉ Tết âm lịch. Chuyện khó như đi lên trời so với một đại lễ hội.
Tan họp ở Hà Nội, tôi lấy vé máy bay đi Quảng Bình vào 16/12 âm lịch. Rét không thể tả.
Vào Lệ Thủy, chị Thúy, phó phòng VHTT dẫn ngay tôi và nhà văn Nguyễn Thế Tường đi tìm nghệ nhân. Tôi muốn nghệ nhân tại chỗ hát vì như thế sẽ tạo nên sự đồng thuận và ủng hộ của người đi hội. Và tôi đã gặp được vàng trong chốn dân gian đó. CLB Nghệ nhân Hò khoan Lệ Thủy thành lập được hơn 5 tháng và hoạt động sôi nổi. Đặc biệt, những giọng hát tuổi 60 đến 65 chinh phục tôi, người vốn nhiều năm đi nghe dân hát khắp nơi trên cả nước. Khả năng dàn dựng và trình diễn sân khấu cũng rất ổn. Nhưng cao hơn cả là tình người: thuần hậu, đậm đà, lễ nghĩa, vui vẻ… Tôi bị “say…rét” ngay với họ.
Trong 2 ngày, tôi viết 2 tác phẩm là “Huyền thoại Trần Nhân tông” (Hoàng đế đầu tiên dựng am Phật trên đất này) và “Xuống thuyền đi hội chùa Quan”. Không ngờ, mươi ngày sau tôi bay vào thì họ đã dàn dựng tương đối ổn, đàn ngọt, hát hay, diễn có phong cách. Thành viên CLB tối tối quấn áo quần tùm hum tập giữa sân gió rét, xe đạp xe máy xếp dồn một góc sân. Tôi nhiễm lạnh mất hết cả giọng.
Đó là cơ duyên để tôi đến với họ và tình nguyện làm một thành viên…”thông tấn” của CLB đó.
Đức Hưng: Nhưng trước đó, ông đã hát được Hò khoan chưa mà viết tác phẩm?
Nguyễn Hùng Vĩ : Nghề của tôi là nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian, văn hóa dân gian. Dân ca mọi vùng miền tôi đều phải đi đến, thăm hỏi và đọc tài liệu phục vụ việc lên lớp. Cách đây 25 năm, tôi đã từng đến Lệ Thủy nghe một số người hát và đã từng hướng dẫn một luận văn tốt nghiệp đại học về dân ca này. Thế thôi nên cũng biết sơ sơ. Nhưng dân ca các vùng có những điểm tương đồng về khúc thức, nói chung là 85% là lời lục bát biến thể, sau đó là song thất lục bát biến thể rồi mới đến vãn 5, vãn 4, phú, thơ… Cứ năng văn, am hiểu văn hóa địa lí, có bộ ngôn ngữ thế kỉ XIX… là có thể viết lời được. Các bản tôi viết, nghệ nhân rất thích vì nó cổ kính “như ngày xưa”. Họ khen dễ hát, dễ bắt, dễ chắp câu, dễ diễn là tôi mừng rồi. Viết cho ai, tôi lựa theo màu sắc giọng người đó nên họ nhập vai nhanh lắm. Các tiết mục khi công diễn đem đến sự thích thú, hứng khởi cho người xem, người nghe.
Ví đò đưa sông Lam, sông La, ví phường vải… có những tương đồng về âm hình mái ruổi, mái dài, mái chè… nên càng thuận lợi cho tôi khi soạn lời văn.
Đức Hưng: Theo ông, Hò khoan Lệ Thủy có những đặc sắc gì so với dân ca Ví giặm?
Nguyễn Hùng Vĩ : Cuộc giao lưu chưa thỏa lòng vì thời gian có hạn. Các bài bản cổ chưa trình diễn nhiều nên bạn còn thiệt thòi chưa nghe được nhiều. Ít nhất, hò khoan Lệ Thủy có những đặc sắc cần nói tới. Thứ nhất, ghi chép về nó đã xuất hiện rất xa xưa. Năm 1553, khi viết “Ô châu cận lục”, Tiến sĩ Dương Văn An đã nhắc tới các tục hát Đưa linh, Chèo cạn, Hát thẻ… mà ngày nay vẫn còn tồn tại ở đó. Thứ hai, dân ca này hầu như thuần túy gắn với lao động thực tiễn, sinh hoạt tinh thần dân giã của dân mà ít dấu vết cung đình nhất. Thứ ba, vì các mái hò đều nhất thiết có “xướng” và “xố” (xô) nên khi trình diễn, người hát và người nghe đều có thể tham gia, tạo nên tính hòa đồng, tinh thân dân chủ cổ sơ rất cao. Thứ tư, nó mang cốt cách các hoạt động lao động trực tiếp (giã gạo, nện nền, đấp đất, cấy lúa, chèo thuyền, kéo lưới, kéo gỗ, lỉa trâu…) nhưng tính trữ tình tràn ngập trên cả giai điệu mềm mại và cả lời ca tình tứ. Thứ năm, khả năng bao dung của nó rất cao: nó sẵn sang giao lưu, tiếp nhận Ví giặm, ca Huế để làm giàu cho chính mình và để lan tỏa cho cộng đồng. Thứ sáu, đây là văn nghệ toàn dân, người nào cũng yêu thích, biết tối thiểu là xố, hơn nữa là hát mái xắp, kể vè. Ai đã vào cuộc cũng là một nghệ sĩ dân gian. Đến nay vẫn không nguôi tình thần đó. Số người già biết hò hiện nay trong cộng đồng vẫn rất nhiều.
Đức Hưng: Ông có nghĩ một ngày nào đó, Hò khoan Lệ Thủy cũng trở thành Di sản phi vật thể như Ví giặm Nghệ Tĩnh không?
Nguyễn Hùng Vĩ : Đúng là nếu có một ngày đẹp giời! Cán bộ tỉnh huyện khi tiếp xúc với tôi cũng rất mong muốn điều đó. Nghệ nhân cũng rất kì vọng điều đó. Nhưng tôi trả lời, tôi chỉ biết giúp về chuyên môn, làm sao cho nó được thấu hiểu, bảo lưu, phát triển, quảng bá, làm sao không mai một đi một đặc sắc văn hóa dân tộc. Còn thừa nhận nó là Di sản văn hóa này nọ đó là trách nhiệm của một thiết chế văn hóa, thiết chế chính trị. Một thiết chế không thừa nhận những đặc sắc văn hóa quí báu cho dân tộc, cho quốc gia là một thiết chế không hoàn thành trách nhiệm, không xứng đáng ăn đồng lương. Tôi dị ứng với các từ “chạy”, “đi xin” di sản. Tại sao lại phải chạy và xin nhỉ? Nhưng xã hội bây giờ nó vậy. Tôi chỉ biết làm cho tốt thôi, đó là lương tâm, là nghề nghiệp, là cái “đạo” mà mình theo.
Đức Hưng: Nhưng hỏi một câu nhạy cảm: Ông lấy kinh phí đâu để có những chuyến đi bất tận, cả những quà tặng không nhỏ cho CLB?
Nguyễn Hùng Vĩ : Cơm áo không đùa với khách thơ. Đúng thế. Nhưng bạn tưởng tượng bạn đi du lịch hàng năm, trong nước hay nước ngoài, bạn cũng rất tốn kém chứ. Vậy thì tôi đi “du khảo”. Vừa du lịch, vừa khảo cứu, vừa giúp đỡ CLB. Tiền nó cũng như đi du lịch thôi mà lại thú vị hơn, giúp được nhiều người, mình tăng thêm hạnh phúc của sự hiểu biết, có thêm người thân chia ngọt sẻ bùi. Người nghèo họ còn có nhiều sáng kiến từ thiện cho cộng đồng, người giàu họ còn cúng dường cho chùa chiền… vậy thì tôi, tạm đủ ăn, hà cớ gì tôi không giúp CLB, chưa kể đó là nghề nghiệp, là đạo sống của tôi. Không có nghệ nhân thì tôi đâu có nghề đi dạy và nghiên cứu này để ăn lương, để có hưu khi về già. Tôi được bạn bè, những người hiểu mình ủng hộ “cuộc chơi” thú vị này. Có người như TS Nguyễn Phương Liên đã gửi nhạc cụ tặng cho CLB. Có nhà báo như Tô Hà đã tài trợ, hướng đạo cho chuyến đi 3 tỉnh miền trung của một nhóm nghệ nhân…Những người tốt trong xã hội còn rất nhiều và họ sẽ ủng hộ.
Đức Hưng: Vậy kế hoạch sắp tới của ông sẽ như thế nào cho sự phát triển của Hò khoan Lệ Thủy?
Nguyễn Hùng Vĩ : Tôi vốn không kế hoạch tự bao giờ. Tôi sống và hành động theo tình cảm. Cố gắng chơi cho vui, cho đẹp, cho hữu ích. Còn sức còn đi lại, viết lách và để sống tử tế với nghệ nhân. Ngày xưa, nhiều người là tấm gương của sự hi sinh vì Hò khoan trong chiến tranh và đói kém. Nhà giáo Hoàng Đình Luyện, đồng môn của tôi, người học khóa đầu tiên (trước cả khóa I) Văn khoa Đại học Tổng hợp, là một người như vậy. Tôi muốn học theo tấm gương của Ông.
Sắp tới, tôi đang nhờ sự giúp sức của bè bạn, của những hội đồng hương Quảng Bình, đồng hương Lệ Thủy để đưa được CLB đi giao lưu, học hỏi trên nhiều vùng miền. Có thế mới trưởng thành hơn, đồng thời quảng bá rộng rãi hơn, có ích hơn.
Đức Hưng: Xin cám ơn ông đã dành cho chúng tôi cuộc gặp gỡ thú vị này.