Một luật khoa học có thể được định nghĩa như sự cô động về liên hệ thường xãy ra giữa hai hiện tượng. Cái liên hệ này đã được minh chứng. Ta có những luật như luật Achimède, luật Newton, … “Cha nào con nấy”, “kết hôn với người giống mình” là vài thí dụ điển hình của luật xã hội học – dĩ nhiên đó là những luật tương đối. Nhưng trong khoa học, rất nhiều luật chỉ là những luật tương đối vì có những trường hợp ngoại lệ. Luật di truyền là một thí dụ chẳng hạn..
Trở về luật “khởi điểm của cuộc sống vợ chồng” ta biết rằng khi một cặp vợ chồng thành hôn, thì khởi điểm của cuộc sống lứa đôi rất rõ ràng : ngày kết hôn. Nhưng khi một cặp đôi không kết hôn thì từ lúc nào cuộc sống như chồng vợ thực sự bắt đầu?
Một cách hóm hỉnh, trong một hội nghị ở Liège vào đầu thập niên 1990, Jean-Claude Kaufmann kể chuyện về cách “diễn tiến” của các cặp đôi thời ấy, “các bạn trẻ những lần đầu tiên đến ở nhà người kia chỉ mang theo cái bàn chải đánh răng. Kế đó, vào thời điểm tiếp theo, bạn trẻ ấy sẽ mang theo ít áo quần để thay đổi – nhưng vẫn mang đồ dơ về nhà mình giặt. Từ từ, họ ở bên nhau nhiều ngày hơn và bắt đầu giặt áo quần cùng nhau.
Ông dẫn thêm: Thành ngữ Pháp vẫn nói, “Ta giặt áo quần dơ trong bốn bức tường của gia đình” – on lave le linge sale en famille – ấy mà. Tức là gia đình được cấu thành khi cặp đôi cùng giặt giủ với nhau, hay cùng đi mua một cái máy giặt.
La trame conjugale, analyse du couple par son linge. NXB Nathan, 1992.
Trong dấu ngoặc, thành ngữ nói trên chủ ý nói rằng những chuyện gia đình không nên bày ra giữa thanh thiên bạch nhật. Cách nói của ông Kaufmann là một cách khả ái lạm dụng thành ngữ trên.
.
Cũng vào thời ấy, ông nổi tiếng với quyển sách “ Thân thể phụ nữ Ánh nhìn nam giới – Xã hội học về ngực trần”.
Corps de femmes Regards d’hommes. Sociologie des seins nus. NXB Nathan, 1995.
Trong quyển sách này, ông mô tả một cấm kỵ dưới khía cạnh nghiêm chỉnh của khoa học. Để ngực trần ở bải biến lúc đó là một phong trào mới, là hình ảnh của người phụ nữ được giải phóng, nhưng nam giới phản ứng thế nào về hiện tượng đó, xã hội chấp nhận như thế nào lại là một chuyện khác … Trong tất cả mọi trường hợp, đề tài mà ông Kaufmann nghiên cứu được giới chuyên ngành đánh giá cao.
Mấy mươi năm trôi qua, ông Kaufmann vẫn miệt mài khảo sát thực địa và đã xuất bản hơn hai mươi sách. Quyển ông cho ra mắt đầu năm 2015 là chủ đích của bài này:
Un lit pour deux.
La tendre guerre (Một cái giường cho hai người. Cuộc chiến tranh dịu dàng).
NXB
Lattès, 2015, 282 trang.
Dẫn nhập: tựa sách và phương pháp
Thay vì nói chuyện phòng the theo nghĩa thông thường của các báo muốn câu người đọc, nhà xã hội học Jean Claude Kaufman đặt một câu hỏi giản dị: Ông/bà làm gì ở giường ngủ trong mục Khảo sát trên blog của ông. 209 bạn đọc đã trả lời câu hỏi ấy với những chứng từ, những hoàn cảnh riêng tư. Khảo sát vô danh nên bạn đọc đã …mở lòng. Và đó là những dữ kiện để khai thác. Một cách nghiêm túc.
Qua những “kinh nghiệm” những “chứng từ” đó ông Kaufmann đã thấy rằng cái giường ngủ là cả một thế giới với nhiều giằng co: phải chia không gian của cái giường, được thỏa mản nhu cầu gần gũi, nhu cầu tình cảm, với người bạn đời hay bạn tình thật đấy nhưng đồng thời phải làm sao không phải hi sinh phần tiện nghi và giá trị sống của bản thân.
Các bác sĩ chuyên về giấc ngủ cũng đã cho biết từ ba thập kỷ rằng ngủ cùng giường với ai đó là thêm nguy cơ mất ngủ – người đó có thể không cùng thời dụng biểu sinh học, người đó có thể ngáy suốt đêm, hay đơn giản hơn, ông hay bà đó cử động trở mình và làm phiền người cùng giường…
Đến đây ta cũng có thể nghĩ tới bài thơ của Louis Aragon (nhà thơ người Pháp, 1897-1982)
Nous dormirons ensemble, trong đó có đoạn một: :
Dù là chủ nhật hay thứ hai Tối khuya hay ban mai
Trong địa ngục hay ở thiên đường Tất cả những mối tình hao hao giống
Anh nói với em hôm qua Chúng ta sẽ ngủ cùng nhau
“Chúng ta sẽ ngủ cùng nhau”, trong tâm khảm của nhiều người, là biểu tượng của tình yêu, là bổn phận và hạnh phúc của hai người yêu nhau, của hai vợ chồng.
Trong những dữ kiện mà Jean Claude Kaufmann thu thập được, theo chứng từ của những người trẻ thì một số cũng lãng mạn như bài thơ của Aragon. Ngủ chung để gần gũi với người bạn đời, để dùng tất cả ngôn ngữ, kể cả ngôn ngữ của thân thể, để thể hiện tình cảm.
Lúc đầu đời của các cặp đôi, ngủ cùng nhau trong cùng giường là ước vọng nồng cháy nhất của hai người trẻ yêu nhau.
Nhưng làm sao thương lượng về giờ giấc, về sinh hoạt trong giường ngủ?
Vì có thể anh đọc truyện trên tablette trong khi chị xem phim trên TV. Anh thích đi ngủ sớm còn chị thì thích thức khuya…Làm sao tìm được một thỏa thuận chung ?
Để ngủ cùng nhau, các cặp đôi chọn giường càng ngày càng rộng. Cái kiểu bề ngang1,60m hay 1,80m càng ngày càng được các người trẻ mua.
Ngủ hai phòng riêng là điều cấm kỵ ? là biểu tượng của một cặp đôi không còn hạnh phúc ?
Nhiều người còn quan niệm như thế.
Nhưng tuổi thọ ngày một tăng, nhu cầu được một giấc ngủ có chất lượng càng cần thiết. Nam giới khi lớn tuổi lại hay ngủ ngáy và làm xáo trộn giấc ngủ của vợ. Nhiều cặp vợ chồng từ đó, quyết định ngủ giường riêng, thậm chí phòng riêng nhưng họ tổ chức những liên hệ vợ chồng một cách sáng tạo để giữ được giá trị sống và tình yêu lứa đôi,
Một biểu hiện: 60% nhà xây ở Mỹ từ mười năm nay, thường dự trù hai phòng riêng cho hai vợ chồng.
Cái cần ở giường ngủ, theo ông Kaufmann là tìm được khoảng cách tốt nhất để thế nào ở gần người yêu mà không làm mất sự thoải mái của cả hai người.
Sinh hoạt khác nhau ở giường ngủ thể hiện quan niệm về tình yêu của các cặp đôi. Ông Kaufmann nhấn mạnh “tình yêu không từ trên trời rơi xuống, không ở ngoài ta. Tình yêu là một biến chuyển của cá thể, được khởi động bởi một biến cố tình cờ – gặp người bạn tình – rồi từ đó xây dựng cặp đôi, chấp nhận đối tác, tự thay đổi mình để cùng sống chung. Những lần ngủ chung lúc đầu, ta có thể hi sinh mình hi sinh giấc ngủ của mình, vì tình yêu, Nhưng cho trăm năm không thể kéo dài những giấc ngủ thiếu chất lượng”.
Nói cho cùng, ngủ ngon và tôn trọng giấc ngủ của người yêu cũng là một biểu hiệu của tình yêu.
Qua khảo sát của mình ở đây, ông Kaufmann nhận xét thấy qua thời gian các cặp đôi sử dụng giường ngủ khác nhau. Rõ ràng là qua ngũ tuần, giấc ngủ của hai người nông hơn, sinh hoạt giới tính cũng thưa hơn, con cái từ từ tự lập, rời ngôi nhà của cha mẹ nên có thừa phòng trống… Đó là lúc vừa thiên thời, địa lợi, nhân hòa, cặp đôi đứng tuổi có khát vọng ngủ thoải mái ở hai phòng riêng dù tình vợ chồng vẫn khắn bó. Họ vẫn sinh hoạt chung và có những lúc chăn gối nồng thấm.
.....................................................
(*):Un lit pour deux.
La tendre guerre (Một cái giường cho hai người. Cuộc chiến tranh dịu dàng).
NXB
Lattès, 2015, 282 trang.