Thế kỷ X, người Nhật sáng tạo chữ viết riêng của họ, gọi là chữ Kana (chữ Hán là Giả danh), là những ký tự ghi âm tiếng Nhật, một loại chữ cái biểu âm bản thân không có ý nghĩa gì, được tạo ra từ một phần của chữ Hán, đơn giản hơn chữ Hán. Mới đầu chữ Kana được dùng để phiên âm chữ Hán, về sau phát triển hình thức kết hợp cả hai thứ chữ.
Người Nhật dũng cảm, thông minh, ham học, ưa đổi mới ; trong việc dùng chữ Hán, họ đã có những sáng tạo đáng để chúng ta học tập: tạo ra nhiều từ chữ Hán thể hiện các khái niệm mới, và đơn giản hóa (bớt nét) những chữ nhiều nét, qua đó góp phần khôngnhỏ phát triển, hoàn thiện chữ Hán. Các sáng tạo ấy được TQ (sau đó là Triều Tiên, Việt Nam) tiếp thu, sử dụng nhuần nhuyễn tới mức ít ai biết đó là thành tựu của người Nhật. Gần đây các học giả TQ xới lại vấn đề này, nhưng một sốngười TQ chưa nhất trí nhìn nhận sự đóng góp ấy.
Thời Minh Trị (từ 1868), Nhật mở cửa tiếp thu mạnh mẽ văn minh phương Tây chứ khôngđóng cửa « bế quan tỏa quốc » như TQ, Việt Nam. Khi thấy được tính ưu việt của văn minh phương Tây, người Nhật bèn dứt khoát bỏ ngay ông thầy Tàu mà họ đã học mấy nghìn năm để học ông thầy Tây, ồ ạt cử thanh niên sang Âu Mỹ học tập, giới trí thức Nhật say sưa đọc và dịch hầu như toàn bộ các sách có tính khai sáng của Âu Mỹ. Rất nhiều khái niệm mới, phần lớn là khái niệm trừu tượng, được họ dịch ra chữ Hán, qua đó phát huy được tác dụng biểu ý thâm sâu vốn có của chữ Hán (trong khi bán đảo Triều Tiên, Việt Nam bắt đầu loại bỏ chữ Hán). Giới học giả Nhật đã chuyển ngữ sang chữ Hán một cách rất hiệu quả những từ ngữ phương Tây thể hiện các khái niệm mới người châu Á chưa từng biết, chủ yếu về y học, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội-nhân văn.
Năm 1898, hai học giả đại biểu phái Duy tân TQ là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu đến Nhật. Trong thời gian ở Nhật, Khang Hữu Vi đã dịch sách Nhật và ra một tờ báo chữ Hán phát hành về TQ, trong đó ông đã dùng các từ chữ Hán do người Nhật sáng tạo.
Sau chiến thắng tiêu diệt hạm đội Nga tại eo biển Tsushima (1904), nước Nhật trở thành tấm gương sáng của châu Á. Giới tinh hoa TQ đua nhau sang Nhật học tập, hoạt động: Tôn Trung Sơn, Chu Ân Lai, Lỗ Tấn, Tưởng Giới Thạch, Quách Mạt Nhược... Hầu hết nhân vật chủ chốt của phong trào Tân Văn hóa TQ đều từng học ở Nhật. Họ đã mang về nước các từ ngữ chữ Hán được người Nhật chuyển ngữ từ ngôn ngữ phương Tây. Ví dụ chủ nghĩa cộng sản, phá sản, triết học ... Từ ngoại lai nguồn gốc Nhật ồ ạt tràn vào TQ. Người TQ tiếp thu gần như toàn bộ số từ này và lâu ngày biến thành từ Hán ngữ.
Thời ấy TQ cũng bắt đầu dịch sách của phương Tây. Hồi ấy các học giả TQ có ba quan điểm về vấn đề này: 1. Người TQ nên tận lực tự dịch, khôngnên du nhập vô điều kiện các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật. 2. TQ nên mượn dùng từ người Nhật đã dịch. 3. Nên dịch âm, tức phiên âm tiếng nước ngoài mà khôngdịch nghĩa.
Tiêu biểu cho quan điểm thứ nhất là Nghiêm Phục (1853-1921), nhà tư tưởng, nhà phiên dịch nổi tiếng từng học ở Anh, người đề xuất lý luận Tín, Nhã, Đạt có ảnh hưởng lớn trong giới phiên dịch. Ông dịch cuốn Evolution and Ethics (Tiến hóa và Đạo đức, của Thomas Huxley), lấy tên sách là Thiên diễn luận, lần đầu tiên giới thiệu cho người TQ biết một lý thuyết khoa học tiên tiến: thuyết Tiến hóa. Trong quá trình dịch, do quá trọng Nhã (là yêu cầu khó nhất), ông đã dịch nhiều từ tối nghĩa khó hiểu, khôngđược dư luận TQ chấp nhận sử dụng.
Học giả nổi tiếng Vương Quốc Duy (1877-1927) đại diện quan điểm nên dùng từ ngoại lai gốc Nhật, nhằm tiết kiệm công sức cho người TQ. Người Nhật dịch quá hay, trong khi các học giả TQ dịch thiếu sáng tạo. Quan điểm trên được thực tế chứng minh là đúng : người TQ (và cả VN, Triều Tiên) đều dùng các từ Nhật dịch.
Học giả Trương Sĩ Chiêu (1881-1973, từng học ở Nhật và Anh) đại diện cho quan điểm chủ trương phiên âm từ ngữ tiếng nước ngoài, nhưng vì những từ phiên âm đó đọc khôngthuận miệng nên về sau cũng đều bị đào thải. Ví dụ telephone TQ dịch âm là德律风sau phải nhường chỗ cho từ điện thoại do Nhật dịch. Người Nhật cũng có chủ trương dịch âm, ví dụ từ club họ dịch là câu lạc bộ, rất đạt về âm, hình, ý. Nhưng có những từ Nhật dịch khôngđược TQ chấp nhận, như cholera (dịch tả), Nhật dịch âm là虎列拉, được TQ dùng khá lâu nhưng về sau thay bằng từ 霍乱do TQ dịch. Hoặc logic Nhật dịch là luân lý, xem ra khôngđạt ; về sau Nghiêm Phục dịch là逻辑, đạt cả về âm, hình, ý. Từ này đã truyền vào Nhật.
Giới học giả Nhật chủ yếu dùng hai cách sau để dịch từ ngữ phương Tây :
1. Gán thêm hàm nghĩa mới vào những từ ngữ có sẵn trong Hán ngữ, dần dần làm các từ ngữ đó mất ý nghĩa cũ. Ví dụ Nhật dùng xã hội dịch từ society ; trong Hán ngữ cổ, xã hội là nói việc tụ tập cúng tế vào mùa xuân mùa thu. Nhật cũng dùng từ dân chủ trong từ ngữ thứ dân chi chủ tể庶民之主宰để dịch khái niệm democracy hoàn toàn ngược lại.
2. Sáng tạo từ ngữ chữ Hán hoàn toàn mới, cách này dùng nhiều nhất. Khi từ ngữ phương Tâykhôngcó khái niệm tương ứng trong Hán ngữ, người Nhật bèn tự đặt ra từ chữ Hán mới. Ví dụ nổi tiếng nhất là từ điện thoại đã thay cho từ 德律风(do TQ dịch âm). Các danh từ trừu tượng lại càng nhiều, như dân tộc, cá nhân, khoa học, triết học ...
Có thể thấy người Nhật có xu hướng ưa dùng từ kép (song từ), có ưu điểm ngắn gọn, dễ nhớ, ví dụ nhân dân, phục vụ, chính phủ, cán bộ...
Thực ra khi tiếp xúc với các nguyên tác của phương Tây, người TQ cũng đã dùng tư duy của mình để sáng tạo một số khái niệm. Điển hình là Nghiêm Phục. Ví dụ economy, người Nhật dịch là kinh tế, ông dịch là kế học (计学).Evolution Nhật dịch là tiến hóa, ông dịch là thiên diễn (天演). Philosophy Nhật dịch là triết học, ông dịch là lý học (理学). Capital Nhật dịch tư bản, ông dịch mẫu tài (母材). Metaphysics Nhật dịch hình nhi thượng học (形而上学), ông dịch huyền học (玄学)... Ông từ chối dùng từ xã hội (Nhật dịch từ society), ông dịch là quần (群), xã hội học là quần học (群学).Xem ra cách dịch của Nghiêm Phục chưa hợp lý.
Rốt cuộc các từ dịch của Nhật giản đơn dễ hiểu nên được người TQ ưa dùng hơn. Từ đó các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật biến thành từ TQ. Vương Quốc Duy cho rằng cách dịch của Nghiêm Phục khôngđược dư luận chấp nhận, chủ yếu do ông quá chú trọng nhã, chú trọng văn dịch phải đẹp, dùng những từ Hán cổ khó hiểu. Tuy vậy, Nghiêm Phục vẫn chấp nhận một số từ Nhật dịch, ví dụ tự do (dịch từ liberty và freedom).
Một học giả TQ đặt vấn đề : cùng một thuật ngữ phương Tâykhi đến TQ và Nhật được dịch thành hai loại từ có mùi vị khác xa nhau, cuối cùng kết thúc bằng việc từ TQ dịch (Trung dịch) thua, từ Nhật dịch (Nhật dịch) thắng. Tại sao lại như vậy, điều này rất đáng suy ngẫm!
Năm 1898, Lương Khải Siêu dịch tiểu thuyết Nhật « Giai nhân chi kỳ ngộ » ra Hán ngữ, đánh dấu sự bắt đầu du nhập TQ của các từ ngoại lai đến từ Nhật. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm sự kiện này, một số học giả TQ đặt câu hỏi : trong thời gian ấy nếu khôngsử dụng các từ ngoại lai gốc Nhật mà chỉ dùng cách dịch của Nghiêm Phục, thì người TQ hiểu và suy nghĩ như thế nào về các khái niệm du nhập từ văn minh phương Tây ? Và điều đó có ảnh hưởng ra sao tới tiến trình lịch sử của TQ ? Cụ thể, khi các khái niệm chính trị, kinh tế, văn hóa, cách mạng, giai cấp, xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa... đổi sang một phương thức khác xuất hiện trước mắt người TQ, phải chăng sự hiểu biết, cảm thụ của người TQ đối với các khái niệm đó sẽ có biến đổi ?
Chữ Hán là của người TQ, nhưng khi tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Nhật dám mạnh dạn dịch từ ngữ chữ Tây ra chữ Hán-Nhật, còn người TQ thì ngại dịch, do họ luôn có tâm lý không dám động đếnchữ Thánh hiền. Mặt khác cũng vì nhà nước Nhật đối ngoại thi hành chính sách mở cửa hòa nhập, đối nội đẩy mạnh giáo dục quốc dân. Tầng lớp phong kiến TQ vốn coi mình là trung tâm tinh hoa thế giới, coi thường người nước ngoài, đối ngoại thi hành chính sách đóng cửa, đối nội thi hành đường lối ngu dân, dĩ nhiên không khuyến khích học phương Tây, vì thế TQ đi sau Nhật về mặt dịch ngôn ngữ Âu Mỹ.
Ban đầu các học giả Nhật cũng chưa thống nhất cách dịch từ ngữ phương Tây. Ví dụ từ literature họ dịch là văn chương học và văn học, sau cùng văn chương học bị đào thải. Từ art mới đầu dịch lànghệ thuật/ mỹ thuật/ văn học kỹ nghệ, mãi cho tới đầu thế kỷ XX nghệ thuật mới chiếm vị trí thống lĩnh. Từ individual vất vả hơn cả, mới đầu dịch là nhất cá nhân, sau dịch là độc nhất giả/ nhân/ độc nhất cá nhân/ tư nhân... mấy từ này đồng thời được dùng trong một thời gian dài, cuối cùng từ cá nhân thắng.
Nhưng ở thời hiện đại, khi cần chuyển ngữ các từ ngữ phương Tây,người Nhật ngại chuyển sang chữ Hán (là loại chữ biểu ý khó học khó nhớ) mà dùng cách dịch âm các từ tiếng Anh và thể hiện bằng chữ Katakana, một loại chữ biểu âm. Ví dụ : máy tính họ dùng computer, nhà báo dùng journalist, thịt cừu dùng lamb, và rất nhiều từ khác như bus, taxi, sex, Fax, pizza, goods ... Người nước ngoài biết tiếng Anh chỉ cần biết các chữ cái Katakana là có thể đọc hiểu khá nhiều từ tiếng Nhật. Một số học giả TQ cũng tán thành cách chuyển ngữ như vậy, vì đỡ mất công suy nghĩ chọn từ chữ Hán; vả lại tiếng Anh đã quốc tế hóa trên toàn cầu.
Từ thập niên 70 thế kỷ XX tới nay là thời kỳ từ ngoại lai nguồn gốc Nhật lần thứ hai du nhập vào TQ. Sau khi TQ-Nhật lập quan hệ ngoại giao (1972) và TQ bắt đầu cải cách mở cửa, nhiều từ tiếng Nhật, cách dùng từ, phương thức biểu đạt của người Nhật bắt đầu xuất hiện trong tiếng TQ, như 卡拉OK (Karaoke) , 料理(món ăn), 写真, 欧巴桑(chỉ phụ nữ trung niên), 卡哇伊(đáng yêu) v.v…Sự du nhập ấy ban đầu qua Hong Kong, Đài Loan, hiện nay trực tiếp qua mạng Internet. Gần đây hầu hết các từ ngoại lai nguồn gốc Nhật đều có liên quan với ACG (Animation, Comic, Game : phim hoạt hình, tranh hoạt họa, trò chơi máy tính), chủ yếu do giới trẻ TQ chủ động tiếp thu. Nhờ thế đã làm giàu vốn từ và sức biểu đạt của Hán ngữ, đồng thời các khái niệm và tư tưởng mới cũng qua đó du nhập vào TQ.
Một số học giả TQ khẳng định sự ồ ạt du nhập các từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật đã ảnh hưởng tới tiến trình lịch sử hơn 100 năm qua của TQ. Họ cũng tranh luận về mức độ ảnh hưởng của nguồn từ ngoại lai đó. Bài Vấn đề « Từ ngoại lai » Nhật ngữ trong Hán ngữ hiện đại của GS Vương Bân Bân ở Khoa Trung văn ĐH Nam Kinhđăng trên tạp chí Văn học Thượng Hải số 8/1998 khẳng định 70% danh từ, thuật ngữ lĩnh vực khoa học xã hội-nhân văn và tự nhiên hiện nay TQ dùng là nhập từ Nhật.
Người TQ chưa nhất trí về tỷ lệ nói trên. Đông đảo dân mạng TQ cho rằng nói tỷ lệ 70% là nịnh bợ Nhật, hủy hoại nền văn minh Trung Hoa 5000 năm ; họ khó chấp nhận kết luận « Trung dịch thua, Nhật dịch thắng ». Nhiều học giả TQ cho rằng chẳng có gì đáng xấu hổ khi thừa nhận đóng góp của người Nhật đối với sự phát triển Hán ngữ.
« Hiện đại Hán ngữ Đại từ điển» chia từ ngoại lai có nguồn gốc Nhật làm hai loại : 1- Loại người Nhật mượn dùng các từ Hán ngữ cổ đã có của TQ nhưng gán hàm nghĩa mới và cách dùng mới, như cách mạng, kinh tế, văn hóa ... ; 2 - Loại do người Nhật dùng chữ Hán tự sáng tạo, nhưmỹ thuật, trà đạo, thủ tục...
« Hán ngữ Ngoại lai ngữ từ điển » thống kê được 772 từ ngoại lai có gốc Nhật, phần lớn thuộc loại thứ nhất, nhưng nhiều người khôngtán thành, vì từ ngoại lai gốc Nhật có ý nghĩa khác hẳn từ Hán ngữ cổ. Ví dụ kinh tế, Hán ngữ cổ là kinh thế tế dân, ý nói sự quản trị quốc gia. Trong Hán ngữ hiện đại, kinh tế là các hoạt động sản xuất xã hội, lưu thông, trao đổi.
Bài Nghiên cứu ngoại lai ngữ trong Hán ngữ hiện đại của Cao Minh Khải và Lưu Chính Viêm cho rằng Hán ngữ hiện đại có 459 từ ngoại lai nguồn gốc Nhật. Những từ này hiện đã mọc rễ ở TQ, chủ yếu vì người Nhật dùng từ rất khôn khéo, nhất trí với quy tắc tạo từ của Hán ngữ, tiện hiểu, ghi nhớ và phổ cập. Không ít từ ngoại lai Hán ngữ vốn có cũng bị từ ngoại lai gốc Nhật thay thế. Ví dụ : hợp điểm thay bằng phân tử ; giới thuyết bằng định nghĩa ; minh giác tráo/ nhãn minh y – giác mạc ; nguyên hành chất, nguyên chất – nguyên tố ; hoa tinh/ hoa tinh phấn/ tu phấn – hoa phấn ...
Dưới đây là những ví dụ về một số từ ngoại lai nguồn gốc Nhật thường gặp, do GS Trần Sinh Bảo ở Đại học Ngoại quốc ngữ Thượng Hải thống kê, phân loại :
I. Từ tu sức + từ được tu sức :
(1) Hình dung từ + danh từ. Ví dụ: 人权, 金库, 特权, 哲学, 表象, 美学, 背景, 化石, 战线, 环境, 艺术, 医学, 入场券, 下水道, 公证人, 分类表, 低能儿.
(2) Phó từ + động từ. Ví dụ: 互惠, 独占, 交流, 高压, 特许, 否定, 肯定, 表决, 欢送, 仲裁, 妄想, 见习, 假释, 假死, 假设.
II. Từ phức hợp đồng nghĩa:
Ví dụ: 解放, 供给, 说明, 方法, 共同, 主义, 阶级, 公开, 共和, 希望, 法律, 活动, 命令, 知识, 综合, 说教, 教授, 解剖, 斗争.
III. Động từ + tân ngữ:
Ví dụ: 断交, 脱党, 动员, 失踪, 投票, 休战, 作战, 投资, 投机, 抗议, 规范, 动议, 处刑.
IV. Từ phức hợp do các đơn từ kể trên họp thành:
Ví dụ: 社会主义, 自由主义, 治外法权, 土木工程, 工艺美术, 自然科学, 自然淘汰, 攻守同盟, 防空演习, 政治经济学, 唯物史观, 动脉硬化, 神经衰弱, 财团法人, 国际公法, 最后通牒, 经济恐慌.
Ngoài ra còn có: Động từ: 服从, 复习, 支持, 分配, 克服, 支配, 配给…
Khái niệm cơ bản về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội: 哲学, 心理学, 论理学, 民族学, 经济学, 财政学, 物理学, 卫生学, 解剖学, 病理学, 下水工学, 土木工学, 河川工学, 电气通信学, 建筑学, 机械学, 簿记, 冶金, 园艺, 和声学, 工艺美术…
Từ kết vĩ (结尾词):
(1) 化: 一元化, 多元化, 一般化, 自动化, 现代化…
(2) 式: 流动式, 简易式, 方程式, 日本式, 新式…
(3) 炎: 肺炎, 胃炎, 关节炎, 气管炎, 皮肤炎…
(4) 力: 生产力, 原动力, 想像力, 劳动力, 记忆力…
(5) 性: 可能性, 必然性, 偶然性, 周期性, 习惯性…
(6) 的: 大众的, 民族的, 科学的, 绝对的, 公开的…
(7) 界: 文学界, 艺术界, 思想界, 学术界, 新闻界…
(8) 型: 新型, 大型, 流线型, 标准型, 经验型…
(9) 感: 美感, 好感, 优越感, 敏感, 读后感…
(10) 点: 重点, 要点, 焦点, 观点, 出发点, 盲点…
(11) 观: 主观, 客观, 悲观, 乐观, 人生观, 世界观, 宏观, 微观…
(12) 线: 直线, 曲线, 抛物线, 生命线, 战线, 警戒线…
(13) 率: 效率, 生产率, 增长率, 利率, 频率…
(14) 法: 辨证法, 归纳法, 演绎法, 分析法, 方法, 宪法, 民法, 刑法…
(15) 度: 进度, 深度, 广度, 强度, 力度…
(16) 品: 作品, 食品, 艺术品, 成品, 展品, 废品, 纪念品…
(17) 者: 作者, 读者, 译者, 劳动者, 缔造者, 先进工作者…
(18) 作用: 同化作用, 异化作用, 光合作用, 心理作用, 副作用…
(19) 问题: 人口问题, 社会问题, 民族问题, 教育问题, 国际问题…
(20) 时代: 旧石器时代, 新石器时代, 新时代, 旧时代…
(21) 社会: 原始社会, 奴隶社会, 封建社会, 资本主义社会, 社会主义社会, 国际社会…
(22) 主义: 人文主义, 人道主义, 浪慢主义, 现实主义, 帝国主义, 排外主义…
(23) 阶级: 地主阶级, 资产阶级, 中产阶级, 无产阶级…
----------