Đài Loan là hòn đảo chỉ rộng 36.000 km2 (nhỏ gấp chín lần Việt Nam) với dân số khoảng 23,5 triệu người (nhỏ gấp gần 4 lần Việt Nam), bị Nhật chiếm đóng và tồn tại 50 năm (1895 -1945). Đến năm 1949, Tưởng Giới Thạch sau khi bị thất bại, đã đưa khoảng 2 triệu người Đại lục ra Đài Loan, xây dựng nhà nước Trung Hoa Dân quốc với chế độ chuyên chế, độc tài. Đến năm 1987, chế độ độc tài với lệnh giới nghiêm bị bác bỏ, Đài Loan từng bước thực hiện tự do hóa, dân chủ hóa. Đất nước Đài Loan đã “cất cánh” hóa rồng. Điều thần kỳ về kinh tế, cùng với những thần kỳ về cải cách chính trị, xã hội đã đem lại sự thay đổi mạnh mẽ đất nước, đưa Đài Loan trở thành một trong 30 nước có các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội hàng đầu thế giới. Có được kết quả đó là do các lực lượng chính trị cố gắng chuyển đổi xã hội trong khuôn khổ một trật tự ôn hòa, cải cách, chứ không cách mạng không sử dụng bạo lực. Người dân được làm quen với các giá trị dân chủ và dần dần đã làm chủ được các giá trị dân chủ. Đất nước phát triển nhờ có sự đóng góp của các tầng lớp trung lưu luôn quan tâm đến văn hóa, văn minh, dân chủ, tiến bộ xã hội. Đất nước luôn tôn trọng học vấn, xây dựng nền giáo dục tiên tiến với nguồn nhân lực cao, đồng đều, kết hợp giữa văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại của thế giới. Đài Loan đã cố gắng chuyển đổi từ độc tài sang thể chế dân chủ và đã ghi được những tư tưởng này vào Hiến pháp. Xã hội có luật pháp nghiêm minh, tương đối cân bằng, không chùn tay chống tham nhũng, không nương nhẹ với CNTB thân hữu, kiểm soát được tội phạm và tệ nạn xã hội, quần chúng nhân dân đã trở thành một lực lượng chính trị ôn hòa, đấu tranh bất bạo động cho các mục tiêu tiến bộ. Đóng góp vào sự thành công chung của đất nước Đài Loan, không thể không nhắc đến vai trò của các tổ chức xã hội dân sự. XHDS ở Đài Loan đã đủ độ trưởng thành, gánh vác được các trách nhiệm dân sự, điều tiết được các hoạt động xã hội theo hướng lành mạnh phát triển [2].
Bài viết này sẽ khái quát đánh giá vai trò của các tổ chức XHDS ở Đài Loan trong sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước từ năm 1987 đến nay, có so sánh với châu Âu và so sánh gợi mở với Việt Nam.
2. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đài Loan (1987 đến nay)
2.1. Khái quát quá trình phát triển kinh tế - xã hội Đài Loan (1987 – nay)
2.1.1. Giai đoạn 1950 – 1986
Đài Loan là hòn đảo nhỏ, tương đương với diện tích của nước Bỉ, hay Thụy Sĩ. Phía Đông là biển Philippin, phía Bắc là biển Đông Trung Hoa, phía Nam là biển Nam Trung Hoa. Bờ biển phía Đông Đài Loan chỉ cách Đại lục Trung Hoa khoảng 150 km. Địa thế Đài Loan nhiều núi (hơn 65% diện tích). Đất trồng trọt chỉ chiếm 25% diện tích. Đài Loan không có đất phì nhiêu vì vậy, khả năng sản suất của đất tùy thuộc phần lớn vào phân bón để làm cho đất mầu mỡ.
Chiếm đóng Đài Loan 50 năm (1895 – 1945), nhưng Nhật Bản đã tập trung phát triển nền nông nghiệp cho hòn đảo này, biến nơi đây thành nơi cung cấp lương thực, thực phẩm ngày càng tăng cho Nhật Bản. Nhật Bản đã xây dựng hệ thống tưới tiêu lớn, các nhà máy sản xuất phân bón, chế biến, gia công các sản phẩm thô, các nhà máy điện hiện đại cung cấp năng lượng, đã xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc như đô thị, đường xá, cầu cống, các trường Đại học… Năm 1945, khi hòn đảo này trở về Trung Quốc, nó đã có một ưu thế lớn so với phần lớn các nước đang phát triển hồi đó. Ngoài có một cơ sở hạ tầng vững vàng với hệ thống giao thông thuận tiện cho việc vận chuyển, Đài Loan còn có một nền nông nghiệp phát triển, một cơ sở công nghiệp vững mạnh và một lực lượng công nhân thành thạo về kỹ thuật sản xuất hiện đại. Đầu những năm 1950, chính quyền của Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã đưa ra đường lối phát triển nền công nghiệp dân tộc. Đầu tiên đã thực hiện chính sách thay thế hàng nhập khẩu đã sản xuất những hàng hóa trước đây phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đài Loan đã cố gắng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng… sử dụng nhiều lao động. Đồng thời nhà nước đã đưa ra hàng loạt các chính sách hạn chế, kiểm soát trao đổ buôn bán, như sử dụng giấy phép nhập khẩu, quản lý chặt các chính sách tỷ giá, thực hiện bảo hộ một số các mặt hàng…. Một nền sản xuất trong nước để thay thế toàn bộ hàng hóa nhập khẩu đã bắt đầu tỏ ra không phù hợp. Vì vậy, từ giữa thập kỷ 1950, Đài Loan đã chuyển sang đường lối công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Cùng với sự giúp đỡ to lớn về tài chính của Hoa Kỳ từ 1951 -1954 Hoa kỳ đã viện trợ cho Đài Loan 375 triệu USD. Từ 1951 -1981 con số viện trợ đã lên đến 1,5 tỷ USD. Đó là những đề án gắn với việc xây dựng ngững cơ sở năng lượng cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, với gần 4000 cố vấn kỹ thuật Mỹ đã nối tiếp nhau làm việc ở Đài Loan trong giai đoạn từ 1951 – 1984 [3].
Đến năm 1962, xuất khẩu của Đài Loan đạt 218 triệu USD. Việc chuyển từ đường lối thay thế hàng nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu buộc Đài Loan phải thay đổi căn bản các chương trình, quản lý kinh tế. Trước hết, phải bãi bỏ việc định nhiểu tỷ giá hối đoái, thay bằng một tỷ giá duy nhất. Thứ hai, tỷ giá đồng “Đô la nước Đài Loan (Đài Tệ) trước kia được đánh giá quá cao, nay phải hạ tỷ giá đúng với giá trị thực của nó. Mục đích nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Thứ ba, cải cách mạnh mẽ thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa đúng với qui luật kinh tế. Thứ tư, nhà nước thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu như vay với lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp. Thứ năm, khuyến khích, thúc đẩy phát triển cách doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kết quả, có sự thay đổi to lớn trong cơ cấu xuất khẩu. Những sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm nông nghiệp không ngừng sản xuất, các sản phẩm nông nghiệp trong xuất khẩu đã không ngừng tăng lên. Năm 1984, sản phẩm xuất khẩu nông nghiệp chỉ còn 1,6%, thực phẩm nông nghiệp chỉ còn chiếm 4,5%, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu từ 9,10% (1952) đã tăng lên 90% (1984) [4].
Trong việc thu hút đầu tư quốc tế, Đài Loan đã thực hiện rất thành công. Đầu thập kỷ 1950, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đài Loan khoảng 4,5 tỷ USD (trong đó 25% của người Hoa ở nước ngoài). Đến năm 1984, đầu tư nhiều nhất đã của Hoa Kỳ (chiếm 41,4%), tiếp theo là của Nhật Bản. Vốn đầu tư tập trung vào những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Từ năm 1952 – 1984, khu vực các sản phẩm điện và điện tử đã thu hút 30% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Để gia tăng thu hút đầu tư nước ngoài, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách mới, tạo các điều kiện thuận lợi cả tài chính, cơ sở hạ tầng .... Đài Loan còn tập trung xây dựng những khu chế xuất nền công nghiệp đặc thù với những ưu đãi cao. Năm 1966 khu vực không phải trả cước phí Cao Hùng được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu: thúc đẩy các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách tạo cho các doanh nghiệp có những thuận lợi trong đầu tư công nghiệp: miễn thuế, đơn giản hóa các hoạt động hành chính, xây dựng những cơ sở hiện đại, thu hút nhiều nhân công, thu hút các kĩ thuật về công nghệ hiện đại. Năm 1969, các khu công nghiệp ở Nam Tử và Đại Trung được xây dựng với số vốn 400 triệu USD với chính sách ưu đãi như khu công nghiệp Cao Hùng đây là những khu công nghiệp có nền sản xuất có giá trị gia tăng cao, 70% sản phẩm xuất khẩu là những sản phẩm điện tử, quang học. Nhưng nó cũng thu hút hơn 80 nghìn việc làm mới, đã thu hút hơn 1000 kĩ thuật viên mới. Đến đầu thập kỉ 80, các khu công nghiệp ở Đài Loan đã xuất khẩu hơn 20 tỉ USD. Tháng 12/1980 Đài Loan quyết định xây dựng khu công nghiệp Tân Chu nhằm thu hút các ngành công nghiệp chuyên môn cao trong công nghiệp kỹ thuật mũi nhọn như điện tử, máy móc và dụng cụ chính xác, kim khí hiếm, hóa chất quí, năng lượng và hàng không ... [5].
Đến giữa những năm 1980, Đài Loan chỉ còn nợ khoảng 7 tỉ USD nhưng dự trữ ngoại hối đã lên đến 20 tỉ USD. Sự tăng trưởng bền vững theo hướng chuyển dịch kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đảm bảo phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, cán cân thu chi ngân sách cân bằng, năm 1984 đã thặng dư đến 7 tỷ USD.
Về mặt xã hội, trong vòng 30 năm, dân số Đài Loan đã tăng quá gấp đôi từ 8 triệu dân (1952) lên đến 19 triệu (1982). Cơ cấu dân số có thay đổi. Người dưới 15 tuổi chiếm 4,4% dân số (1954), đến năm 1984, người dưới 15 tuổi đã giảm xuống còn 31%. Ngược lại, người trên 65 tuổi ngày càng chiếm tỷ lệ cao. 1954 chiếm 5%, năm 1984 chiếm 10%. Tỷ lệ dân số lao động tích cực năm 1985 là 7,5 triệu người, chiếm 40% dân số (bằng 40% của Hà Lan, thấp hơn của Pháp 44%, CHLB Đức là 47%). Trong 30 năm đầu (1952 – 1982), dân số trẻ cung cấp cho các ngành công nghiệp mới ra đời một số lượng nhân công giá rẻ, dồi dào, sự cất cánh nhanh chóng của đất nước đã thu hút nhiều việc làm, chỉ có 2% dân số trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp. Từ một nền kinh tế nông nghiệp, Đài Loan chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp. Cơ cấu việc làm đã thay đổi về cơ bản, cứ 5 người lao động thì không đến 1 người làm nông nghiệp. Số người làm trong ngành công nghiệp đã tăng gấp 2 lần, đặc biệt trong công nghiệp chế biến và xây dựng. Đài Loan đã có cố gắng rất lớn trong giáo dục, vì vậy các doanh nghiệp đó có thể tìm được những lao động lành nghề. Nếu như năm 1952, số người có trình độ bậc trung học chiếm 10%, thì đến năm 1984 đã chiếm 60%. Số học sinh đã qua bậc cao đẳng tăng 41 lần , bậc trung học tăng 12 lần. Mỗi giao viên trung bình dạy cho 31,9 em (1952) xuống 22,6 em (1984). Song song với phát triển giáo dục, Đài Loan đã cố gắng cải thiện cơ sở hạ tầng về y tế. Trong 30 năm (1952 – 1982), số người làm trong khu vực y tế đã tăng gấp 10 lần. Đến năm 1984, ngành y tế có 129.814 người , so với năm 1954 chỉ có 10.000 người. Tuổi thọ trung bình năm 1984 là 70,2 tuổi cho nam và 75,1 tuổi cho nữ (Pháp: nam là 70,4, nữ là 78,5).
Nói tóm lại, giai đoạn đầu từ 1950 đến trước khi giỡ bỏ lệnh giới nghiêm (1987), Đài Loan đã chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển. Trong thập niên 1960, nhờ đầu tư nước ngoài, Đài Loan đã tập trung phát triển nhiều ngành kỹ thuật tiên tiến và nhanh chóng xây dựng những vùng xuất khẩu chính các mặt hàng máy móc điện tử, thiết bị điện tử và sản phẩm nhựa. Sang thập niên 1970, Đài Loan đã xây dựng các dự án tập trung quy mô lớn trong các ngành công nghiệp cơ khí, hóa dầu, luyện sắt thép, đóng tầu và tập trung xây dựng các ngành công nghiệp như sản xuất ô tô… Đến thập niên 1980, đây là giai đoạn Đài Loan phát triển các ngành công nghiệp thương mại điện tử, chế tạo máy móc, công nghệ thông tin… Các chỉ số phát triển xã hội cũng được nâng cao rõ rệt, Đài Loan đã “hóa rồng” là 1 trong 4 nước công nghiệp hóa mới (NICS) ở Đông Á và dần dần bước vào thời kỳ tự do hóa, dân chủ hóa với sự lớn mạnh dần dần của các tổ chức xã hội dân sự.
2.1.2. Giai đoạn 1987 – 2016
Đây là giai đoạn Đài Loan tận dụng thuận lợi của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc, Đài Loan thành lập các khu công nghiệp khoa học như Tân Trúc, khu công nghiệp khoa học Nam Bộ, khu công nghiệp khoa học Trung Bộ tập trung đầu tư nước ngoài và trong nước vào sản xuất công nghệ cao như vi mạch máy tính nhằm thay đổi công nghiệp truyền thống giảm tiêu hao năng lượng, ô nhiễm thấp, giá trị gia tăng cao. Đài Loan tập trung vào công nghệ thông tin, chất bán dẫn, truyền thông, bảng điều khiển, .... Công nghệ cao trở thành huyết mạch kinh tế quan trọng, Đài Loan tiếp tục phát triển thị trường trong nước, dần dần chuyển ra toàn cầu với những sản phẩm có giá trị gia tăng cao như: Acer, Asus, sản xuất máy tính cá nhân, HTC sản xuất điện thoại di động, doanh nghiệp điện tử FOXCONN. Đặc biệt từ tháng năm 2009, Đài Loan đã công bố trú trọng hướng tới tương lai tập trung phát triển vào 6 ngành công nghiệp mới nổi là: nông nghiệp thông minh, công nghệ sinh học, chăm sóc y tế, du lịch lữ hành, năng lượng xanh, sáng tạo văn hóa.
Đài Loan đã đẩy mạnh công nghiệp du lịch, thúc đẩy quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, luôn điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện “Chính sách hướng Nam”, coi Đông Nam Á là thị trường trọng điểm hấp dẫn. Năm 2014, GDP của Đài Loan đạt 521,567 tỷ USD (Đứng thứ 27 trên thế giới), GDP/người đạt 22,317 USD (xếp thứ 19 trên thế giới), tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 588,7 USD trong đó xuất khẩu 313,84 tỷ USD, nhập khẩu 274,23 USD, xuất siêu 39,6 tỷ USD. GDP theo cách ngành: nông nghiệp 1,7%, công nghiệp 30,5%, dịch vụ 67,8%, tỷ lệ thất nghiệp 3,8%, tỷ lệ lạm phát 1,5%. Mặt hàng xuất khẩu chính là thiết bị điện tử, màn hình phẳng, máy móc, kim loại, dệt may, nhựa, hóa chất, quang học, thiết bị đo lường, dụng cụ y tế, ... Đối tác xuất khẩu chính là Cộng hòa dân chủ Nhân dân Trung Hoa chiếm 27,1%; Hồng Kông 13,2%, Nhật Bản 6,4%, Singapore 4,4%. Những mặt hàng nhập khẩu chính là: điện tử, máy móc, dầu thô, dụng cụ chính xác, hóa chất hữu cơ, kim loại, ... Đối tác nhập khẩu chính của Đài Loan là: Nhật Bản 16,7%, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 16,1%, Hoa Kỳ 9,5%. Khác Nhật Bản, Hàn Quốc, nền kinh tế Đài Loan chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thay vì các tập đoàn quy mô lớn. Dự trữ ngoại tệ của Đài Loan tính đến tháng 7/2015 đạt mức 421,96 tỷ USD chỉ đứng sau Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc), Nhật Bản và Nga [3].
Về mặt phát triển xã hội, Đài Loan đã đẩy mạnh phát triển xã hội cùng với phát triển kinh tế đất nước. Muốn phát triển kinh tế xã hội đất nước trước hết cần chú trọng đến công tác giáo dục đào tạo. Chế độ giáo dục Đài Loan chủ yếu là tổng hợp đặc điểm của thế chế giáo dục Hoa Kỳ , châu Âu và Trung Hoa dân quốc mà thành. Chế độ giáo dục bắt buộc nghĩa vụ 9 năm được thực hiện trong nhiều năm qua, Đài Loan còn dự định nâng lên 12 năm trong vài năm tới. Hiện nay, hệ thống giáo dục Đài Loan gồm giáo dục tiểu học 6 năm, giáo dục trung học quốc gia 3 năm, giáo dục trung học cao cấp 3 năm. Giáo dục bậc đại học 4 năm. Tính đến cuối năm 2012, có đến 99,15% học sinh tiếp tục theo học trung học cao cấp hay trung học cao cấp kỹ thuật. Số người không biết đọc chiếm tỷ lệ 1,71% tổng dân số. Các trường đại học Đài Loan được xếp vào top 100 thế giới như đại học Quốc gia Đài Loan, đại học Chính trị Đài Loan v.v...
Đài Loan ngày càng chú trọng xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội theo nguyên tắc bình đẳng, phổ quát… Bộ Y tế và Phúc lợi được thành lập 7/2013 phụ trách y tế công cộng, dịch vụ y tế, phúc lợi xã hội…Bảo hiểm y tế toàn dân bắt đầu thực hiện từ năm 1995. Hiện nay có 99,5% công dân tham gia bảo hiểm y tế toàn dân. Bảo hiểm y tế toàn dân đã trợ cấp y tế cho hộ có thu nhập thấp , quân nhân xuất ngũ, trẻ em dưới 3 tuổi, người thất nghiệp, người già, người bệnh tật, người gặp nạn. Bảo hiểm y tế toàn dân chiếm khoảng 5,44% GDP, có thể do chủ sở hữu lao động hoặc cá nhân tự trả chi phí bảo hiểm. Hiện nay, cứ 10.000 dân thì có 20 bác sĩ, 5 nha sĩ, 60 giường bệnh phục vụ. Tính đến cuối năm 2012, Đài Loan có 502 bệnh viện, 20.935 phòng khám. Trong đó có 82 bệnh viện công lập, 477 phòng khám công lập. Nhờ hệ thống san sinh xã hội tốt, đặc biệt là hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe được hoàn thiện nên tuổi thọ người dân được nâng lên 76,2 tuổi với nam giới và 83 tuổi với nữ giới. Các chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo vệ dân tộc ít người đã được hiến pháp quy định, nhà nước bảo vệ. Nền văn hóa đa nguyên vẫn mang đậm bản sắc dân tộc được phát triển mạnh mẽ. Từ sau khi bãi bỏ lệnh giới nghiêm năm 1987, xã hội Đài Loan cởi mở, hội nhập với thế giới, kèm với nó là các hoạt động văn nghệ, mỹ thuật… phát triển đa nguyên. Đặc biệt, từ năm 2000 trở đi, phong trào bản địa hóa Đài Loan và các vấn đề liên quan đã trở thành vấn đề quan trọng trong lý luận văn hóa tại Đài Loan.
Nói tóm lại: nền kinh tế Đài Loan đã phát triển mạnh mẽ, từ mô hình kinh tế thay thế hàng nhập khẩu, đến nền kinh tế hướng về xuất khẩu, hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, xây dựng các khu công nghệ cao, khu chế xuất, khu kinh tế - khoa học kỹ thuật hiện đại. Lựa chọn những ngành công nghiệp mũi nhọn, thay thế cho công nghiệp truyền thống, gây ô nhiễm, ít tiêu hao năng lượng, có giá trị gia tăng cao, phát triển bền vững (đảm bảo phát triển cả kinh tế, xã hội và môi trường). Hiện nay các vấn đề xã hội ở Đài Loan đã phát triển không ngừng, song song với phát triển kinh tế. Hệ thống an sinh xã hội tiên tiến, đảm bảo đời sống khá giả cho mọi người dân. Giáo dục, đào tạo phát triển, được xếp vào những quốc gia hàng đầu trên thế giới. Con đường phát triển kinh tế - xã hội Đài Loan luôn gắn với tự do, dân chủ, bầu cử tự do, đa nguyên, đa đảng phái (đặc biệt từ sau khi Đài Loan bãi bỏ lệnh giới nghiêm vào năm 1987). Có được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, tự do, dân chủ, đa đảng phái đó có sự đóng góp rất to lớn của XHDS Đài Loan. Ngày nay, XHDS Đài Loan có vai trò rất to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
2.2. Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đài Loan (1987- đến nay).
2.2.1. Khái niệm xã hội dân sự
Xã hội dân sự (XHDS) là một đề tài vừa cổ điển, vừa rất thời sự. Nó cổ điển bởi vì ngay từ thời cổ Hy Lạp, người ta đã bàn đến khái niệm này. Sang thế kỷ XVI, XHDS chính thức được xuất hiện và trở nên phổ biến từ kỷ XVIII, khi các nhà triết học kinh điển lại đem ra phân tích sôi nổi một lần nữa. Tính thời sự của XHDS là rõ ràng với sự trở lại của vấn đề này từ giữa thế kỷ XX, khi cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới bắt đầu bùng nổ và xuất hiện dần nề kinh tế tri thức.
Không phải ngẫu nhiên XHDS được thế giới quan tâm. Ngày nay, mỗi xã hội hiện đại đều được coi là cấu thành bởi ba trụ cột chính, đó là Nhà nước, thị trường và XHDS. Về đại thể, nhà nước và thị trường đã phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện, và cũng được nghiên cứu khá sâu sắc thấu đáo. Riêng XHDS, cái trụ cột thứ 3 khá quan trọng trong 3 trụ cột của một xã hội hiện đại, thì vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ [12].
Theo tổ chức NGO quốc tế “Liên minh thế giới vì sự tham gia của công dân (civicus)” thì: XHDS là diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung” [13]. XHDS được cho rằng đã tạo ra “sự mù mờ”, khó hiểu, vì vậy khái niệm XHDS cần được tiếp cận từ các góc độ khác nhau.
Từ góc độ đối xứng tương tác, XHDS được xem là tổ chức ngoài nhà nước, bên cạnh nhà nước, không thuộc nhà nước.
Từ góc độ xác định chủ thể của sự vật, XHDS được xem là tổ chức thuộc về cộng đồng, quần chúng, nhân dân.
Xét xem từ góc độ mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, XHDS là một lực lượng đến từ xã hội dân gian, đứng bên ngoài nhà nước, là một bộ phận có tính tự chủ cao. XHDS có mối liên hệ giữa nhà nước và cá nhân. Nhưng tính tự chủ của XHDS phải được xây dựng trên cơ sở 2 điểm là: 1. Nó được xây dựng, hình thành từ ý thức công dân và văn hóa công dân qua lịch sử phát triển lâu dài mà nên. 2. Nó được hoạt động qua mạng lưới xã hội với hành động cố kết lâu dài [14].
Giáo sư Charles Tay lor thì cho rằng: XHDS là một loại mạng lưới xã hội và mạng lưới xã hội đó được hình thành từ những tổ chức xã hội, không chịu sự chi phối của Nhà nước, có quan hệ với Nhà nước, có tính tự chủ cao. Đồng thời, những hành động và sự tồn tại của những tổ chức xã hội đó đều có ảnh hưởng nhất định đến chính sách công cộng của Nhà nước [15].
Như vậy là, XHDS là lĩnh vực của công chúng, hay còn gọi là lĩnh vực thứ ba, bao gồm các tổ chức, nhóm hội, mạng lưới được nhân dân là đối tác của nhà nước thiết lập nên. Các tổ chức xã hội này mang tính chất tự nguyện, tồn tại độc lập với nhà nước, phi lợi nhuận, tự chủ về tài chính. Nhưng nó được hình thành và phát triển từ ý thức công dân và văn hóa công dân, trải qua lịch sử phát triển lâu dài mà tạo nên. Nó hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp. Nó có vai trò phản biện xã hội, phê phán những khuyết tật của xã hội, nhằm phát huy tự do, dân chủ, minh bạch, thu hút mọi nguồn lực trong xã hội để xây dựng xã hội ngày càng hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn.
2.2.2. Vai trò của các tổ chức XHDS trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đài Loan
2.2.2.1. Sự ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội dân sự ở Đài Loan
Sự phát triển của tổ chức XHDS Đài Loan có bối cảnh lịch sử, văn hóa, chính trị và xã hội đặc thù. Trước hết nhân tố văn hóa đã ảnh hưởng đến sự phát triển của các tổ chức XHDS ở Đài Loan. Các tổ chức xã hội dân gian của Trung Quốc trong quá khứ có tính “tư tộc”, được thể hiện trong “hành hội”, “bang hội” và “Tông thân hội”. Có nghĩa rằng các tổ chức XHDS của xã hội truyền thống phong kiến Trung Quốc ngày xưa có thuộc tính “Tư” (có thể riêng rẽ), ví dụ như các “hành hội” (trảy hội), “bang hội” (hội bạn bè, liên bang láng giềng), “Tông thân hội” (hội họ hàng thân thích) v.v… Do các tổ chức XHDS thường xuyên được tổ chức của những người anh em, họ hàng, bạn bè thân thích nên những tổ chức XHDS này có tính chất “tư thuộc” cá thể riêng rẽ này rất rõ ràng, mạnh mẽ. Trong quan niệm lấy gia tộc truyền thống làm nền tảng cơ sở, nên các thành viên tổ chức XHDS kiểu truyền thống phong kiến Trung Quốc đã không tin tưởng vào các tổ chức XHDS công cộng khác. Vì vậy, các tổ chức XHDS ở Đài Loan đã không thể phát triển các tính cách công cộng, gây những trở ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa quần thể xã hội và XHDS.
Về mặt chính trị, Đài Loan dưới ách thống trị độc tài của chính phủ Quốc Dân Đảng (từ năm 1949 đến 1987) trải qua 38 năm đã thực thi một chế độ hà khắc. Luật giới nghiêm buộc Đài Loan phải thực thi luật tổ chức đoàn thể nhân dân một cách ép buộc đã qui định cùng một khu vực chỉ có một tổ chức đoàn thể. Không cho phép lập hội, quĩ, các tổ chức xã hội… Chính quyền độc tài Quốc Dân Đảng đã tước đoạt mọi quyền lập hội, quyền liên kết trong xã hội… Vì vậy, trước năm 1970, các tổ chức xã hội không thuộc chính phủ, phần lớn đã phải bỏ trốn ra nước ngoài, Ví dụ như Hội chữ thập đỏ, Hội triển vọng thế giới, Quĩ phúc lợi nhi đồng cơ đốc giáo… Ngoài ra, các tổ chức XHDS quốc tế như các câu lạc bộ: Hội Tứ Kiệu, Hội Thanh Thương, Hội sư tử… đều phải bỏ ra nước ngoài [16]. Tuy chính phủ ngăn cấm, nhưng những sự trợ giúp về mặt kinh tế của Liên Hợp Quốc đã góp phần tích cực giúp phát triển các tổ chức phi chính phủ tại Đài Loan, xây dựng các phân chi hội ở khắp nơi. Đến thập niên 1980, do sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và do sự ra đời của các phong trào xã hội, cùng với sự hòa hoãn trong quan hệ đối lập về chính trị giữa hai eo bờ biển Đài Loan và sự mở đầu công cuộc cải cách – mở cửa kinh tế Đại lục Trung Quốc, cùng với thể chế uy quyền của chính quyền Quốc Dân Đảng bị lung lay, Đài Loan đã dần dần mở ra một cao trào tự do hóa và dân chủ hóa. Điều đó đã ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành và phát triển các tổ chức xã hội dân sự ở Đài Loan. Sau khi lệnh giới nghiêm được bãi bỏ (1987), hàng loạt các tổ chức xã hội đã được ra đời, ví dụ như: Quỹ văn hóa của người tiêu dùng, quỹ tri tân của người phụ nữ, quỹ điều tra ý dân… Do Đài Loan đã phải bãi bỏ “luật tổ chức đoàn thể nhân dân”, điều đó đã tạo cơ sở pháp lý vững vàng cho việc xây dựng và phát triển các loại hội, hiệp hội, quỹ nhân dân…Từ năm 1980 đến năm 1999, do tác động của xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, các tổ chức xã hội dân sự ở Đoài Loan ngoài việc đẩy mạnh mối quan hệ giữa các tổ chức và phong trào nhân quyền, cứu trợ nhân đạo, bảo vệ môi trường, phong trào nữ quyền, bảo vệ người lao động, xây dựng văn hóa… trong nước với nhau, còn tích cực hợp tác chặt chẽ với các tổ chức xã hội dân sự quốc tế. Hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự đã thúc đẩy mạnh mẽ các phong trào tự do hóa và dân chủ hóa . Các tổ chức xã hội dân sự đã dần dần được “tổ chức hóa” và “thể chế hóa”. Các tổ chức XHDS ở Đài Loan đã trực tiếp đấu tranh, phê phán chủ nghĩa uy quyền của chính quyền Quốc dân đảng, buộc chính quyền Quốc dân đảng năm 1992 phải sửa đổi “luật tổ chức xã hội thời giới nghiêm”, mở ra con đường tự do hóa và dân chủ hóa sâu sắc hơn, làm cho các tổ chức xã hội dân sự phát triển mạnh mẽ hơn. Điều đó đã làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Trong rất nhiều vấn đề xã hội về môi trường, đô thị, địa phương, cải cách giáo dục, cải cách tư pháp, phúc lợi xã hội…. nhà nước Đài Loan muốn thông qua quyết sách, buộc phải thăm dò ý kiến công chúng và phải được sự đồng ý của các tổ chức XHDS, của dân chúng, nhà nước mới được thực thi. XHDS ngày càng coa vai trò to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội Đài Loan. Tự do dân chủ, nhân quyền chính nghĩa, kinh tế thị trường tự do, hội nhập quốc tế, đã thúc đầy sự phát triển rực rỡ cho XHDS Đài Loan. Đó là những kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế giới, trong đó có Đài Loan.
2.2.2.2. Xã hội dân sự Đài Loan và sự tham gia với các tổ chức quốc tế
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các tổ chức XHDS Đài Loan phản ánh sự phát triển sâu sắc của nền kinh tế và dân chủ ở Đài Loan. XHDS Đài Loan được xây dựng trên nền tảng của tinh thần “dân là gốc”. Chỉ khi nào cá nhân mỗi con người ý thức được ý nghĩa tồn tại của cuộc sống, thì họ mới dám tự mình quản lý, đấu tranh, thông qua phương thức dân chủ, nhằm mưu cầu mục tiêu ngày càng tốt đẹp của cá nhân và cộng đồng xã hội. Vì vậy, trong quá trình xây dựng XHDS, tất yếu phải thúc đẩy những vấn đề như: dân chủ, nhân quyền, phát triển. Sự phát triển của XHDS Đài Loan cũng giống như sự phát triển của một cơ thể sống bao gồm hai mặt. Vừa phát triển sức mạnh từ các tổ chức XHDS, vừa phải xây dựng một môi trường có lợi cho sự phát triển, nhằm đạt được mục tiêu mà cả nhà nước và xã hội phải phấn đấu hoàn thành.
Sự phát triển XHDS ở Đài Loan, ngoài những nhân tố nội tại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội….của Đài Loan, còn có sự tác động to lớn từ các nhân tố bên ngoài như địa vị quốc tế và quan hệ đối ngoại đặc thù của Đài Loan. Chính các yếu tố sẽ như thước đo và có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển XHDS ở Đài Loan. Đài Loan phát triển XHDS có những đặc thù. Sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, kéo theo sự phát triển về XHDS. Sự phát triển XHDS được bắt nguồn từ lực lượng tiên tiến trong xã hội, tầng lớp trung lưu, từ kinh tế lan dần sang chính trị. Các phong trào đấu tranh của các tổ chức XHDS trong nước được sự ủng hộ, trợ giúp mạnh mẽ của các tổ chức xã hội quốc tế, đặc biệt trong giai đoạn trước năm 1987, và từ năm 1987 đến 1999. Nhưng sự phát triển của các tổ chức XHDS trong nước, đặc biệt sự liên kết chiều ngang thiếu hợp tác chặt chẽ (đặc biệt trong giai đoạn trước năm 1987), các tổ chức XHDS trong nước không chủ động, không xây dựng mạng lưới hợp tác với các tổ chức XHDS quốc tế. Vì vậy hiệu quả thu được không lớn. Chỉ từ năm 2000 trở lại đây, các tổ chức XHDS ở Đài Loan mới phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Sự liên kết, hợp tác thành mạng lưới XHDS cả trong nước mới được kết nối, nâng cao về số lượng và chất lượng. Tính đến năm 2006, những tổ chức XHDS đã được đăng kí ở Bộ Nội chính Đài Loan lên đến con số trên 20.000 tổ chức. Trong đó có đến 2000 tổ chức lấy danh nghĩa là hội viên cá nhân và của tổ chức để tham gia vào các loại hình tổ chức XHDS quốc tế [17].
Con số thống kê đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức XHDS Đài Loan và sự tham gia liên kết, hợp tác giữa các tổ chức XHDS Đài Loan với thế giới. Qua hợp tác với các tổ chức XHDS trên thế giới, các tổ chức XHDS Đài Loan đã nâng cao kĩ năng tổ chức, mở rộng hình thức hoạt động, nâng cao chất lượng, nội dung, phương thức hoạt động và mở ra không gian hoạt động, giao lưu rộng rãi cho XHDS Đài Loan và quốc tế. Từ năm 1990 đến 2006, các tổ chức XHDS Đài Loan đã bắt đầu các cuộc tiếp xúc giao lưu với các tổ chức XHDS quốc tế. Từ tháng 1/1999 các tổ chức XHDS Đài Loan đã tiến hành các hoạt động trợ giúp nhân đạo quốc tế tại châu Phi, châu Mỹ Latinh... Năm 2003, trong cuộc chiến tranh ở Irắc, các tổ chức XHDS Đài Loan đã tổ chức nhiều hoạt động cứu trợ nhân đạo quốc tế cho Irắc. Tháng 12/2004, tai nạn sóng thần ở Nam Á, các tổ chức XHDS, Đài Loan đã tiến hành các cứu trợ nhân đạo, đưa ra nhiều hạng mục cứu trợ nhân đạo cho những người dân bị “thiên tại, dịch họa”. Đáng chú ý là trong trận động đất 21/9/1999 đã gây ra những tổn thất lớn lao về người và của ở Đài Loan. Nhưng qua công tác cứu trợ cho thấy sự phát triển các tổ chức của các hoạt động cứu trọ nhân đạo ở Đài Loan. Các tổ chức phi chính phủ Đài Loan đã tham gia công tác cứu trợ một cách hiệu quả và chuyên nghiệp. Đó là các tổ chức từ thiện cứu trợ nhân đạo ở Đài Loan, Liên minh tổ chức y dược Đài Loan, Hội Lô Trúc, Hội trữ Thập đỏ, HIệp hội phục vụ trí thiện Trung Hoa, Quỹ Irắc, Miến Điện, v.v. Cùng tham gia với các tổ chức xã hội dân sự Đài Loan, còn có rất nhiều các tổ chức XHDS quốc tế, kể cả những tổ chức ở các nước không có quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Họ đến Đài Loan, tích cực tham gia các hoạt động cứu trợ nhân đạo đã không phân biệt biên giới quốc gia, các tổ chức XHDS trên thế giới đã phát triển, trưởng thành và trở thành trào lưu chính của xã hội quốc tế. Qua công tác cứu trợ nhân đạo trong trận động đất ở Đài Loan 21/9/1999 có thể rút ra rằng: hãy đề cao năng lực của các tổ chức XHDS ở Đài Loan, thúc đẩy mạnh mẽ, có hiệu quả mạng lưới liên kết, hợp tác giữa các tổ chức XHDS Đài Loan với quốc tế, phát huy tính chủ động trong công tác xã hội của cả nhà nước và xã hội.
Trong sự phát triển của các tổ chức XHDS Đài Loan, vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Ngày 1/4/1998, Bộ Ngoại Giao Đài Loan lần đầu tiên đã tiến hành “Hội nghị tọa đàm về công tác ngoại giao với sự tham gia của tổ chức XHDS trong nước”. Sau đó cứ ba tháng lại tổ chức hội nghị tọa đàm về nội dung này một lần. Thực chất các cuộc tọa đàm nhằm dần dần biến nội dung các cuộc tọa đàm trở thành nội dung các Hội nghị về “Công tác cứu trợ nhân đạo quốc tế của Đài Loan”. Ngày 27/1/2000, Vụ các tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại Giao Đài Loan đã chủ trì Hội nghị: “Thành lập liên minh các tổ chức XHDS Đài Loan” trợ giúp nhân đạo quốc tế”. Đài Loan đã thành lập tổ chức phi chính phủ Đài Loan bao gồm các Tổng hội trợ giúp đồng bào gặp tai nạn ở Trung Quốc, Tổng hội chữ Thập đỏ Trung Hoa Dân quốc, Hiệp hội nhân quyền Trung Quốc.
Tổng hội Trung Hoa dân quốc, Ban trợ giúp quốc tế, Hội doanh nghiệp thanh niên quốc tế, Quỹ phúc lợi phục vụ xã hội Irắc – Miến Điện (Myamma), Quỹ giúp đỡ gia đình, thiếu nhi Trung Hoa, quỹ cứu trợ sự nghiệp phát triển Phật giáo, Hội triển vọng thế giới của Đài Loan, Quỹ hợp tác quốc tế Đài Loan, Hiệp hội phục vụ chí thiện Trung Hoa, Hiệp hội phục vụ văn giáo Tri Phương Thảo Trung Hoa dân quốc, Trung tâm văn hóa Minh Đạo, Liên minh y dược Đài Loan, Hội Lộ Chúc Đài Loan, Công hội đồng nghiệp sản xuất dược phẩm Đài Loan, Quỹ bác ái Thiên chúa giáo Đài Loan, Hiệp hội từ thiện nhi đồng Trung Hoa dân quốc, Học hội thiền định Trung Hoa Dân quốc… Bao gồm 25 tổ chức trợ xã hội trợ giúp nhân đạo và hợp tác phát triển quốc tế. Hội nghị đã nhất trí đề cử Hội triển vọng thế giới của Đài Loan, Hội Lệ Trúc Đài Loan, Quỹ phúc lợi phục vụ xã hội Irắc – Miến Điện (Myamma), Hiệp hội Tri Phương Thảo, và Trung tâm nghiên cứu tổ chức phi chính phủ quốc tế Đại học quốc lập Trung Sơn là ủy viên, có nhiệm vụ triệu tập, xây dựng chương trình hoạt động nhằm xây dựng và tổ chức hoạt động “Liên minh tổ chức xã hội dân sự Đài Loan và trợ giúp quốc tế” [17].
Nhưng do sự thiếu gắn kết hoạt động các tổ chức XHDS theo chiều ngang, do nhà nước không chủ động chỉ đạo thường xuyên, nên kết quả của Hội nghị đã không được triển khai thực hiện hiệu quả.
Gần đây, do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Đài Loan, do nhu cầu nội tại của nền dân chủ Đài Loan, do sự phát triển nhanh chóng của các tổ chức XHDS Đài Loan, cùng với sự chèn ép của Trung Quốc đối với các tổ chức XHDS quốc tế đối với các tổ chức phi chính phủ Đài Loan nói riêng, với tổ chức XHDS Đài Loan nói chung, đã thúc đẩy mạng lưới liên kết các tổ chức XHDS của Đài Loan, của Đài Loan với thế giới ngày càng gắn bó chặt chẽ và hoạt động mạnh mẽ, hiệu quả hơn. Hiện nay, cơ chế hoạt động của các tổ chức XHDS Đài Loan mang tính chuyên nghiệp, có tổ chức, nội dung phong phú, có sự liên kết chặt chẽ thành mạng lưới rộng rãi trong nước và quốc tế. XHDS phát triển đã có vai trò to lớn nhằm thúc đẩy Đài Loan phát triển vững mạnh kinh tế - xã hội đất nước.
2.2.2.3. Lực lượng xã hội dân sự ở Đài Loan
- Qua phân tích của các nhà xã hội học Đài Loan, trong xã hội Đài Loan hiện nay, cả ở 3 khu vực: nhà nước, thị trường xã hội và xã hội dân sự thì các các nhân, tổ chức có ảnh hưởng lớn nhất đến xã hội lần lượt là : nhà nước, thị trường, và cuối cùng là xã hội dân sự. Các nhà xã hội học Đài Loan đã chia thành 4 cấp độ khác nhau về mức độ ảnh hưởng. Xem bảng sau đây:
Bảng 1: Mức độ ảnh hưởng đối với xã hội Đài Loan
Mức độ ảnh hưởng to lớn
|
Mức độ ảnh hưởng lớn
|
Mức độ ảnh hưởng vừa phải
|
Mức độ ảnh hưởng kém
|
Viện Lập pháp (nhà nước);
Nhóm cố vấn;
Tham mưu (thị trường);
Hệ thống giáo dục (nhà nước);
Tập đoàn tài chính doanh nghiệp (thị trường);
Cơ quan pháp luật (nhà nước);
Tổng thống (nhà nước).
|
Các chính đảng (XHDS);
Các tổ chức tôn giáo (XHDS).
|
Ý kiến lãnh đạo (XHDS);
Tổ chức công đoàn (XHDS);
Phúc lợi xã hội (XHDS);
Tổ chức bảo vệ môi trường (XHDS);
Các nhóm quyền lực ngầm (XHDS).
|
Doanh nhân – người có tên tuổi (XHDS).
|
Qua bảng 1, có thể thấy rằng, đối với xã hội Đài Loan, nhóm có ảnh hưởng lớn nhất đến xã hội là nhà nước và thị trường. Trong đó, nhà nước đặc biệt có ảnh hưởng lớn nhất. Xét về mối quan hệ nhà nước – thị trường – xã hội dân sự, thì nhà nước vẫn khống chế xã hội Đài Loan ở mức cao nhất, rồi tiếp theo là thị trường! Còn đối với XHDS Đài Loan, nó không có ảnh hưởng lớn đến xã hội như nhà nước và thị trường, vì vậy sự phát triển của XHDS Đài Loan vẫn đang ở trong giai đoạn manh nha, non trẻ. Trong mối quan hệ giữa chúng, thì mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường có sự tác động tương hỗ, qua lại nhau lớn hơn quan hệ liên kết giữa nhà nước với XHDS. Và sự tác động qua lại giữa thị trường với XHDS không phải là hiện tượng phổ biến trong xã hội Đai Loan. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn chưa phát triển phổ biến ở Đài Loan [18].
- Các nhà nghiên cứu Đài Loan cũng chỉ ra mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với xã hội của cá nhân, tổ chức XHDS Đài Loan. Xem bảng 2 sau đây.
Bảng 2: Mức độ ảnh hưởng của các tổ chức XHDS đối với xã hội Đài Loan
Mức độ ảnh hưởng to lớn
|
Mức độ ảnh hưởng lớn
|
Mức độ ảnh hưởng vừa phải
|
Mức độ ảnh hưởng kém
|
Các tổ chức từ thiện, cứu trợ nhân đạo;
Các giáo hội trưởng lão;
Hội nông dân, ngư dân;
Quỹ người tiêu dùng
|
Hội phụ nữ tri thức mới;
Hội triển vọng thế giới;
Quỹ phúc lợi xã hội Y Miến;
Quỹ phát triển hợp tác quốc tế;
Hội chữ thập đỏ;
Hội xúc tiến quốc tế các trường đại học; Công hội y viện toàn quốc;
Quỹ cải cách tư pháp; Quỹ giúp đỡ gia đình;
Hiệp hội doanh nghiệp xã hội; Quỹ châu Á của Đài Loan; Hội nữ thanh niên cơ đốc giáo;
Quỹ giáo dục nhân bản…
|
Liên minh những người tàn tật;
Hội Liên hiệp toàn quốc tổ chức phụ nữ Đài Loan;
Công đoàn nhà báo;
Hội xúc tiến nhân quyền Đài Loan;
Quỹ Hymalaya.
|
Liên minh phúc lợi người già;
Liên minh phúc lợi xã hội;
Liên minh phúc lợi nhi đồng;
Quỹ cải cách y tế.
|
Qua bảng 2, các tổ chức XHDS có ảnh hưởng lớn nhất ở Đài Loan là các tổ chức từ thiện, cứu trợ nhân đạo; các giáo hội trưởng lão; Hội nông dân, ngư dân; Quỹ người tiêu dùng. Trong đó, các tổ chức từ thiện và cứu trợ nhân đạo, các giáo hội trưởng lão là các tổ chức tôn giáo, mục đích hoạt động nhằm cứu trợ nhân đạo, hợp tác phát triển, hợp tác y tế, với số hội viên tương đối đông. Trong quá trình hoạt động, hai tổ chức XHDS này có mối quan hệ tương đối chặt chẽ với chính quyền do Đảng Dân Tiến là lãnh đạo, vì vậy, nó có ảnh hưởng tương đối mạnh mẽ với xã hội Đài Loan. Hội nông dân và ngư dân là lực lượng chính trị cơ sở của các cấp địa phương, nên có tác động mạnh mẽ đối với xã hội Đài Loan. Còn Quỹ người tiêu dùng lại tiêu biểu cho lợi ích tiêu dùng của toàn dân, vì vậy, mức độ ảnh hưởng của nó rất lớn. Bốn tổ chức kể trên có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội Đài Loan, ngoài ra các tổ chức XHDS khác cũng có ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau đến xã hội Đài Loan (từ mức độ lớn đến vừa phải và kém). Nó đại điện cho các tầng lớp xã hội khác nhau như phụ nữ, tôn giáo, nhi đồng, người tàn tật, người nghèo, người yếu thế trong xã hội, giáo dục, y tế, môi trường, người già, và các tổ chức hợp tác quốc tế v.v… Có một điều không thể xem nhẹ, đó là , trong quá trình phát triển XHDS ở Đài Loan, các tổ chức XHDS ở Đài Loan thiếu liên kết, hợp tác chặt chẽ với nhau theo chiều ngang. Vì vậy dẫn đến sự phân tán, cục bộ. Và do sự khống chế của nhà nước, nên XHDS Đài Loan còn chưa chủ động, tự chủ, độc lập [19].
Giáo sư Hsin – Huang Michael Hsiro, một nhà xã hội học nổi tiếng ở trường đại học Quốc gia Đài Loan đã đánh giá xác đáng về các lực lượng tham gia XHDS ở Đài Loan hiện nay. Giáo sư cho rằng, từ năm 1980, nhân dân Đài Loan đã xây dựng nhận thức chung, có tính tập thể, về việc xác định chất lượng tự chủ của “cái xã hội”. Và thái độ của dân chúng đối với chính phủ cũng “thay đổi”! Người dân đã kiến nghị với nhà nước xử lý những vấn đề xã hội mới , bức xúc, như vấn đề an toàn công cộng kém đi, chất lượng môi trường, tội phạm kinh tế, phân bổ thu nhập, vấn đề giao thông…thay cho những vấn đề mà chính phủ quan tâm có tính lâu dài như an ninh quốc gia, ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế…
Giáo sư đã đưa ra 3 khái niệm là lực lượng chính trị, lực lượng kinh tế, lực lượng xã hội để phân tích những thay đổi đã bộc lộ về các quan hệ quyền lực ở Đài loan từ năm 1947 đến nay. Từ năm 1947 đến nay, Đài Loan đã trải qua 3 giai đoạn thể hiện các động thái quyền lực khác nhau.
- Giai đoạn 1: 1947 – 1962, là giai đoạn “các lực lượng chính trị nắm giữ quyền lực tuyệt đối. Bắt đầu từ sư kiện “18 tháng 2” năm 1947, quân đội quốc gia (nationalist)đàn áp tàn bạo những người dân địa phương Đài Loan. Chế độ Quốc dân đảng đã thiết lập một chế độ độc tài trên hòn đảo này. Tất cả đời sống của công cộng người dân bị kiểm soát toàn diện, dưới sự kiểm soát của nhà nước Đảng trị - quân phiệt. Các lực lượng chính trị được đặt lên trên tất cả. Xã hội dân sự Đài Loan bị kiểm soát hoàn toàn bởi bộ máy nhà nước trung ương do người đại lục lãnh đạo.
- Giai đoạn 2: 1963 – 1978, là giai đoạn “các lực lượng kinh tế gần như giữ vị trí hàng đầu”. Đây là giai đoạn do chính phủ Quốc dân đảng lãnh đạo đã đưa tăng trưởng kinh tế vào chương trình nghị sự ưu tiên để cầm quyền ở Đài Loan. Sự chuyển dịch từ chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISIS) sang chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (EOI) đã “sản sinh” ra những nhà tư bản tư nhân (bao gồm cả người Trung Hoa lục địa và bản địa Đài Loan). Đây là giai đoạn bùng nổ các doanh nghiệp vừa và nhỏ , sự nổi lên của tầng lớp trung lưu đô thị, bên cạnh tầng lớp công nhân công nghiệp với số lượng ngày càng tăng lên.
Các đường lối phát triển kinh tế được xem xét một cách nghiêm túc, các lợi ích kinh tế đã tạo sức ép đối với nhà nước nhằm tạo ra các cơ hội cởi mở hơn trong giai đoạn thực hiện chiến lược EOI. Đến cuối thập kỷ 1970, hai lực lượng chính trị và kinh tế đã hình thành liên minh và kết hợp sức mạnh để đẩy nhanh phát triển chủ nghĩa tư bản. Đến cuối giai đoạn này, các nỗ lực “tìm kiếm cội rễ” đã được đẩy mạnh bởi các bộ phận khác nhau của XHDS (trước kia, XHDS vẫn bị ép buộc và thuần phục). Trong số họ, khoa học xã hội đã có bước khởi đầu đáng kể. Các phong trào, hoạt động nổi lên như: Tìm hiểu tính bản địa trong văn học, âm nhạc, kĩ kịch. Các nhà trí thức đưa ra tranh luận về (ý thức Đài Loan mới v.v). Phong trào này mới chỉ gói gọn trong tầng lớp trí thức, chưa đến được với các nhóm xã hội và nhóm kinh tế. XHDS vẫn chưa được huy động để thách thức trực tiếp đến quyền lực của nhà nước độc tài.
- Giai đoạn 3: Từ 1979 đến nay, đây là giai đoạn các lực lượng xã hội được phát triển. XHDS phát triển xuyên suốt các giai cấp và dân tộc, sắc tộc, đã phát triển sang một chu trình phát triển mới.
Sự phát triển của công nghiệp đã nuôi dưỡng XHDS với nguồn lực kinh tế mới. Những nhu cầu cơ bản của các bộ phận khác nhau trong xã hội tư bản chủ nghĩa chín muồi ở Đài Loan đã gây áp lực đòi hỏi phải thay đổi bên trong quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Những tổ chức XHDS ở Đài Loan có tiếng nói trực diện hơn, các hành động mang tính tập thể, đòi hỏi nhà nước phải đáp ứng giải quyết các nhu cầu đó. Tuy XHDS Đài Loan là thực thể không đồng nhất, nhưng các tổ chức XHDS Đài Loan vẫn cùng tham gia một mặt trận, đó là đòi tự chủ, thoát khỏi sự thống trị của Nhà nước. Điều đó đã buộc chính quyền Quốc dân Đảng đã phải chuyển đổi hệ thống từ “Chủ nghĩa độc tài cứng sang độc tài mềm”. Phong trào XHDS đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi dân chủ ở Đài Loan. Các phong trào XHDS ở Đài Loan giai đoạn 3, đặc biệt từ năm 1988 trở đi có khoảng 18 phong trào xã hội, được xếp vào một số nhóm các phong trào chính như:
1. Nhóm các kiến nghị chống lại tình trạng nhà nước không hành động khi phải đối mặt với các vấn đề mới như: bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, bảo tồn sinh thái, ...
2. Nhóm các phong trào biểu tình chống lại các chính sách của nhà nước đối với các quyền ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo tồn di sản, kiểm soát đất đai, ...
3. Nhóm các phong trào biểu tình chống lại những chính sách yếu kém, hoặc không đầy đủ đối với việc chăm sóc, bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương như người cao tuổi, người khuyết tật, các cựu chiến binh, hoặc đối xử công bằng với nhóm tôn giáo khác nhau.
4. Nhóm các phong trào đấu tranh với nhà nước nhằm chống lại sự kiểm soát đối với các nhóm xã hội chủ chốt như: công nhân, nông dân, trí thức, giáo viên, sinh viên, phụ nữ, v.v.
5. Nhóm các phong trào đấu tranh với nhà nước yêu cầu đòi thay đổi những quy tắc lâu đời quản lý các vấn đề chính trị nhạy cảm như: cấm đoán tiếp xúc giữa người dân Đài Loan với Lục địa, thực hiện quyền con người của các nạn nhân chính trị, ...
Cụ thể, các phong trào xã hội của Đài Loan từ năm 1987 đến nay bao gồm:
1. Phong trào người tiêu dùng
Phong trào ra đời từ năm 1980, sau năm 1987 (bãi bỏ lệnh giới nghiêm), phong trào ngày này càng phát triển rộng rãi, mạnh mẽ hơn. Phong trào này đã quan tâm chính đến mọi người dân tiêu dùng. Mọi người đã thành lập “Quỹ người tiêu dùng”. Đây là tổ chức người tiêu dùng ở cơ sở các cấp. Do những trí thức và các nhà chuyên môn thuộc tầng lớp trung lưu thành lập. Họ thay mặt cho người tiêu dùng để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Từ sau năm 1987, Quỹ tiêu dùng là một trong 4 tổ chức XHDS tích cực nhất, có ảnh hưởng lớn nhất trong xã hội Đài Loan. Do sự tồn tại và những áp lực của Quỹ người tiêu dùng gây ra đối với các cơ quan liên quan đến chính phủ đã buộc chính phủ phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả, nghiêm minh. Các chính sách bảo vệ người tiêu dùng. Điều đó đã minh chứng cho vai trò của tổ chức XHDS rất to lớn, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng “vì dân”. Những phương pháp đấu tranh kết hợp giữa rung chuông cảnh tỉnh đối với dân chúng thông qua các chương trình trên truyền thông đại chúng, cùng với việc tham gia vào các cuộc đối thoại chính sách, với các quan chức đã giáo dục, hoặc nâng cao nhận thức cho người tiêu dùng. Cùng với việc thông qua các cuộc hội thảo, tọa đàm ấn hành các báo cáo tiêu dùng hàng tháng, cung cấp hỗ trợ, tư vấn pháp lý cho những người tiêu dùng bị hại bởi các nhà sản xuất về trách nhiệm. Phong trào này đã rất thành công trong việc gây áp lực để nhà nước phải thay đổi chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng luôn được xem là mô hình tốt để các phong trào xã hội khác học tập noi theo.
2. Phong trào biểu tình chống ô nhiễm ở địa phương (Local anti-pollution Protest Movements)
Phong trào này ra đời từ năm 1980, sau năm 1987 phong trào càng phát triển mạnh mẽ. Do chú trọng phát triển kinh tế, các nhà sản xuất hầu hết chỉ chú ý đến lợi nhuận nên đã lơ là, ít quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Những người dân địa phương, nạn nhân của ô nhiễm đã tổ chức các cuộc biểu tình, với sự tham gia, hỗ trợ tình nguyện của những học giả, sinh viên đại học, các nhà báo … Ước tính từ năm 1981 đến 1988 có đến 108 cuộc vận động biểu tình ở mọi nơi trên hòn đảo Đài Loan nhằm đấu tranh chống ô nhiễm môi trường. Những người biểu tình đã kết hợp sử dụng đe dọa bạo lực và cưỡng bức để buộc những kẻ đã gây ra ô nhiễm môi trường phải tuân thủ các yêu cầu của nạn nhân (Thường là sau một thời gian dài mệt mỏi thỉnh cầu đến cơ quan chính quyền địa phương bị thất bại, không đạt được bất kì kết quả nào). Cuối cùng, cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường đã giành được thắng lợi. Các nhà máy gây ô nhiễm buộc phải cải thiện tình hình, thậm chí buộc phải đóng cửa. Có những nhà máy mới xây dựng cũng buộc phải dừng sản xuất vì chưa đảm bảo việc xử lý ô nhiễm môi trường. Ví dụ như Đài Loan buộc phải dừng thi công nhà máy điện hạt nhân số 4 qua 12 năm đấu tranh của phong trào xã hội bảo vệ môi trường (từ năm 1980 đến năm 1992). Trải qua thực tiễn đấu tranh bảo vệ môi trường, phong trào bảo vệ môi trường ở Đài Loan đã không ngừng phát triển. Đến nay, Đài Loan đã thành lập được nhiều tổ chức xã hội chống ô nhiễm môi trường ở các nơi trên các địa phương toàn quốc, điển hình như: “Hội bảo vệ môi trường Đài Loan”, “Tổ chức hòa bình xanh Đài Loan”, …. Những tổ chức bảo vệ môi trường này đã thường xuyên gây áp lực đối với nhà nước nhằm điều chỉnh các chính sách hiện hành để cải thiện môi trường sống ngày càng tốt đẹp hơn.
3. Phong trào bảo tồn (Convervationist’s Movement)
Đầu những năm 1980, một số trí thức như học giả, nhà văn, … đã vận động bảo tồn những khu vực có sinh vật và động vật hoang dã, những cảnh quan thiên nhiên bị đe dọa nghiêm trọng. Nhưng những nỗ lực đầu tiên đã không được sự hưởng ứng của công chúng, và không được chính quyền các cấp quan tâm. Nhưng đến năm 1982, Hội bảo tồn thiên nhiên hoang dã (SWAN) đã được thành lập theo ý kiến của các nhà bảo tồn thiên nhiên hoang dã và của giới học giả. Với cách đấu tranh mềm mỏng như đề xuất các yêu cầu cho các chính quyền các cấp, đồng thời sử dụng các ấn phẩm báo chí, tuyên truyền, tổ chức các tour tham quan, các địa điểm bảo tồn… nhằm bảo vệ những khu vực thiên nhiên hoang sơ, những khu rừng hoang sơ, những động vật hoang dã, quý hiếm. Cho đến nay, giới trí thức, trung lưu vẫn là lực lượng chính, đang kéo theo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tuy vậy, so sánh với phong trào môi trường, thì phong trào bảo tồn thiên nhiên vốn ít có cơ sở quần chúng, ít có các cuộc biểu tình, tuần hành.
4. Phong trào phụ nữ (women’s movement)
Làn sóng đấu tranh của phụ nữ Đài Loan khởi xướng từ năm 1970. Các phụ nữ trí thức tiến bộ, đứng đầu là bà Lu Hsio – Lian, sau đó là các nhà lãnh đạo đối lập tham gia vào vụ Cao Hùng năm 1979, đấu tranh chống lại chính quyền độc tài Quốc dân đảng, bảo vệ các quyền của người phụ nữ. Nhưng trong giai đoạn đầu, phong trào không nhận được sự ủng hộ của quần chúng, bởi sự nghi ngờ về động cơ chính trị của phong trào đấu tranh. Nhưng phong trào phụ nữ đã được phục hồi. Nhóm phụ nữ mới có tên là “Nhóm thức tỉnh” do các nữ trí thức thế hệ tiếp theo thành lập, đã đưa ra những vấn đề nữ quyền nhằm chống lại những quy tắc đạo đức cổ hủ, cố hữu bảo thủ, thách thức lại những niềm tin nam trị… Trong những năm cuối thập niên 1980, có nhiều tổ chức phụ nữ mới đã được ra đời với mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ. Họ đã đấu tranh bảo vệ nữ vị thành niên mại dâm, bảo vệ phúc lợi xã hội cho trẻ em, cải thiện vị thế phụ nữ trong xã hội, đấu tranh bảo vệ môi trường… Phong trào đã thách thức lại những quan điểm pháp lý phân biệt đối xử mà nhà nước ủng hộ. Phong trào phụ nữ đã tổ chức nhiều hình thức đấu tranh khác nhau. Ví dụ như tổ chức các đợt nghiên cứu về các vấn đề phụ nữ, tổ chức các đợt tuần hành, biểu tình vì những mục tiêu cụ thể, thông qua truyền thông đại chúng tiến hành giáo dục cho công chúng vể vai trò của người phụ nữ mới…
5. Phong trào quyền của người dân bản địa (1983) (aborigine human tight movement)
Nó được bắt đầu như một cuộc vận động nhận thức văn hóa của một nhóm thanh niên trẻ bản địa “Shandy Ren”. Phong trào này được ra đời từ năm 1983, với mục tiêu thúc đẩy quyền con người của người dân bản địa, vận động cho các quyền pháp lý và xã hội của các dân tộc thiểu số ở Đài Loan chỉ chiếm 2% dân số, nhưng họ phải được quyền thụ hưởng các quyền về đất đai của người bản địa, được tôn trọng và đề cao như các dân tộc khác. Phong trào đòi hỏi nhà nước phải đưa ra các chính sách mới , đảm bảo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền sống, quyền làm việc, quyền tự do bình đẳng cho họ. Chống lại những hành vi hạ thấp, coi thường người dân thiểu số. Phải sửa đổi sách giao khoa tiểu học đã viết sai, coi thường họ. Chống lại việc chính quyền các cấp xây dựng cơ sở điện hạt nhân trên đảo Hoa Lan, nơi người dân tộc thiểu số Yami đang sinh sống. Chống lại bị áp đặt gọi tên theo tiếng Hán, mà bỏ đi những tên của người bản địa đang sử dụng…
Các phương pháp đấu tranh của phong trào là tuần hành, biểu tình là chủ yếu. Phong trào đã thành lập các tổ chức liên minh xã hội, được những trí thức ủng hộ, đặc biệt là giới trí thức bản địa, các nhóm lớp tôn giáo, và các tầng lớp dân cư khắp nơi ủng hộ.
6. Phong trào sinh viên (1986) (student movement)
Chính quyền Quốc dân đảng muốn giữ kí túc xá của các sinh viên các trường đại học luôn im lặng, vì vậy, họ đã sử dụng nhiều công cụ “cứng”, “mềm” để giám sát, tách biệt các kí túc xá sinh viên ra khỏi các hoạt động phong trào chính trị ở bên ngoài xã hội. Đến giữa thập niên 1980, phong trào sinh viên vẫn trầm lắng, không gây thách thức cho chính quyền. Nhưng đến năm 1986, tình hình đã có thay đổi. Các yêu cầu do nhóm sinh viên trường đại học quốc gia Đài Loan đưa ra nhằm thực hiện chính sách tự do hơn trong các trường đại học, tự do lập Hội sinh viên, tăng tính tự chủ…Những yêu cầu đó của sinh viên đã thách thức lại quản lý nhà trường, chống lại những quy tắc cấm kị mà chính quyền Quốc dân đảng đã áp đặt tại trường. Sinh viên đã đấu tranh chống lại những quy tắc cấm kị, đòi quyền tự quản, tự trị… Và, thậm chí còn đấu tranh chống lại tính chính danh của chính quyền quân sự tại trường, chống lại sự áp đặt giáo dục chính trị và quân sự. Chỉ trong vòng hai năm, phong trào sinh viên đã lan ra khắp các trường đại học trong cả nước, gây áp lực đòi cải cách giáo dục…
7. Phong trào nhà thờ New Testament (New Testament Church Protests)
Phong trào bắt đầu từ những cuộc biểu tình của nhà thờ nhằm chống lại chính quyền quân sự độc tài đã ngăn cấm các giáo sĩ và giáo dân cư trú tại những miền núi rừng hẻo lánh ở miền Nam Đài Loan. Xung đột đã xảy ra nhiều năm giữa hai bên. Nó đặc biệt gia tăng khi chính quyền quân sự độc tài không cho nhóm tôn giáo quốc tế vào thăm Đài Loan. Những cuộc biểu tình của nhóm tôn giáo Đài Loan có phạm vi nhỏ, hẹp, không lan rộng. Sau khi được hòa giải thì phong trào nhà thờ trở nên im lặng hơn.
8. Phong trào lao động (1987) (Labour Mouvement)
Chính sách của nhà nước độc tài Quốc dân đảng đưa ra, đã không đảm bảo được sự tự chủ cho công đoàn và phúc lợi cho người lao động. Công nhân và công đoàn là đối tượng chịu sự kiểm soát gắt gao của nhà nước. Trong khi đó, xem xét về giai cấp công nhân ở Đài Loan, thế hệ giai cấp công nhân đầu tiên thường xuất hiện từ nông thôn, di cư ra thành phố. Vì vậy họ có quan niệm bảo thủ, thường gắn bó với quê hương gốc rễ ở nông thôn. Thế hệ công nhân thứ hai đã phần nào thoát thai khỏi môi trường nông thôn. Họ luôn phản biện những chính sách bảo vệ chủ quản lý doanh nghiệp của nhà nước. Cuối những năm 1970, mối quan hệ giữa người lao động và chủ quản lý doanh nghiệp tại nơi làm việc đã dần có sự thay đổi. Đến thập niên 1980, những tranh chấp lao động tăng lên, nhưng vẫn ít có phong trào vận động công nhân. Phải đến cuối năm 1987, khi vấn đề tiền thưởng cuối năm nổ ra trong các nhà máy, doanh nghiệp, thì sự xung đột giữa người lao động với các chủ doanh nghiệp đã nổ ra rộng khắp, mạnh mẽ, trở thành phong trào lao động khắp Đài Loan. Trong cuộc bầu cử năm 1986, giai cấp công nhân lao động đã bày tỏ sự bất đồng, mâu thuẫn với chính quyền Quốc dân đảng. Họ đã bày tỏ bằng cách bỏ phiếu cho hai ứng viên của Đảng Dân Tiến (DPP) vào cơ quan lập pháp và quốc hội. Tuy vậy, các phiếu bầu này vẫn không thể là minh chứng nhằm kết nối trực tiếp giữa phong trào lao động với Đảng đối lập (DPP). Bởi vì, Đảng DPP không quan tâm nhiều đến phong trào lao động! Trong khi đó, đảng Quốc dân cầm quyền đã nhận thức được sự nổi dậy bất bình của phong trào lao động. Vì vậy, chính quyền Quốc dân đảng đã có một số nhượng bộ đối với phong trào lao động. Kết quả, dẫn đến sự thành lập Ủy ban lao độngmới tại trung ương nhằm xử lý các kiến nghị, yêu cầu ngày càng tăng của người lao động.
Trong khi đó, phong trào lao động ngày càng hoạt động tích cực, bạo liệt hơn, có kỷ luật, có tổ chức chặt chẽ hơn. Họ đã đưa ra nhiều kiến nghị, yêu cầu rõ ràng, mạnh mẽ hơn về các điều kiện chính trị - kinh tế đất nước phải phù hợp với người lao động. Các cuộc đấu tranh như biểu tình, đình công ngày càng tăng lên nhiều, khiến cho “Ủy ban lao động mới” không thể giải quyết hiệu quả các yêu cầu của người lao động. Các tổ chức xã hội của người lao động như Hội, Công đoàn đã được thành lập nhiều hơn tại các nhà máy, doanh nghiệp. Có những hình thức mới ra đời như các liên đoàn lao động liên vùng, liên nhà máy, liên ngành công nghiệp… Cùng với sự ra đời của “Đảng lao động” năm 1987, sau khi bị chia tách, một nhóm trong Đảng lao động đã thành lập “Đảng Công nhân” vào đầu năm 1989, đã tạo ra xu hướng chính trị hóa phong trào lao động…
9. Phong trào nông dân (năm 1987) (farmers’ movement)
Sau cuộc cải cách ruộng đất ở Đài Loan (1949 – 1953), các nông dân nhỏ ở Đài Loan là lực lượng bảo thủ, giữ vai trò nòng cốt đứng sau chế độ Quốc dân đảng. Tuy vậy, họ cũng như giai cấp công nhân, không có quyền lực chính trị trong xã hội. “Hội nông dân” còn bị thao túng bởi các phe phái chính trị ở địa phương, bị chính quyền Quốc dân đảng kiểm soát. Họ không có quyền thương lượng với nhà nước – đảng trị. Đặc điểm kinh tế - xã hội của người nông dân nhỏ đã bị thay đổi, do khu vực sản xuất nông nghiệp bị suy giảm. Trước tình hình đó, người nông dân đã bày tỏ kiến nghị với chính phủ về chính sách phát triển nông nghiệp của đất nước, nhưng họ lại không có những hành động xã hội có tổ chức… Đến năm 1987, hơn 3000 nông dân trồng hoa quả đã tập trung trước Viện Lập pháp, yêu cầu nhà nước phải có biện pháp bảo vệ người nông dân trước nạn hoa quả nhập khẩu, chủ yếu từ Hoa Kỳ. Phong trào nông dân tự phát do người bản địa, người lục địa cũ, người Đài Loan đứng ra, không có mối liên hệ với bất kì đảng phái chính trị nào. Sau năm 1987, Đài Loan cũng xuất hiện một số cuộc biểu tình với quy mô lớn của nông dân, được diễn ra trong phạm vi của toàn quốc, đòi hỏi nhà nước phải điều chỉnh chính sách nông nghiệp, phải thay đổi các chính sách để bảo đảm đời sống của người nông dân… Mục tiêu đấu tranh của phong trào nông dân cũng dần dần được mở rộng sang các lĩnh vực khác như trồng lúa, lĩnh vực bảo hiểm nông dân, lĩnh vực dân chủ hóa.
Hiệp hội nông dân, xem xét lại chính sách nông nghiệp đề nghị thành lập “Bộ Nông nghiệp”, thành lập “Hội thúc đẩy quyền nông dân độc lập” tại các địa phương… Sau các cuộc biểu tình diễn ra thường xuyên, dẫn đến cuộc diễu hành ngày 20/5/1988 do nông dân trồng lúa các Huyện miền Nam tổ chức đã dẫn đến bạo lực đô thị lớn ở Đài Bắc. Từ đó, chính phủ mới bắt đầu xem xét một cách nghiêm túc những yêu sách của người nông dân. Sự kiện “Chủ tịch Hội đồng phát triển nông nghiệp và lập quy hoạch Đài Loan” đã bị thay thế bằng một nhà kỹ trị kinh tế học nông nghiệp, đã cho thấy vấn đề nông nghiệp đã được chính quyền của Tổng thống Lý Đăng Huy coi trọng. Ví dụ như, chế độ bảo hiểm nông nghiệp cấp tỉnh đã được thí điểm, những thủ tục lựa chọn Tổng thư ký hội nông dân cũng đã được thay đổi, ít có sự can thiệp của Quốc dân đảng. Và một hội nghị quốc gia về nông nghiệp đã được tổ chức nhằm đưa ra các phương châm hành động về phát triển nông nghiệp. Rõ ràng, “phong trào nông dân” là một phong trào xã hội có tổ chức nhằm vào chính quyền các cấp, mục tiêu là kiến nghị đưa ra yêu sách nhằm đẩy mạnh quyền tự chủ của người nông dân, của hội nông dân, nâng cao tự do dân chủ cải thiện đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nông nghiệp nông dân nông thôn, ... [20].
Ngoài 9 phong trào xã hội và giáo sư H.Sin – Huang Michael Hsiao đã phân tích rõ ràng ở trên, còn có 9 phong trào xã hội biểu tình nổi lên, đã đưa ra những yêu sách với nhà nước do Quốc dân đảng cầm quyền đó là:
1. Phong trào quyền giáo viên (Teacher’s Right Movement)
2. Nhóm phúc lợi của người tàn tật, dễ bị tổn thương (Handicapped and disad vataged welfare group protests)
3. Phong trào bảo vệ phúc lợi cho các cựu chiến binh ( Veteran’s welfare protests)
4. Phong trào quyền con người (Human Right Movement)
5. Phong trào trở về thăm nhà của người Lục địa (Mainlander’s home – visitting Movement).
6. Phong trào người Đài Loan về thăm thân (Taiwanes home - visitting Movement)
7. Phong trào chống năng lượng hạt nhân (Antin nuclear power Movement).
8. Phong trào Hakka (Hakka Rights Movement).
9. Phong trào người không có nhà (Ốc sên không vỏ - Non homeowners’s shell – Less snail movement).
Qua phân tích hoạt động của 18 phong trào xã hội ở Đài Loan từ thập niên 1980 đến nay các học giả Đài Loan đã rút ra một số đặc điểm chung như sau:
- Các phong trào xã hội tiến hành đấu tranh, biểu tình nhằm đòi hỏi nhà nước Quốc dân đảng phải cải cách, thay đổi mối quan hệ nhà nước – xã hội, đảm bảo tính tự chủ của XHDS
- Các xung đột giai cấp không phải là động cơ chính để huy động hoạt động phong trào có tổ chức. Mục tiêu chính của phong trào là kiến nghị yêu cầu nhà nước phải điều chỉnh, thay đổi chính sách đã lạc hậu.
- Hầu hết các phong trào xã hội đều áp dụng chiến lược phi chính trị. Họ tránh kết nối với phe đối lập chính trị. Vì vậy đảng DPP (Đảng Dân tiến) không đóng vai trò lãnh đạo đáng kể nào dẫn dắt các phong trào xã hội này một cách có tổ chức.
- Cảm thức tập thể đáng kể thể hiện ở các phong trào xã hội là (nhận thức nạn nhân), (cảm giác bị bỏ rơi, bị loại trừ). Hầu hết các thành viên tham gia các phong trào xã hội này đều coi mình là nạn nhân, thấy mình không được đối xử công bằng.
- Trong một thời gian ngắn, các phong trào đã được khẳng định rõ ràng và bắt đầu được “thể chế hóa”. Và những yêu cầu phong trào đưa ra đã được Nhà nước chú ý và đã có những đáp ứng nhất định.
- Giai đoạn đầu, sự liên kết các phong trào theo chiều ngang còn yếu kém. Nhưng qua thực tiễn hoạt động, dần dần các phong trào đã có sự liên kết thành mạng lưới, hoạt động có tổ chức, liên kết chặt chẽ, đã phát huy được sức mạnh buộc Nhà nước phải điều chỉnh, cải cách.
- Xã hội Đài Loan đã dần dần xuất hiện một loại văn hóa chính trị mới, vững chắc từ sự huy động của XHDS. XHDS Đài Loan đã không còn là bộ phận tiếp nhận thụ động sự thống trị của Nhà nước Quốc dân Đảng. Nó đã được huy động thông qua quá trình học hỏi xuất phát từ các phong trào xã hội này. Qua đó, XHDS Đài Loan như một tổng thể không chỉ cho những người tích cực tham gia phong trào, mà đã đúc kết ra kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn đấu tranh, để kiến nghị đề đạt nguyện vọng của người dân cho Nhà nước. Cuối cùng nhằm thay đổi đường lối chính sách đã lỗi thời, lạc hậu, xây dựng chính sách mới tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn. Có thể khái quát là, “XHDS yêu cầu với một văn hóa chính trị tham dự mới”.
- XHDS yêu cầu đối mặt với Nhà nước Quốc dân Đảng, ở một chừng mực nào đó đã thúc đẩy sự chuyển đổi của nhà nước từ quy cách cầm quyền “cứng rắn” sang “mềm dẻo” hơn. Tự do hóa không có nghĩa là dân chủ hóa, nhưng tự do hóa thường thúc đẩy dân chủ hóa, khi quy tắc trò chơi giữa XHDS và nhà nước buộc bị thay đổi. Trong rất nhiều lĩnh vực chính sách, nhà nước Quốc dân Đảng buộc phải thay đổi, bắt đầu từ tự do hóa…nhằm đáp ứng những thách thức từ phía XHDS đòi hỏi. Nhà nước đã phải cho phép công dân về thăm lục địa, nhà thờ được xây dựng ở vùng miền núi…Các cơ quan quản lý đã phải cải cách quy định pháp lý, các luật mới được ra đời, như luật người tiêu dùng, luật đại học, quy định điều chỉnh quan hệ XHDS đang được dự thảo và trình thông qua.
Mặc dù các đáp ứng từ phía nhà nước còn chưa đủ hoặc đã không nhất thiết đáp ứng các đòi hỏi của XHDS, nhưng nhà nước đã có những bước đi, nhằm đáp ứng những yêu cầu không thể bỏ qua của phong trào XHDS đang ngày càng phát triển….Và điều đó đã có tác động thúc đẩy xã hội Đài Loan phát triển mạnh mẽ hơn [21].
2.2.2.4. Phân tích “cấu trúc” (structure) và “môi trường” (environment, conditions) của XHDS Đài Loan (Taiwan Civil Society)
Liên minh thế giới về sự tham gia của XHDS (civicus – world will alliance for citizen participation) là tổ chức quan trọng liên kết mạng công dân toàn cầu, đã ra sức thúc đẩy sự phát triển của XHDS toàn cầu. Để có tính hệ thống trong phân tích hành vi của XHDS đã ảnh hưởng đến sự phát triển trong mỗi quốc gia, civicus đã tiến hành hợp tác với 60 quốc gia trên thế giới, tiến hành điều tra các chỉ tiêu của XHDS từ năm 2003 đến 2005. Và đã công bố các chỉ tiêu XHDS của 60 nước trên thế giới, trong đó có Đài Loan vào năm 2006. Để tăng cường liên kết giữa Đài Loan với các tổ chức XHDS toàn cầu, Trung tâm nghiên cứu, tổ chức phi chính phủ quốc tế, của trường Đại học quốc gia Trung Sơn do GS. Lâm Đức Xương (Lin De Chang) làm chủ nhiệm, đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu có hệ thống các chỉ tiêu XHDS Đài Loan. Cuối cùng, đã đưa ra một bản báo cáo đầy đủ, toàn diện về các chỉ tiêu XHDS Đài Loan, chỉ rõ hiện trạng phát triển XHDS Đài Loan, và vai trò XHDS trong phát triển kinh tế - xã hội Đài Loan.
Bảng 3: Các chỉ tiêu XHDS ở Đài Loan


Giá trị (Value) 2,3


Môi trường (Environment) 2,2 Cấu trúc(Structure) 1,5
Tác động (Impact) 2,0
XHDS được đo lường bởi 4 chỉ tiêu, theo thang điểm cao nhất là 3 điểm. XHDS Đài Loan được đo lường như sau:
1. “Giá trị” được 2,3/3đ, như vậy chỉ tiêu “giá trị” của XHDS Đài Loan xếp vào loại tốt.
2. “Môi trường” được 2,2/3đ, như vậy chỉ tiêu “môi trường” của XHDS Đài Loan cũng xếp vào loại tốt.
3. “Cấu trúc” được 1,5/3đ, như vậy chỉ tiêu “cấu trúc” của XHDS Đài Loan xếp vào loại TB.
4. “Tác động” được 2,0/3đ, như vậy chỉ tiêu “tác động” của XHDS Đài Loan xếp vào loại khá.
Chúng ta sẽ lần lượt đo lường, lần lượt từng chỉ tiêu trong XHDS Đài Loan.
1. Cấu trúc: 1,5đ. Trong “cấu trúc” XHDS Đài Loan, các nhóm học giả do GS. Lâm Đức Xương (Lin De Chang) làm chủ nhiệm đề tài đã tiến hành đo lường trên 6 tiêu chí và đã xác định điểm số như sau:
Một: Độ rộng tham gia XHDS của người dân 1đ/3đ (Thấp)
Hai: Độ sâu tham gia XHDS của người dân 1đ/3đ (Thấp)
Ba: Tính đa dạng của XHDS Đài Loan 2đ/3đ (Khá)
Bốn: Mức độ tổ chức của XHDS Đài Loan 1,4đ/3đ (TB thấp)
Năm: Mức độ gắn kết, thông tin giữa các tổ chức XHDS của Đài Loan 2đ/3đ (Khá)
Sáu: Các nguồn lực (nguồn lực tài chính, nguồn lực kĩ thuật, nguồn lực con người) của các tổ chức XHDS Đài Loan 1,3đ/3đ (TB kém)
Từ tổng kết đo lường của các chỉ tiêu trên về “cấu trúc” XHDS ở Đài Loan có thể rút ra rằng:
- Độ rộng và độ sâu trong việc tham gia của người dân vào các tổ chức XHDS của Đài Loan năm 2006 là thấp kém.
- Mức độ tổ chức và các nguồn lực cho XHDS ở Đài Loan xếp vào loại trung bình yếu.
- Tính đa dạng, và mối quan hệ thông tin liên lạc giữa các tổ chức XHDS xếp vào loại khá.
2. Môi trường 2,2, điểm. Trong “Môi trường” XHDS Đài Loan, nhóm những người đánh giá đã đo đạc XHDS thông qua 7 tiêu chí sau đây:
Một là: Môi trường chính trị trong XHDS ở Đài Loan đạt 2,1 /3 điểm, xếp loại khá.
Hai là: Môi trường tự do và quyền lợi cơ bản đạt 2,0 điểm/ 3 điểm, xếp loại khá.
Ba là: Môi trường kinh tế, đạt 3 điểm/3 điểm, xếp loại tốt.
Bốn là: Môi trường văn hóa, xã hội đạt 2 điểm/ 3 điểm, xếp loại khá.
Năm là: Môi trường pháp lý đạt 2,3 điểm/3 điểm, xếp loại khá.
Sáu là: Mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự đạt 2,3 điểm/3 điểm, xếp loại khá.
Bảy là: Mối quan hệ giữa doanh nghiệp lợi nhuận (thị trường) với các tổ chức XHDS đạt 1,7 điểm/ 3 điểm, xếp loại trung bình khá.
Từ tổng kết đo lường 7 chỉ tiêu về “Môi trường” XHDS Đài Loan, có thể rút ra được kết luận sau đây:
- Môi trường kinh tế trong XHDS ở Đài Loan là rất tốt
- Môi trường về mối quan hệ giữa doanh nghiệp (thị trường) với các tổchức XHDS Đài Loan là bình thường, trung bình.
- Còn các môi trường về chính trị, tự do, các quyền lợi cơ bản, văn hóa xã hội, pháp lý, và mối quan hệ giữa nhà nước và XHDS xếp loại khá.
3. “Giá trị” 2,3 điểm. Trong “Giá trị” XHDS Đài Loan, nhóm những người đánh giá đo đạc XHDS thông qua 7 tiêu chí sau đây:
Một là: thực hành dân chủ, đạt 2,5 điểm/3 xếp loại khá tốt.
Hai là: tính minh bạch, đạt 1,3 điểm/3, xếp loại trung bình yếu.
Ba là: tính khoan dung: đạt 3 điểm/ 3 xếp loại tốt.
Bốn là: tính phi bạo lực, đạt 3 điểm/ 3 xếp loại tốt.
Năm là: bình đẳng giới, đạt 2 điểm/ 3, xếp loại trung bình khá.
Sáu là: vấn đề xóa đói giảm nghèo, đạt 2 điểm/ 3, xếp loại trung bình khá.
Bảy là: môi trường bền vững, đạt 2 điểm/ 3, xếp loại trung bình khá.
Qua đo lường 7 chỉ tiêu trong tiêu chí “Giá trị” của XHDS Đài Loan do nhóm nghiên cứu đã khảo sát, có thể rút ra những kết luận như sau:
- Tính khoan dung, tính phi bạo lực, xếp loại tốt.
- Tính minh bạch trong XHDS Đài Loan xếp loại trung bình yếu.
- Vấn đề thực hành dân chủ, bình đẳng giới, vấn đề xóa đói giảm nghèo, môi trường bền vững trong xã hội Đài Loan xếp loại khá.
4. “Tác động” 2,0 điểm. Nhóm khảo sát đã đo đạc, nghiên cứu và đã đưa ra điểm số của 5 chỉ tiêu sau đây:
Một là: vai trò của XHDS đã tác động đến các chính sách công cộng, đạt 2 điểm/ 3, xếp loại khá.
Hai là: vai trò của XHDS trong duy trì trách nhiệm giải trình của chính phủ, đạt 1,3 điểm/ 3, xếp loại trung bình yếu.
Ba là: Vai trò của XHDS trong việc đáp ứng các mối quan tâm của xã hội, đạt 2,5 điểm/ 3, xếp loại khá.
Bốn là: Vai trò của XHDS trong việc tăng cường quyền lực cho công dân, đạt 2,3 điểm/ 3, xếp loại khá.
Năm là: Vai trò của XHDS trong việc đáp ứng những nhu cầu của xã hội, đạt 2 điểm/ 3, xếp loại khá.
Từ những điểm số qua những khảo sát của nhóm nghiên cứu, có thể rút ra những kết luận như sau:
- Vai trò của XHDS đã có tác động tốt đến việc đáp ứng các mối quan tâm của xã hội.
- Vai trò của XHDS đã có tác động tương đối tốt đến việc tăng cường quyền lực cho dân chúng, đến các chính sách công cộng và đến việc đáp ứng những nhu cầu của xã hội.
- Tuy vậy, vai trò của XHDS vẫn còn tác động chưa thật tốt trong việc duy trì trách nhiệm giải trình của chính phủ [22].
Tóm lại, qua việc khảo sát, đánh giá, đo lường 4 tiêu chí về XHDS Đài Loan, có thể nhận biết được trình độ phát triển của XHDS Đài Loan cho đến năm 2006. Qua đó có thể rút ra được kết luận vai trò của XHDS Đài Loan trong việc phát triển đất nước Đài Loan hiện nay. Nó đang phát triển tốt lên, hội nhập dần với trình độ thế giới.
3. So sánh với châu Âu, Việt Nam và gợi mở cho Việt Nam
Trong nhiều thế kỷ qua, nhiều ngành khoa học như lịch sử, triết học, chính trị, văn hóa, … ở Châu Âu đã có nhiều phân tích, bàn luận về khái niệm, các chiều cạnh, sự phát triển, vận động của XHDS. Những triết gia từ thời cổ đại như Aristote đến những nhà khoa học của những thế kỷ XVI đến XIX ở châu Âu như T.Hobbes, J.Locke, E.Kant, F.Hegel, Motesquieu, Voltaire, K.Marx, cho đến ngày nay nhiều nhà nghiên cứu ở châu Âu đều coi khái niệm XHDS như một ý tưởng, có từ lâu đời, đặc biệt nổi lên từ thời Khai sáng ở Scotland kéo dài tới cuộc cách mạng ở Đông Âu vào cuối thập niên 1990. Theo quan điểm, cách tiếp cận từ các ngành khoa học khác nhau, theo các nghĩa hẹp rộng khác nhau, ở các trình độ phát triển khác nhau … XHDS được xem xét, đánh giá khác nhau từ khái niệm, các chiều cạnh, chỉ số đánh giá, đến các hoạt động, tổ chức, sự phát triển, … Rõ ràng, XHDS được biết đến, được nghiên cứu, đánh giá và hoạt động bắt đầu từ châu Âu. Còn các xã hội phương Đông, trong đó có Đài Loan, Việt Nam, biết đến XHDS chậm hơn châu Âu có lẽ từ đầu thế kỷ XX. Những cơ sở lý thuyết, các thể chế, hoạt động của XHDS, các nước phương Đông đã học tập các kinh nghiệm của Châu Âu giống như lý thuyết khuyếch tán từ trung tâm ra ngoại vi.
Dù là châu Âu hay châu Á thì định nghĩa, khái niệm về XHDS cũng rất thống nhất khi cho rằng: “XHDS là một khoảng không gian xã hội nằm giữa cá nhân, các nhóm huyết thống trực tiếp (gia đình) và Nhà nước” (Croisant, 2000, Jaryne, 1991; Thiery, 2002, White, 1994…). XHDS hàm ý là “không gian tương tác xã hội, phi kinh tế và phi nhà nước” (Adhier et all, 2001; Kalder, 2003) “nhằm thể hiện các giá trị và các lợi ích của họ” (Lenzen, 2002): “XHDS là diễn đàn nằm giữa gia đình, nhà nước và thị trường nơi con người bắt tay nhau thúc đẩy quyền lợi chung” (Tổ chức CIVICUS, 2005) và “XHDS là lĩnh vực của các thiết chế, tổ chức, nhóm, cá nhân nằm trong khoảng không gian giữa gia đình, nhà nước, thị trường, trong đó mọi người liên kết tự nguyện để thúc đẩy các lợi ích chung…..Các chỉ báo, chiều cạnh của XHDS bao gồm “mô hình XHDS hình thoi”: cấu trúc, môi trường, giá trị và tác động” (Anheier H.K, 2004).
Như thế là, XHDS có mục tiêu “dù là châu Âu hay Đài Loan, Việt Nam” nhằm hướng tới xây dựng một “xã hội tốt đẹp” (good society); với phương tiện để đạt được mục đích là “đời sống hiệp hội” (Associational life), và là khung khổ chung để mọi người cùng tham gia thống nhất về mục đích và phương tiện, đó là “khu vực công cộng” (Public area) (Carniege, U.K, 2007).
- Do ra đời sớm hơn, nên XHDS ở châu Âu được nghiên cứu rất bài bản, đã đưa ra các lý thuyết rõ ràng cụ thể. Các tổ chức, thể chế hóa các XHDS rất chặt chẽ. Còn ở Đài Loan, do ra đời sau, nên các tổ chức XHDS chậm được thể chế hóa, phải dò dẫm từng bước đi. Nếu ở châu Âu, tự do hóa, dân chủ hóa đã phát triển mạnh mẽ từ phong trào Khai sáng từ thế kỉ 18, và dẫn dắt phong trào XHDS phát triển mạnh mẽ đến ngày nay. Thì ở Đài Loan, do chế độ độc tài – toàn trị của nhà nước đảng trị Quốc dân Đảng đã áp đặt lệnh giới nghiêm, cho nên đã kìm hãm sự ra đời và phát triển của XHDS (từ năm 1947-1987). Sau khi bãi bỏ lệnh giới nghiêm (1987) XHDS Đài Loan mới dần từng bước trưởng thành và phát triển. Trải qua các thời kỳ từ tự do hóa đến dân chủ hóa, đa đảng, tự do bầu cử, các tổ chức XHDS Đài Loan đã dần dần trưởng thành. Từ sự trợ giúp của các XHDS quốc tế, đến sự hoạt động độc lập, riêng rẽ của các tổ chức XHDS Đài Loan, nó dần dần được tổ chức hóa, thể chế hóa, liên kết rộng rãi theo chiều ngang. Cho đến nay, các tổ chức XHDS Đài Loan đã phát triển mạnh mẽ, xếp vào loại tốt ở châu Á. Nhận xét này, được rút ra từ đánh giá, khảo sát của liên minh thế giới về sự tham gia của XHDS (Civicus) năm 2006. Các chỉ số đánh giá hoạt động của các tổ chức XHDS Đài Loan bao gồm 4 chiều cạnh là: cấu trúc, môi trường, giá trị và tác động. Điểm số đạt được của 4 chiều cạnh trong “mô hình XHDS hình thoi” của Đài Loan đã minh chứng cho sự phát triển không ngừng của XHDS Đài Loan.
Bảng 4: So sánh các chỉ số đánh giá XHDS tại một số nước và vùng lãnh thổ của Châu Âu và Châu Á (2006)
Đơn vị: điểm/3điểm
Quốc gia, vùng lãnh thổ
|
Cấu trúc
|
Môi trường
|
Giá trị
|
Tác động
|
A. Châu Âu
|
|
|
|
|
1. CHLB Đức
|
1,6
|
2,3
|
2,2
|
2,5
|
2. CH Ireland
|
1,8
|
2,4
|
2,1
|
2,1
|
3. Ba Lan
|
1,2
|
1,7
|
2,1
|
1,8
|
4. Bulgary
|
1,1
|
2,2
|
2,2
|
2,2
|
5. Rumania
|
1,4
|
2,2
|
2,2
|
2,2
|
B. Châu Á
|
|
|
|
|
6. Đài Loan
|
1,5
|
2,2
|
2,3
|
2,0
|
7. Việt Nam
|
1,6
|
1,4
|
1,7
|
1,2
|
Nguồn: 1, Civicus World Assembly, Country reports, 2006.
2, Vũ Duy Phúc (Chủ biên), “Xã hội dân sự một số vấn đề chọn lọc”, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2008.
3, Lâm Đức Sương (Lin De Chang), “Nghiên cứu chỉ tiêu XHDS Đài Loan, kiêm bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban thanh niên quốc gia, Học viện tham gia công ích của Thanh niên (National Youth Commission, Youth Public Participation Academy), Đài Bắc (Taibei), 2007.
Nhìn vào bảng so sánh XHDS ở các nước châu Âu với Đài Loan và Việt Nam, chúng tôi có mấy nhận xét như sau:
- XHDS ở các nước phát triển trong châu Âu (EU 15) như CHLB Đức, CH Ireland, 4 chiều cạnh trong XHDS đều xếp vào loại Khá trở lên.
Trường hợp CHLB Đức, “cấu trúc” của XHDS đạt 1,6 điểm, xếp loại trung bình khá. Mặc dù các thể chế, tổ chức, mạng lưới, các cá nhân, thành tố và nguồn lực trong XHDS Đức đã hình thành, phát triển từ lâu đời nhưng không đồng đều giữa vùng miền (Tây - Đông Đức), giữa độ tuổi (già – trẻ), giữa trình độ học vấn (cao – thấp), giữa các nhóm tổ chức xã hội (tôn giáo, từ thiện, công đoàn, phụ nữ, nghề nghiệp, …) nên điểm số về “cấu trúc” XHDS Đức chỉ đạt ở mức trung bình khá.
Tương tự như vậy, trường hợp Cộng hòa Ireland “cấu trúc” XHDS đạt cao hơn Đức được 1,8 điểm
Còn ba tiêu chí, chiều cạnh khác trong XHDS ở CHLB Đức và Cộng hòa Ireland đều đạt ở mức khá, tốt. “Môi trường” XHDS bao gồm các môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa và phát lý ở Đức và Ireland đều đạt điểm khá tốt, lần lượt là: 2,3 và 2,4. Điều đó khẳng định XHDS ở Đức và Ireland có những đóng góp rất tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và pháp lý ở hai nước.
“Các giá trị XHDS ở Đức và Ireland bao gồm 7 điểm: dân chủ, sự minh bạch của các tổ chức XHDS, tính khoan dung, phi bạo lực, bình đẳng giới, xóa nghèo, phát triển môi trường bền vững đều đạt điểm số khá tốt, lần lượt là: 2,2 và 2,1. Điều này đã khẳng định rằng XHDS ở Đức và Ireland đã rất tích cực và linh động, đã đóng góp đáng kể vào việc nâng cao các giá trị dân chủ, đạo đức, nhân bản vì con người của xã hội châu Âu.
- Các yếu tố “tác động” gây ảnh hưởng đến chính phủ, chính sách, đến xã hội, đến sự phát triển đất nước của XHDS ở Đức và Ireland là rất đáng ghi nhận. Với điểm số Đức đạt 2,5 và Ireland đạt 2,1 (xếp loại Khá, tốt) đã chứng tỏ XHDS ở hai nước này đã có ảnh hưởng lớn đối với các chính sách công cộng của nhà nước. Nó có tác động lớn đến trách nhiệm phải giải trình của khu vực nhà nước và khu vực thị trường đối với xã hội. Những hoạt động tích cực của XHDS đã đáp ứng những mối quan tâm trong xã hội, tăng cường quyền lực của công dân, giải quyết tốt những nhu cầu của người dân, của xã hội.
- Ở một trình độ phát triển vừa phải, chưa bằng nhóm các nước phát triển (EU 15) là các nước chuyển đổi Đông Âu như Ba Lan, Bungary, Romani. Các chỉ số từ “cấu trúc”, “môi trường”, “giá trị”, “tác động” đều đạt mức điểm trung bình thấp, trung bình khá, khá. Điều đó muốn nói lên rằng, trên con đường chuyển đổi “từ chính trị, xã hội, kinh tế, luật pháp, …” các nước Đông Âu phải tiến hành dần dần các cải cách. Và XHDS ở các nước chuyển đổi cũng phải tuần tự phát triển từ thấp đến cao. Muốn hội nhập sâu với thế giới, nhất thiết phải phát triển đồng bộ cả ba trụ cột: Nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và XHDS. Tự do hóa, dân chủ hóa, phát triển XHDS là phương tiện để trợ giúp đất nước phát triển.
- Tuy ra đời sau (từ sau năm 1987) nhưng các tổ chức XHDS ở Đài Loan đã có sự phát triển “thần kì” chỉ gần 30 năm xây dựng và phát triển nhưng XHDS Đài Loan, thông qua điểm số trong “mô hình XHDS hình thoi” (cấu trúc, môi trường, giá trị, tác động) của Đài Loan đã đạt đến trình độ đứng hàng đầu các nước châu Á, xếp loại gần ngang bằng với các nước phát triển ở châu Âu (EU 15). So sánh điểm số trong “mô hình XHDS hình thoi” của Đài Loan với Đức và Ireland, chúng ta có thể thấy rằng XHDS Đài Loan có “cấu trúc” tương đối tốt. Người dân tham gia các tổ chức XHDS tương đối rộng khắp từ các hiệp hội người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội, tổ chức từ thiện nhân đạo, các tổ chức tôn giáo, bảo vệ người yếu thế trong xã hội, các quỹ, tổ chức công đoàn, nông dân, giáo viên, học sinh, phụ nữ, người già, … và các hoạt động có tổ chức được thể chế hóa, có sự liên kết với các tổ chức trong nước, nước ngoài chặt chẽ. Mặt khác các tổ chức XHDS Đài Loan được hoạt động trong “môi trường tốt” từ môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp lý, tự do và quyền lợi cơ bản, … đặc biệt mối quan hệ giữa XHDS với nhà nước với đã được cải thiện và phát triển đáng kể. Và mối quan hệ giữa XHDS với các doanh nghiệp thị trường cũng đã bắt đầu được cải thiện dựa trên sự tôn trọng luật pháp các nước và XHDS Đài Loan trải qua những năm tháng phát triển thăng trầm từ sự khống chế độc tài của nhà nước Quốc dân đảng (1947 – 1948) đến giai đoạn “độc tài mềm” (1987 -1997) và đã tiến đến giai đoạn phát huy sự độc lập, tự chủ, từ tự do hóa, đến dân chủ hóa, đa đảng, bầu cử tự do và pháp quyền như ngày nay. Đó là do XHDS do Đài Loan đã phát huy mạnh mẽ những “giá trị” trong thực hành dân chủ, minh bạch hóa, phát huy tính khoan dung, phi bạo lực, thực hiện tốt những mục tiêu bình đẳng giới, xóa đói nghèo, thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường bền vững. Và kết quả là những hoạt động của XHDS đã có “tác động” tích cực đến các quyết sách của chính phủ. Như chính phủ phải thực hiện trách nhiệm giải trình, xây dựng những chính sách công cộng đúng đắn, tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của người dân, đã đáp ứng được những mối quan tâm và những đòi hỏi, nhu cầu của xã hội. Đó là những kinh nghiệm tốt của Đài Loan, mà Việt Nam có thể học hỏi được.
Nhìn vào điểm số trong “mô hình XHDS hình thoi” của Việt Nam chúng ta thấy rằng 3 tiêu chí về “cấu trúc” đạt 1,6 điểm, “giá trị” đạt 1,7 điểm, “môi trường” đạt 1,4 điểm – như vậy đạt mức từ trung bình trở lên. Riêng tiêu chí “tác động” đạt 1,2 điểm, còn ở mức trung bình thấp, phải cố gắng hơn Việt Nam là quốc gia phải chịu nhiều khó khăn, gian khổ do 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ để lại. Trong suốt quá trình xây dựng đất nước, cùng luôn gặp những thách thức từ bên ngoài (chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới phía Bắc, bị xâm phạm chủ quyền ở Biển Đông hiện nay.) Tuy vậy, nhân dân Việt Nam quyết tâm khắc phục khó khăn, chung tay xây dựng đất nước. Từ 1986, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới đất nước với mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành đất nước: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” Trong 3 trụ cột phát triển, Việt Nam đã và đang xây dựng “nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”. Quốc hội hàng năm đã thông qua hàng trăm bộ luật mới. Việt Nam cũng đang xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” . Vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện tốt các chính sách phát triển an sinh xã hội, đảm bảo công bằng cho mọi người dân. Trong lĩnh vực xã hội dân sự, Việt Nam đã sớm ý thức được việc xây dựng và thực hiện nó. Ngay từ năm 1946, trong bản Hiến Pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Việt Nam đã khẳng định XHDS là một lực, xây dựng tốt mặt trận toàn dân. Năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về việc thành lập Hội. Nhưng vì đất nước bị chiến tranh tàn phá, nên việc lập Hội còn chưa được thực hiện hoàn thiện. Nhưng năm 1998, chính phủ Việt Nam đã ký Nghị định “dân chủ cơ sở” tạo nền tảng pháp lý để thực hiện những hoạt động của các tổ chức XHDS. Năm 2013, bản Hiến Pháp sửa đổi của nước CHXHCN Việt Nam đã nói về việc thành lập Hội. Đến nay, Quốc hội Việt Nam sửa đổi để thông qua “Luật về Hội”. Rõ ràng, các tổ chức XHDS Việt Nam đã và đang hoạt động mạnh mẽ, trên nền tảng của Luật pháp Việt Nam nhằm đảm bảo phát huy tích cực của toàn dân, thực hiện tốt chủ chương: “dân biết, dân bàn, dân làm , dân kiểm tra”. Người dân được đề cao, với chủ trương: “dân vi bản” (dân là gốc), “chở thuyền là dân, lật thuyền là dân”. Hiện nay, ở Việt Nam đa có sự bùng nổ các tổ chức xã hội thuộc tất cả các loại, gồm các loại hình như sau: 1) Các tổ chức chính trị xã hội. 2) Các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. 3) Các Hội nghề nghiệp và Hiệp hội ngành nghề. 4) Các tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập. 5) Các Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện. 6) Các cở sở bảo trợ xã hội. 7) Các tổ chức cộng đồng, các tổ chức phi lợi nhuận. 8) Các tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tuy chưa có con số thống kê chính xác, nhưng ước tính theo Bộ Nội Vụ Việt Nam, hiện nay có khoảng 500 hội cấp Trung ương; 4000 Hội cấp Tỉnh và 10 000 Hội cấp Huyện, Xã; 1800 tổ chức phi chính phủ gồm các tổ chức khoa học ngoài công lập, bảo vệ môi trường, y tế, giáo dục. 150 Hiệp hội ngành nghề, khoảng vài trăm quỹ và trên 900 tổ chức phi chính phủ quốc tế đang hoạt động ở Việt Nam. Ba thành phố lớn của Việt Nam là Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, lần lượt có hơn 500 hội, gần 600 hội và 445 hội (theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn 23/7/2015). Ngoài ra, theo một đánh giá quốc tế, Việt Nam có không dưới 14000 CBO, những tổ chức chưa có hành lang pháp lý đặc thù của mình, đang hoạt động (Theo Carl Thayer, 2009). Tầm hoạt động và lĩnh vực hoạt động cũng đa dạng và kỹ năng hoạt động ngày càng thuần thục và được nâng cao. Thời gian cuối các tổ chức xã hội có sự tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động tư vấn, phản biện, giám sát chính sách [23].
Qua nghiên cứu mô hình XHDS Đài Loan, chúng tôi cho rằng có nhiều kinh nghiệm hay có thể gợi mở cho Việt Nam. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu sắc hiện nay, những giá trị nhân loại cần được tiếp thu. Đó cũng chính là cách tiếp cận khoa học, mang tính thời đại.
Tuy hai bên Việt Nam và Đài Loan có sự khác biệt về đặc điểm chế độ nhưng hai bên có thể học hỏi lẫn nhau nhằm mục tiêu chung là xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Việt Nam có thể học hỏi ở Đài Loan tinh thần quyết liệt trong các phong trào xã hội đấu tranh chống cái bảo thủ, lạc hậu, có tác hại xấu đến xã hội. Đó là các phong trào bảo vệ người tiêu dùng (Đài Loan đã đi trước Việt Nam 30 năm). Đây là phong trào xã họi mà hiện nay Việt Nam đang tiến hành rầm rộ, mạnh mẽ. Việt Nam cũng có thể học tập ở Đài Loan phong trào bảo vệ môi trường. Cách mà Đài Loan đã đấu tranh với các tập đoàn kinh tế, với các nhóm tài phiệt đã xây dựng và vận hành những nhà máy gây ô nhiễm, phá hoại môi trường như Tập đoàn Fomusa đã làm. Việt Nam cũng học tập được ở Đài Loan về phương thức tổ chức thể chế hóa các tổ chức xã hội, các phong trào xã hội. Gắn liền với việc phát triển theo bề rộng các tổ chức xã hội là việc tập trung phát triển theo bề sâu các tổ chức xã hội, phong trào xã hội. Đặc biệt đề cao tinh thần pháp quyền. Gắn việc xây dựng tổ chức xã hội với việc đảm bảo cơ sở pháp lý cho tổ chức, phong trào. Điều này sẽ tránh được những hoạt động tự do, vô kỷ luật của phong trào xã hội. Việt Nam cũng có thể học hỏi ở Đài Loan cách tổ chức, liên kết các hoạt động XHDS theo chiều ngang, với các tổ chức XHDS quốc tế, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu sắc, tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân loại.
Chú thích
[1] Đinh Công Tuấn, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh Châu Âu”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2010, trang 11.
[2] Hồ Sỹ Quý “Độc tài, “hóa rồng” và dân chủ ở Đài Loan”, Báo điện tử Văn hóa Nghệ An, ngày 23/9/2015.
[3] Thông tấn xã Việt Nam “Bí quyết thành công của 4 nước công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore”, Tài liệu tham khảo, tháng 7/1987, trang 12.
[4] Thông tấn xã Việt Nam “Bí quyết thành công của 4 nước công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore”, trang 15.
[5] Thông tấn xã Việt Nam “Bí quyết thành công của 4 nước công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore”, trang 16,17.
[6] Thông tấn xã Việt Nam “Bí quyết thành công của 4 nước công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore”, trang 18.
[7] Thông tấn xã Việt Nam “Bí quyết thành công của 4 nước công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Singapore”, trang 18 – 21.
[8] Ban Quan hệ Quốc tế, Phòng công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI) “Hồ sơ thị trường Đài Loan”.
[9] [10] [11] Đài Loan http://vi.wikimedia.org/wiki/Dai.Loan
[12] Vũ Duy Phú (chủ biên) “Xã hội dân sự một số vấn đề chọn lọc”, Nhà xuất bản Trí thức, Hà Nội, năm 2008, trang 9.
[13] Đinh Công Tuấn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh Châu Âu”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 2010, trang 23.
[14] Lâm Đức Xương (Lin de Chang), “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 17.
[15] Lâm Đức Xương (Lin de Chang) “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 18.
[16] Lâm Đức Xương, “Xã hội dân sự, và sự phát triển tiếp theo của chính trị dân chủ: Nghiên cứu sách lược phát triển tổ chức phi chính phủ ở Đài Loan” trang 7-8 (tiếng Trung Quốc).
[17] Lâm Đức Xương (Lin de Chang) “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 21-23.
[18] Lâm Đức Xương (Lin de Chang) “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 27-28.
[19] Lâm Đức Xương (Lin de Chang) “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 27-28.
[20] Hsin – Huang Michael Hsiao “Các phong trào xã hội nổi lên và gia tăng đòi hỏi xã hội dân sự ở Đài Loan (Emerging Social Movement” ASIAN SURVEY, The Australian Journal of Chines Affairs, No. 24, July 1990, trang 163 – 175.
[21] Hsin – Huang Michael Hsiao “Các phong trào xã hội nổi lên và gia tăng đòi hỏi xã hội dân sự ở Đài Loan (Emerging Social Movement” ASIAN SURVEY, The Australian Journal of Chines Affairs, No. 24, July 1990, trang 177 – 179.
[22] Lâm Đức Xương (Lin de Chang) “Nghiên cứu chỉ tiêu xã hội dân sự Đài Loan, kiện bàn về sự tham gia công cộng của thanh niên”, Ủy ban trợ giúp Thanh niên, Viện Hành chính Đài Loan, Đài Loan năm 2007 (Tiếng Trung Quốc), trang 30-59.
[23] Phạm Bích San, “Tổ chức xã hội dân sự và sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Hội thảo quốc tế “The role of Social Organizations in a modern market economy”, thành phố Hồ Chí Minh, 28/10/2015, trang 179.