8. Nguyên Mông.
A.Thiết Mộc Chân thống nhất Mông Cổ:
8. Nguyên Mông.
A.Thiết Mộc Chân thống nhất Mông Cổ:
Thời nước Liêu cai trị phía bắc Trung Quốc, các bộ lạc thảo nguyên Mông Cổ đều nằm dưới quyền thống trị. Sau khi Kim diệt Liêu, thừa lúc đại quân Kim xua xuống phương nam xâm lăng nhà Tống, không rảnh kiểm soát phương bắc; Hợp Bất Lặc Hãn thiết lập quốc gia Mông Cổ sơ kỳ, tức nước Mông Ngột; sau đó không ngừng cướp phá vùng biên giới nước Kim. Hiệp Bất Lặc mất, Yêm Ba Hài nối tiếp làm Đại Hãn mới. Yêm Ba Hài bị một bộ lạc của Mông Cổ là Tháp Tháp Nhi mưu bán cho triều đình Kim, khiến bị giết bằng cách đóng đinh vào ngựa gỗ; sự kiện này là một nguyên nhân khiến Mông Cổ trả thù Kim sau này. Vào đầu thế kỷ 13, sau khi vua Kim Chương Tông mất, Kim Hoàng Nhan Vĩnh Tế kế vị, tình hình chính trị bắt đầu suy vi; Thiết Mộc Chân, Thủ lãnh bộ lạc Khất Nhan Mông Cổ tiến hành chinh phạt thống nhất thảo nguyên Mông Cổ. Khởi đầu được các Thủ Lãnh như Trát Mộc Nhi viện trợ Thiết Mộc Chân đánh bại bộ lạc Miệt Nhi Khất, chiếm đoạt được đông đảo bộ chúng, lực lượng trở nên mạnh, được tôn lên làm Khả Hãn. Tuy nhiên sau đó, Trát Mộc Hợp, người từng chi viện cho Thiết Mộc Chân cảm thấy địa vị của y bị uy hiếp, bèn liên kết với bộ lạc Xích Ô, mang quân tấn công Thiết Mộc Chân. Đối phó với thế lực hùng mạnh của Trát Mộc Hợp, Thiết Mộc Chân chia 3 vạn quân dưới quyền thành 13 cánh chống lại; khởi đầu không địch nỗi đối phương Thiết Mộc Chân bèn cho tạm rút về hẻm núi Triết Liệt Niết để giữ hiểm và bảo toàn lực lượng, sử gọi là “Thập tam dực chi chiến”. Trát Mộc Hợp tuy chiến thắng, nhưng bạo ngược với các bộ tộc dưới quyền; riêng Thiết Mộc Chân tìm cách lung lạc nên các bộ lạc lục tục đến theo, nhờ đó lực lượng phe Thiết Mộc Chân lớn mạnh. Vào năm Tống Khánh Nguyên thứ 2 [1196] bộ tộc Tháp Tháp Nhi từng theo Kim nay trở lại làm phản, vua Kim, Hoàn Nhan Vĩnh Tế, phái Thừa tướng mang quân chinh thảo; Thiết Mộc Chân lấy danh nghĩa phục thù cho Thủ Lãnh Yêm Ba Hài, giúp Kim đánh gục Tháp Tháp Nhi; triều đình Kim phong Thiết Mộc Chân chức Thống lãnh, giúp y có thể lấy danh nghĩa triều Kim hiệu triệu dân Mông Cổ. Năm Tống Gia Thái thứ nhất [1201] tại vùng bình nguyên sông Thiếp Ni [Nội Mông] Thiết Mộc Chân đánh bại liên minh 11 bộ tộc do Trát Mộc Hợp đứng đầu, sử gọi là “Thiếp Ni Hà chi chiến”. Cuối cùng vào mùa xuân năm 1206 thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, các quí tộc họp tại sông Ngạc Nộn (1) suy tôn Thiết Mộc Chân danh hiệu Thành Cát Tư Hãn, lập nước Mông Cổ.
…………………………
(*): Xin đọc VHNA từ số 343, ra ngày 25.6.2017
B.Đánh nước Kim và mở mang lãnh thổ.
Triều Kim vốn có mối thù xưa với Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn muốn đánh Kim báo thù, nhưng phía tây nam có nước Tây Hạ cùng Kim liên minh; bởi vậy muốn chặt bớt cánh tay của Kim bèn mang quân tấn công Tây Hạ 3 lần [1205, 1207, 1209-1210]; do vua Kim nhu nhược không dám can thiệp, buộc Tây Hạ phải xưng thần với Mông Cổ. Năm 1210, Thành Cát Tư Hãn tuyệt giao với Kim, năm sau phát động chiến tranh Mông Kim, đại phá 40 vạn quân Kim tại Giả Hồ Lãnh [huyện Vạn Toàn, tỉnh Hà Bắc]. Năm 1214 quân Mông Cổ bao vây Trung Đô [Bắc Kinh] kinh đô nước Kim; vua Kim Tuyên Tông bị ép phải xưng là bề tôi, sau khi Mông Cổ rút quân bèn dời đô xuống Khai Phong [Hà Nam]. Vào ngày 31/5/2115, quân Mông Cổ chiếm Trung Đô, cùng bắt được danh tướng Gia Luật Sở Tài; chiến thắng này giúp Mông Cổ rất lớn trong việc củng cố miền Hoa Bắc.
Năm 1217 Thành Cát Tư Hãn mang quân chinh phạt vùng Tây Á, giao cho Mộc Hoa Lê ở lại tiếp tục mở mang bờ cõi. Mộc Hoa Lê ngoài việc đánh Kim, khiến lãnh thổ nước này co rụt lại trong vùng Hà Nam và Quan Trung [Thiểm Tây]; năm 1231 lại xâm lăng Cao Ly, nên quân dân Cao Ly phải rút xuống vùng đảo Giang Hoa.
Lúc triều đình Kim dời đô xuống Khai Phong, sắp sửa diệt vong, thì tại vùng Tây Vức nước Hoa Thứ Tử Mô quật khởi, Đại thần nước này trước sau hai lần giết thương nhân và làm nhục Sứ giả Mông Cổ; khiến Thành Cát Tư Hãn quyết định tây chinh . Khởi đầu năm 1218, tướng Mông Cổ Triết Biệt đánh chiếm vùng đất Tháp Lý Mật của Tây Liêu; giết Khuất Xuất Luật tự xưng là vua Liêu.Tháng 6 năm sau [1219] Thành Cát Tư Hãn đích thân đốc suất 10 vạn quân đánh nước Hoa Thứ Tử Mô; quân nước này chống cự không nỗi, sợ hãi rút lui, quân Mông tiếp tục chém giết, chiếm lãnh 40 thành trì, vào năm 1221 diệt nước này. Thành Cát Tư Hãn mệnh Tốc Bất Đài và Triết Biệt tiếp tục truy kích Ma Ha Mạt, vua nước này; cuối cùng Ma Ha Mạt chết tại Lý Hải [Caspian Sea]. Vào năm 1222 Tốc Bất Đài và Triết Biệt vượt qua phía bắc cao nguyên Y Lang, sau khi tiêu diệt 3 nước tại Cao Gia Sách bèn băng qua Thái Hoà Lãnh đến Khâm Sát [phía nam Nga]; thời gian này đánh chiếm một số quốc gia. Thành Cát Tư Hãn mở mang cương vực, phân phong cho các con: người con đầu là Truật Xích, con thứ 2 Sát Hợp Thai, con thứ 3 Oa Hoạt Thai, con thứ 4 Đà Lôi. Năm 1227 bị bệnh chết, do người con út là Đà Lôi tạm coi nước.
C.Mông Cổ mấy lần thay đổi lãnh tụ.
Đà Lôi làm Giám quốc được 2 năm, đến năm 1229 tổ chức đại hội Khố Lý Nhĩ Thai (2); Oa Khoát Thai, người con thứ 3 của Thành Cát Tư Hãn, được suy cử làm Mông Cổ Đại Hãn, sau được tôn xưng là Nguyên Thái Tông.Năm 1231Oa Khoát Thai suất quân đánh Kim; sai em là Đà Lôi từ Hán Trung [Hồ Bắc], mượn đường Nam Tống theo dòng Hán Thuỷ đánh vào Khai Phong; năm sau tại núi Tam Phong [Hà Nam] Đà Lôi đánh tan đại quân Kim. Năm 1234 liên quân Mông và Tống đánh Thái Châu [Hà Nam], vua Kim Ai Tông tự sát, nước Kim mất. Nam Tống tuy thu phục được đất Hà Nam, nhưng vùng Hoa Bắc đều bị Mông Cổ chiếm.
Về mặt trận phía tây, Oa Khoát Thai mệnh Bạt Đô, con trưởng của Truật Xích, chỉ huy; sử gọi là “Bạt Đô tây chinh”. Từ năm 1236 đến năm 1242 chiếm vùng thảo nguyên Khâm Sát [phía nam Nga], và các nước Đông Âu như Hung Gia Lợi, Ba Lan, Bảo Gia Lợi, v.v.
Tháng 11 năm 1241 Oa Khoát Thai mất, Hoàng hậu tạm giám quốc; cho đến tháng 3 năm 1236, đại hội Khố Lý Nhĩ Thai cử người con là Quí Do lên ngôi Đại Hãn. Năm 1247, các bộ lạc Thổ Phồn [Tây Tạng] qui phụ Mông Cổ. Tháng 8 năm 1248 Đại Hãn Quí Do mất, Hoàng hậu giám quốc và lập người cháu Thất Liệt Môn lên ngôi. Nhưng trong cuộc đại hội Khố Lý Nhĩ vào tháng 7 năm 1251, do Bạt Đô và Ngột Lương Hợp Thai chi trì con Đà Lôi là Mông Kha; khiến dòng Oa Khoát Thai mất địa vị, Mông Kha kế thừa Đại Hãn.
Sau khi Mông Kha lên ngôi, thi hành trung ương tập quyền; giao cho các Vương thuộc dòng Đà Lôi chịu trách nhiệm tại các đất Hán, Trung Á và Y Lê. Thuộc dòng này em Mông Kha là Hốt Tất Liệt được giao phụ trách vùng đất Hán; Hốt Tất Liệt bèn dùng một số người Hán làm tay chân, củng cố miền Hoa Bắc; lại sai Ngột Lương Hợp Thai đánh vòng phía nam diệt nước Đại Lý [Vân Nam], xâm lăng Việt Nam rồi rút, sau đó mở rộng phòng tuyến nhắm đánh phía sau lưng Nam Tống. Năm 1258 chính quyền Cao Ly sụp đổ, Cao Ly trở thành phiên thuộc của Mông Cổ. Cùng năm Đại Hãn Mông Kha chia quân thành 3 lộ xâm lăng Nam Tống. Mông Kha đích thân suất quân đánh Hợp Châu [Trùng Khánh, Tứ Xuyên ]; Hốt Tất Liệt đánh Ngạc Châu [Vũ Xương, Hồ Bắc], Ngột Lương Hợp Thai từ Vân Nam tiến đánh quân Tống tại Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây], rồi hướng đến phía nam Kinh Hồ [Hồ Nam], quân tiên phong chiếm Đàm Châu [Trường Sa, Hồ Nam]; 3 đạo quân dự định hợp lại, rồi xuôi theo dòng sông Dương Tử vây đánh kinh đô Lâm An [ Hàng Châu, Chiết Giang]. Năm sau [1259] Đại Hãn Mông Kha tử trận tại thành Điếu Ngư, Hợp Châu; Hốt Tất Liệt bèn đình việc nam chinh, trở về phương bắc đoạt ngôi.
Về cánh quân phía tây, Đại Hãn Mông Kha sai em là Húc Liệt Ngột làm cuộc chinh phạt Tây Á lần thứ 3. Đoàn viễn chinh xuất phát năm 1256, noi theo phía tây, đến năm 1260 chiếm lĩnh các quốc gia phía đông Địa Trung Hải thuộc Syria hiện nay, như Đại Mã Sĩ Cách [Damascus], Ha Lắc Pha [Halab]. Sau khi được tin Đại Hãn Mông Kha mất, Húc Liệt Ngột bèn mang đại quân trở về tranh ngôi, chấm dứt việc tây chinh.
D.Thành lập triều Nguyên, thống nhất Trung Quốc.
Sau khi Đại Hãn Mông Kha mất, Hốt Tất Liệt tại chiến trường lập tức cùng Nam Tống hoà đàm, quay trở về Hoa Bắc cùng với người em thứ 7, Ha Lý Bất Kha, tranh đoạt chức Đại Hãn. Tháng 5/1260 tại Khai Bình [huyện Luân, Nội Mông Cổ], Hốt Tât Liệt được các tông vương cùng Đại thần ủng lập, bèn tự xưng là Hoàng đế Mông Cổ, niên hiệu Trung Thống. Chẳng bao lâu Ha Lý Bất Kha tại thủ đô Mông Cổ, Cáp Lập Hoà Lâm [tỉnh Tiền Hàng Ái, Mông Cổ] mở đại hội, cũng được suy cử làm Đại Hãn. Cuộc chiến tranh dành quyền xãy ra, cuối cùng vào ngày 21/8/1254 Ha Lý Bất Kha bại trận đầu hàng, Hốt Tất Liệt ỗn định địa vị.
Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Hốt Tất Liệt theo phép tắc cai trị truyền thống Trung Quốc: xưng là Nguyên Thế Tổ, niên hiệu Trung Thống, dùng Bắc Kinh làm kinh đô; năm 1260 lập Trung thư tỉnh, năm 1263 đặt Khu mật viện, năm 1268 lập Ngự sử đài. Trong cuộc chiến tranh dành ngôi tuy đạt được chức Đại Hãn nhưng 3 Hãn quốc không phục tùng mệnh lệnh; cuối cùng Hải Đô thuộc dòng Đại Hãn Oa Khoát Thai khởi binh tranh đoạt địa vị, khiến vùng phía bắc sa mạc biến động bất an, sử gọi là “Hải Đô chi loạn”.
Năm 1268 Nguyên Thế Tổ phát động cuộc chiến tranh tiêu diệt Nam Tống; trước hết sai Lưu Chỉnh, A Truật mang quân đánh Tương Dương [Hồ Bắc], sử gọi là “Tương Phan chi chiến”. Năm 1274 quân Nguyên đánh chiếm thành Tương Dương, tướng Tống Lữ Văn Hoán đầu hàng; sau đó Trung khu thừa tướng Sử Thiên Trạch, cùng Khu mật viện sứ Bá Nhan xua quân theo sông Hán Thuỷ, rồi xuôi dòng Dương Tử, nhắm mục tiêu Kiện Khang [Nam Kinh] tiến tới. Năm 1275 hàng tướng Lữ Văn Hoán mang quân Nguyên thuỷ lục đánh bại thuỷ quân của Giả Tự Đạo tại Vu Hồ [An Huy]. Năm sau quân Nguyên đánh chiếm kinh đô Nam Tống tại Lâm An [Hàng Châu, Chiết Giang], Tạ Thái hậu và vua Tống Cung đế đầu hàng Nguyên. Tuy nhiên bọn Thừa tướng Lục Tú Phu ủng lập Tống Đoan Tông mới 7 tuổi lên ngôi tại Phúc Châu [Phúc Kiến]; các Đại thần Văn Thiên Tường, Trương Thế Kiệt, Trần Nghi Trung tiếp tục chống Nguyên tại Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông. Quân Nguyên tiếp tục đánh chiếm các đất tại Hoa Nam, năm 1278 triều đình Nam Tống rút lui đến Nhai Sơn, Quảng Đông. Tháng 3 năm sau, Trương Hoằng Phạm làm cuộc hải chiến tại Nhai Sơn, tiêu diệt hải quân Nam Tống, Lục Tú Phu cõng Hoàng đế 8 tuổi nhảy xuống biển tự tử, nhà Nam Tống diệt vong.
E.Viễn chinh hải ngoại.
Sau khi diệt nhà Nam Tống, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt phát động cuộc xâm lăng các nước lân bang Nhật Bản, Chiêm Thành, An Nam, Miến Điện, Trảo Oa. Năm Chí Nguyên thứ 11[1274] đánh Nhật Bản, gặp gió bão lớn, thất bại trở về. Vào năm Chí Nguyên thứ 18 [1281] chia quân làm hai đạo tiến công Nhật Bản. Một đạo quân do Toa Đô đốc suất quân Mông Cổ, Hán, Cao Ly từ phía đông Cao Ly vượt qua eo biển Đối Mã; một đạo dưới quyền Phạm Văn Hổ mang quân Tống mới qui phụ, từ Khánh Nguyên [Ninh Ba, Chiết Giang] vượt biển theo phía bắc tiến lên. Quân Nguyên gặp gió bão tại đảo Ưng, Nhật Bản; nhiều chiến thuyền bị huỷ, lại bị quân Nhật đánh, toàn quân cơ hồ bị tiêu diệt.
Năm Chí Nguyên thứ 19 [1282] sai Toa Đô từ Quảng Đông vượt biển đánh Chiêm Thành, liên tục đánh mấy năm nhưng cũng không bình định được. Từ năm Chí Nguyên thứ 21 [1284] đến năm 22 [1285] Trấn nam vương Thoát Hoan [con Hốt Tất Liệt] mang quân đánh An Nam; mệnh Toa Đô từ Chiêm Thành mang quân trợ chiến, nam bắc giáp công. Vương An Nam rút quân ra khỏi đô thành [Hà Nội], quân chủ lực lui vào rừng rậm tránh những trận quyết chiến của kỵ binh địch; chờ quân Nguyên mệt mõi thì xông ra đánh phá. Vào tháng 5 , quân Thoát Hoan nhân mưa nắng liên miên, ôn dịch phát tác nên phải rút, trên đường về bị đánh chặn nhiều chỗ; riêng đạo quân Toa Đô bị tiêu diệt, Toa Đô tử trận. Năm Chí Nguyên thứ 20 [1283] đến 22 [1285], quân Nguyên hai lần từ Vân Nam đánh Miến Điện; năm Chí Nguyên thứ 24 [1287] tiến tới Bồ Cam [Pagan], bắt Miến Điện hàng năm triều cống, rồi trở về. Cùng năm Trấn nam vương Thoát Hoan sang xâm lăng An Nam một lần nữa, đoàn thuyền chở lương do Trương Văn Hổ chỉ huy bị đánh chìm, lúc rút quân về lại bị tiêu diệt tại sông Bạch Đằng. Tháng 12 năm thứ 29 [1292] bọn Sử Bật mang quân từ châu Tuyền [Phúc Kiến] vượt biển đánh Trảo Oa [Java]; vua Trảo Oa hàng và xin quân Nguyên giúp đánh nước Cát Lang (3); sau khi đánh được Cát Lang, quân Trảo Oa bèn đánh lại quân Nguyên, khiến Nguyên kiệt sức phải rút lui.
G.Các triều đại kế tiếp.
Năm 1294 Nguyên Thế Tổ mất, Thái tử Chân Kim chết yểu, nên đại hội Khố Lý Nhĩ Thai cử người cháu là Thiết Mục Nhĩ lên làm vua, tức Nguyên Thành Tông. Vua Thành Tông duy trì chính sách của vua Thế Tổ; dùng cháu là Hải Sơn trấn thủ kinh đô cũ Hoà Lâm [tỉnh Tiền Hàng Ái, Mông Cổ] để bình định loạn Hải Đô tại vùng tây bắc; lại đình chỉ việc chinh phạt Nhật Bản, An Nam. Trong nước ra sức chỉnh đốn việc chính trị, giảm tô thuế cho dân Giang Nam. Tuy nhiên do ban thưởng quá độ, thu nhập không đủ để chi cấp, nên kho tàng quốc gia bị thiếu hụt. Năm 1307 vua Thành Tông mất, Thái tử Đức Thọ chết yểu, Hoàng hậu cho An Tây vương Ha Nan Đáp làm Giám quốc và có ý đưa lên làm vua. Em của Hải Sơn cùng Hữu Thừa tướng làm cuộc chính biến tại Đại Đô [Bắc Kinh], rồi Hải Sơn từ Hoà Lâm xuống Đại Đô lên ngôi vua, tức Nguyên Vũ Tông.
Vua Vũ Tông đặt kho Thường bình để ỗn định giá cả, lại cho lưu hành tiền giấy; nhưng không cứu vãn được nền kinh tế xuống dốc, tiền phá giá. Vào cuối đời đam mê tửu sắc, mất vào năm 1331. Người em yêu lúc sinh thời Vũ Tông từng hứa cho nối ngôi là Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt lên ngôi vua, tức Nguyên Nhân Tông.
Vua Nhân Tông thay đổi nền kinh tế kiệt quệ và chính trị hỗn loạn thời Vũ Tông, bằng biện pháp chế tài tham nhủng, tăng cường trung ương tập quyền. Năm 1312, dùng Vương Ước làm Đại học sĩ tập hiền, chấp nhận kiến nghị “Hưng khoa cử” của Ước, ban lệnh khôi phục chế độ khoa cử. Nhắm ngăn con Vũ Tông mưu dành ngôi, bèn đày người con trưởng Chu Vương Hoà Thế Lai trấn thủ Vân Nam, đám cựu thần của Vũ Tông tức giận làm cuộc phản biến ủng lập Hoà Thế Lai, cuối cùng việc thất bại phải chạy lên sa mạc phía bắc. Năm 1320 vua Nhân Tông mất, Thái tử Thạc Đức Bát Thứ lên ngôi tức Nguyên Anh Tông.
Vua Anh Tông tiếp tục chính sách dùng Nho học trị nước của Nhân Tông và chủ trương trung ương tập quyền; loại trừ thế lực của quyền thần Thiết Mộc Điệt Nhi. Năm 1323, nhân Anh Tông đi nghĩ hè tại Thượng Đô [Khai Bình, Nội Mông], bị con nuôi của Điệt Nhi là Thiết Thất giết tại Nam Pha, cách Thượng Đô 15 km về phía nam; sử gọi là “Nam Pha chi biến”. Con trưởng của Tấn vương Cam Ma Thứ mang binh giết phản thần, rồi lên làm vua tức Thái Định Đế.
Vua Thái Định trị vì đến tháng 7/1328 thì mất tại Thượng Đô; trong triều xãy ra mấy cuộc sách lập các vua Thiên Thuận, Minh Tông; cuối cùng đến năm 1329, Hoài vương Đồ Thiếp Mục Nhĩ đầu độc vua Minh Tông lên ngôi vua, tức Nguyên Văn Tông.
Vua Văn Tông đề cao văn trị, cho biên soạn Kinh Thế Đại Điển là bộ điển chương lớn đời Nguyên. Năm 1333, Nguyên Văn Tông mất, nhắm gột bỏ tiếng xấu giết vua Minh Tông trước kia, bèn lập Ý Lân Chất Ban con thứ của Minh Tông lên làm vua, tức Nguyên Ninh Tông. Ninh Tông lên ngôi được 2 tháng thì mất, bèn lập con trưởng của Minh Tông là Thoả Hoàn Thiếp Mục Nhĩ lên làm vua, tức Nguyên Huệ Tông.
H.Thời Huệ Tông mất nước.
Vua Huệ Tông lúc mới lên ngôi bị phái bảo thủ do Bá Nhan cầm đầu khống chế, bắt cấm chỉ người Hán tham chính và bỏ khoa cử; gây xung đột giữa hai bên. Năm 1340, vua được cháu Bá Nhan là Thoát Thoát giúp đỡ, cuối cùng phế truất Bá Nhan. Thoát Thoát làm Thừa tướng, giúp thực hiện một số cải cách như ban hành qui pháp, mở lại thi cử như cũ. Năm 1343, vua Huệ Tông hạ lệnh biên soạn 3 bộ sử: Liêu sử, Kim Sử, Tống Sử. Tuy nhiên Huệ Tông lười việc chính trị, trong nước xãy ra nhiều thiên tai, nên loạn lạc xãy ra.
Từ năm 1340 đến 1350 thiên tai trầm trọng, hạn hán, ôn dịch, lụt lội thường xãy ra; nghiêm trọng nhất là lưu vực sông Hoàng Hà. Ngoài ra triều đình tăng thu thuế má sưu dịch, dân chúng càng khổ sở, khiến Bạch Liên Giáo hoạt động, trở thành thế lực kháng Nguyên. Năm 1338, bọn Bành Hoà thượng lãnh đạo Bạch Liên Giáo khởi nghĩa tại Viên Châu [Nghi Xuân, Giang Tây] thất bại, Bành Hoà thượng bèn chạy sang Hoài Tây. Năm 1350 triều đình xuống lệnh đổi tiền, khiến vật giá gia tăng, lòng người ly tán. Năm sau [1351], vua Huệ Tông ra lệnh sửa trị sông Hoàng Hà, đưa về dòng cũ; sử dụng 15 vạn dân phu, 2 vạn binh lính; quan lại thừa dịp hạch sách khiến lòng người bất mãn. Lãnh đạo Bạch Liên Giáo như Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông định vào tháng 5 khởi sự; nhưng tin tức tiết lậu nên Hàn Sơn Đồng bị bắt giết. Lưu Phúc Thông bèn đem Hàn Lâm Nhi con của Hàn Sơn Đồng vượt trùng vây, rồi tự xưng Hàn Sơn Đồng là hậu duệ đời thứ 8 của Tống Huy Tông, dựng cờ “Phục Tống”, đeo khăn màu hồng tức “Hồng Cân”. Sau đó Quách Tử Hưng khởi nghĩa tại An Huy, chiếm lãnh Từ Châu, tức Hồng Cân hệ phía đông. Tây hệ Hồng Cân có bọn Từ Thọ Huy khởi nghĩa tại Hồ Bắc. Thế lực của Hồng Cân toả ra khắp miền bắc, miền nam sông Dương Tử, Hồ Bắc, Hồ Nam, Tứ xuyên; báo hiệu ngày diệt vong của nhà Nguyên.
Triều đình nhà Nguyên mang quân trấn áp Hồng Cân khắp nơi, Thừa tướng Thoát Thoát đích thân đến Từ Châu đàn áp, nhưng cũng không hiệu quả. Lực lượng Từ Thọ Huy sau đó chia làm hai; phe Trần Hữu Lượng tại Lưỡng Hồ [Hồ Nam, Hồ Bắc]; Minh Ngọc Trân tại Tứ Xuyên. Tại Lưỡng Hoài có Chu Nguyên Chương bộ hạ của Quách Tử Hưng; sau khi Hưng mất vào năm sau [1356] chiếm được Nam Kinh, dùng làm căn cứ địa khuyếch trương thế lực. Năm 1363 giao chiến với Trần Hữu Lượng tại vùng Lưỡng Hồ, cuối cùng thu được thắng lợi. Năm 1365 tấn công lực lượng Trương Sĩ Thành tại vùng duyên hải Giang Tô; năm 1367 bình định xong, lại mang quân xuống đánh Phương Quốc Trân tại Chiết Giang. Lúc này Chu Nguyên Chương hoàn toàn thống nhất Giang Nam, bèn ra lệnh bắc phạt; mệnh Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân chinh phạt Sơn Đông và Hà Nam, cùng phong toả Chung Quan [ranh giới Hà Nam, Thiểm Tây] để ngăn quân Nguyên từ Quan Trung tăng viện cho Trung Nguyên. Tháng 8/1368 quân Minh công hãm Đại Đô [Bắc Kinh], vua Huệ Tông chạy lên phương bắc; sử sách ghi năm này là năm kết thúc của triều Nguyên. Tuy nhiên tàn dư của nhà Nguyên còn chiếm cứ vùng Thượng Đô [Khai Bình, Nội Mông Cổ] và Vân Nam; mãi cho đến năm 1402 mới hoàn toàn diệt vong.
Chú thích:
1.sông Ngạc Nộn: nay gọi là Onon River, tại lãnh thổ Nga, giáp nước Mông Cổ.
2.Khố Lý Nhĩ Thai: đại hội nghị của Mông Cổ, Đột Quyết bầu cử Khả Hãn, Trưởng quan.
3.Cát Lang: tên nước xưa, nay thuộc Keridi, Java.
2208
2337
22256
218755
121356
114511882