1. Khái niệm
1.1. Văn hoá
Thuật ngữ văn hoá (Culture) là con người đặt ra sau này, khi ngôn ngữ đã phát triển tới một mức nào đó. Ví dụ ở Việt Nam và Nhật Bản từ văn hoá đều được lấy từ tiếng Hán và từ culture lại càng mới hơn.
1. Khái niệm
1.1. Văn hoá
Thuật ngữ văn hoá (Culture) là con người đặt ra sau này, khi ngôn ngữ đã phát triển tới một mức nào đó. Ví dụ ở Việt Nam và Nhật Bản từ văn hoá đều được lấy từ tiếng Hán và từ culture lại càng mới hơn.
Cho đến nay, đã có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá (định nghĩa theo triết học, định nghĩa theo dân tộc học, nhân học, tâm lý học và xã hội học…), điều đó có nghĩa rằng, xuất phát từ những thực tiễn khác nhau, tuỳ mục đích sử dụng khác nhau mà người ta đưa ra hoặc lựa chọn một định nghĩa nào đó để tiện cho diễn giải và thao tác.
Ở đây, chúng ta đang bàn về mối quan hệ giữa văn hoá và môi trường nên tôi lựa chọn một khái niệm văn hoá theo quan điểm của nhân học.
Khái niệm văn hoá của Tylor trong cuốn Văn hoá nguyên thuỷ tuy ra đời cách đây đã lâu (1871), nhưng nó là một khái niệm mang tính kinh điển và vẫn hữu dụng trong nghiên cứu nhân học văn hoá nói chung và nhân học môi trường nói riêng: "Một toàn thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng lực khác nhau và những tập quán khác nhau mà con người hoạch đắc với tư cách là thành viên của xã hội"; hay như định nghĩa của Malinowski cũng vậy: “Văn hóa bao gồm các quá trình kế thừa về kỹ thuật, tư tưởng, tập quán và giá trị".
Như thế, tri thức và tư tưởng là những thành tố quan trọng bậc nhất của văn hoá. Các hành vi hay các khuôn mẫu ứng xử của con người - ở một phương diện nào đó - là bị chi phối (hệ quả) của tri thức/tư tưởng và là sự biểu thị (representation) những tri thức/tư tưởng đó. Nhờ đó, văn hoá đóng vai trò như là cách thức để người ta có thể giao tiếp với nhau và với thế giới xung quanh. Thế mà, tri thức/tư tưởng của con người ở mỗi một xã hội, mỗi một thời kỳ là không giống nhau, thậm chí có lúc có nơi bị coi là đối lập nhau (ví dụ: hệ tư tưởng vô thần và hệ tư tưởng hữu thần). Do đó, văn hoá tuỳ theo mỗi xã hội, tuỳ theo từng thời đại được biểu thị theo những cách rất khác nhau.
Xin lấy một ví dụ: ở các xã hội nguyên thuỷ (bán khai), khi hạn hán người ta dùng những biện pháp ma thuật để cầu mưa (ví dụ trò pháo đất của Việt Nam) thì các hành vi ma thuật ấy là biểu thị văn hoá, bởi nó được kết tinh và là hệ quả trực tiếp của thế giới quan “vạn vật hữu linh” (animism); đến thời trung cổ, khi thế giới quan tôn giáo chiếm vị thế chủ đạo (độc thần luận - monotheism) thì người ta lại cầu mưa bằng những nghi lễ tôn giáo; còn trong xã hội công nghiệp hiện đại thì sao? với thế giới quan khoa học, với hệ thống tư tưởng thực nghiệm con người sử dụng khoa học - công nghệ để tác động vào giới tự nhiên, như bắn tên lửa gây mưa cho những vùng hạn hán… Có thể lấy nhiều ví dụ khác nữa như việc chữa bệnh…
Văn hoá, bên cạnh thành tố tư tưởng, còn bao gồm hàng loạt những hệ thống hành vi, ứng xử của con người đối với nhau và đối với tự nhiên (cách thức sản xuất, tôn giáo, phong tục tập quán, nghệ thuật…). Những hệ thống ứng xử này là những tín hiệu mang tính biểu trưng. Tuy nhiên, không phải ở đâu, lúc nào các hình thái biểu trưng này cũng giống nhau mà tuỳ theo hệ t tưởng về bản thể luận (ontology), vũ trụ luận (cosmology) của từng xã hội, từng thời kỳ mà cách thức biểu tượng hoá và ý nghĩa của các khuôn mẫu ứng xử ấy có sự khác nhau. Lấy ví dụ về phong tục tang lễ chẳng hạn: cùng là ứng xử với người thân trong gia đình đã chết thì người Ba Na ở Tây Nguyên có phong tục bỏ mả, còn người Việt thì lại có phong tục thờ cúng tổ tiên.
Mặt khác, các hình thái biểu tượng còn phụ thuộc vào môi trường sống của từng xã hội, từng thời kỳ (có thể là chất liệu, có thể là cách thức hành động mà con người cần phải làm để thích nghi với môi trường sống). Vì thế mới có các nền văn hoá khác nhau như nền văn hoá du mục, nền văn hoá lúa nước, nền văn hoá sa mạc và nền văn hoá băng đảo…
1.2. Môi trường
Đây cũng là một khái niệm trừu tượng mà con người (ở vào thời kỳ muộn, chứ không phải có ngay từ buổi bình minh của loài người) phải đưa vào trong ngôn ngữ của mình để tư duy và nhận thức. Một cách thông thường, môi trường (Umwelt - tiếng Đức) chỉ một thực tế khách quan tồn tại bên ngoài, bao quanh con người và nhờ vào đó mà con người tồn tại và phát triển được.
Về khái niệm môi trường, T.Ingold - một nhà nhân học hiện đại người Mỹ - đã lưu ý như sau: môi trường là một thuật ngữ mang tính tương đối, tương đối ở khía cạnh nó là môi trường của ai. Vì thế, môi trường của tôi chỉ có ý nghĩa khi có quan hệ với tôi, và trong ý nghĩa này môi trường chỉ tồn tại và trải qua sự phát triển của tôi và xung quanh tôi. Và điều quan trọng hơn để giải thích tại sao thuật ngữ môi trường cũng mang tính tương đối là do: Cũng hệt như khái niệm văn hoá, nó bị phụ thuộc bởi tư tưởng về thế giới quan (đóng vai trò chủ đạo trong cấu trúc của một nền văn hoá) của xã hội con người đang hiểu và định nghĩa về nó. Thật vậy, khái niệm môi trường có thể là một sự kiến tạo mang tính văn hoá về tự nhiên, nhưng cũng có thể lại là sự áp đặt một lớp ý nghĩa nào đó của người trong cuộc lên trên một thực thể khách quan độc lập nào đó. Chẳng hạn: chúng ta quá quen với quan niệm về môi trường của khoa học duy lý phương Tây, cho rằng tất cả những gì tồn tại khách quan xung quanh ta, tác động đến sự sống và phát triển của ta đều là những thành tố của môi trường. Môi trường đó được con người quan niệm như là khách thể, có thể cấu trúc hoá nó được và có thể tái tạo và kiến tạo được - đúng như cách làm của các nhà khoa học hoá học, sinh học hay vật lý học. Nhưng những con người ở những xã hội mà chúng ta thường gọi là dã man, bán khai hay nguyên thuỷ thì lại có những suy nghĩ khác về môi trường. Trong những xã hội như thế này, con người có một cách nhìn thế giới xung quanh họ hoàn toàn khác. Trường hợp những xã hội theo “vạn vật hữu linh” chẳng hạn, họ không hề quan niệm những gì xung quanh họ (cỏ cây, gỗ đá, ma quỷ, thần hay sấm chớp ma giông là khác với họ. Tất cả đều có linh hồn và giữa chúng với con người có thể diễn ra quá trình giao tiếp. Họ sẽ giải thích những nguyên nhân gây ra một hiện tượng không hay nào đó của môi trường (hạn hán chẳng hạn) theo cách của họ chứ không phải theo sự đo đạc về khí quyển như các nhà khoa học của xã hội hiện đại của chúng ta. Chẳng hạn họ sẽ gán vào hiện tượng này một lớp ý nghĩa như: Long vương bị say rượu, quên đi tưới nước cho nhân gian, hay như ở ta có chuyện “con cóc là cậu ông trời”... Vì thế, sẽ chẳng có gì là ngạc nhiên khi những ứng xử của con người ở xã hội này đối với thế giới xung quanh (mà ngày nay chúng ta gọi là những ứng xử với môi trường như săn thú, chặt cây, hay nhờ vả các ma, thần) như là họ ứng xử chính với những người đồng loại. Nói chung về nguyên tắc thì đây là những ứng xử “có đi có lại”. (Lấy ví dụ những lời cúng của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, hay những lời khấn hay nghi lễ khi họ giết súc vật, hay chặt cây rừng…).
Do quan niệm về môi trường khác nhau nh vậy, nhận thức, thái độ và hành vi của những con người ở các nền văn hoá khác nhau đối với môi trường cũng khác nhau. Ví dụ về việc săn tuần lộc của T. Ingold.
Khi đuổi theo tuần lộc, có một hiện tượng đáng chú ý: Khi một con biết được sự xuất hiện của bạn, nó làm động tác rất lạ là, thay vì chạy trốn nó đứng lại và quay đầu nhìn chăm chăm vào mặt bạn. Các nhà sinh học giải thích hiện tượng này như một sự thích nghi của tuần lộc trước những chú sói săn mồi. Khi con tuần lộc dừng lại, con sói đuổi theo nó cũng dừng lại theo, cả hai thở lấy hơi cho cuộc rượt đuổi quyết định cuối cùng. Và khi con tuần lộc chạy như bay, con sói cũng tăng tốc độ để chộp lấy con mồi. Do con tuần lộc là con vật chủ động phá thế bế tắc nên nó ngẩng cao đầu lên và thực tế một số con tuần lộc trưởng thành có thể chạy thoát những chú sói. Nhưng, mẹo giúp nó tránh được những con sói kể trên lại mang lại nhiều bất lợi khi chúng đối diện với người thợ săn được trang bị vũ khí, có thể bắn. Khi con vật quay đầu lại thì nó sẽ đem đến cho người thợ săn cơ hội tốt nhất để ngắm và bắn. Đối với con sói thì tuần lộc là loài dễ tìm vì chúng đi theo đàn nhưng lại khó có thể giết chúng một cách dễ dàng. Ngược lại, đối với con người thì tuần lộc là loại khó tìm nhng khi đã tìm thấy rồi thì các thợ săn không hề gặp khó khăn trong việc hạ gục chúng.
Thợ săn bản địa người Cree ở vùng đông bắc Canada lại có cách giải thích khác về nguyên nhân tại sao những chú tuần lộc lại dễ dàng bị giết chết như vậy. Họ cho rằng bản thân các con vật tự nộp mình cho các thợ săn một cách có chủ định và có thiện ý hay thậm chí là yêu thương đối với người thợ săn. Thân xác của con tuần lộc không bị mang đi mà nó được “nhận” (bởi người thợ săn). Và chính trong thời khắc của sự đối mặt- khi con vật dừng lại và nhìn vào mắt người thợ săn - thì sự hiến tặng này được diễn ra. Giống như nhiều cư dân săn bắn khác trên thế giới, người Cree vẽ ra một sự tương đồng giữa việc rượt đuổi các con thú với sự hấp dẫn của các cô gái trẻ, và so sánh sự giết chóc với quan hệ tình dục. Theo nghĩa này sự giết chóc hiện hữu không như là một sự kết thúc của cuộc sống mà giống như một hành động có vai trò quan trọng trong sự tái sinh cuộc sống.
2. Mối quan hệ giữa văn hoá và môi trường/sinh thái
2.1. Văn hoá được quy định bởi môi trường
Các hình thái văn hoá đầu tiên của loài người liên quan đến nhu cầu căn bản nhất của con người: đó là nhu cầu sinh tồn. Để sinh tồn họ phải ăn, ở và mặc. Đó cũng là những quan hệ đầu tiên của con người với môi trường. Những dấu ấn của mối quan hệ ấy trong buổi sơ khai của loài người vẫn còn được nhận thấy trong văn hoá ăn, ở và mặc của con người trong xã hội ngày nay: Nhà ở (nguyên liệu, kiểu dáng và kích thước) của người Eskimo chắc chắn khác với nhà ở của người Ai Cập hay người Việt Nam; Người Mông Cổ - với nền văn hoá du mục truyền thống - chắc chắn ăn thịt sẽ nhiều hơn người Việt Nam; hay tại sao c dân vùng sa mạc lại mặc màu trắng và trùm kín người như vậy… Tất cả những cái đó không thể có cách giải thích nào khác tốt hơn ngoài cách lý giải về sự tác động trực tiếp của môi trường tự nhiên ở từng nơi và con người phải thích nghi với những kiểu môi trường ấy để tồn tại và phát triển.
Ngay cả những hình thái văn hoá cao cấp như nghệ thuật chẳng hạn, ngay buổi bình minh của loài người, chúng ta đã nhận thấy những dấu ấn mà môi trường tự nhiên tác động lên những tác phẩm nghệ thuật âm nhạc (ví dụ những bài dân ca hay cách hát của người miền núi cao, hay miền đại dương như người Indonesia) hay tạo hình trong hang động (chắc chắn những hình vẽ trong hang động của các bộ tộc Á châu không thể có những chú tuần lộc như trong các hình vẽ của người Cree ở Canada được)...
Môi trường nào thì con người phải kiếm ăn theo cách tương ứng: Những cư dân tại các hòn đảo chắc chắn phải kiếm ăn bằng nghề săn bắt cá, cư dân trên các thảo nguyên phải biết chăn nuôi, du mục: những người sống bên những cánh rừng trên lục địa lại kiếm ăn bằng săn bắn, hái lượm… Quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất này dần dần tạo thành những phương thức sản xuất nhất định, đến lượt nó phương thức sản xuất lại quy định lối sống, tức là văn hoá của xã hội ấy. Có thể nói, hoạt động sản xuất của cải vật chất là hoạt đống sống căn bản nhất của con người và chính nó quyết định nhiều nhất đến sự hình thành và phát triển văn hoá của từng xã hội. Như thế, có thể nói, tuy gián tiếp nhng ở đây cũng không phải ai khác mà chính là môi trường đã quy định sự hình thành và phát triển của mỗi một nền văn hoá nói chung và một hình thái biểu tượng nào đó nói riêng. Có thể đưa ra đây một ví dụ như sau:
Ngôi nhà cộng đồng - một biểu thị văn hoá - trong quá trình được biểu tượng hoá có bị chi phối bởi môi trường kiếm sống? Câu trả lời là có, nhưng gián tiếp. Ngôi nhà cộng đồng của người Ê Đê ở Tây Nguyên là biểu trưng của cái gì? Ngày nay, người ta - bằng dân tộc học so sánh - đã chứng minh được rằng: Người Ê Đê có cội nguồn từ các bộ tộc miền Nam Đảo (giống người Nam Đảo từ trường ca Đam San, đến ngôn ngữ đặc trưng là những phụ âm tắc và đặc biệt là nghi lễ chặt cây để làm chiếc ghế dài trong nhà rông giống hệt như nghi lễ chặt cây của người Nam Đảo khi họ tiến hành lấy cây để đẽo chiếc thuyền độc mộc để mang theo thuyền lớn). Mà người Nam Đảo thì sinh sống chủ yếu bằng nghề đi biển và săn bắt hải sản. Vì thế, chắc ngôi nhà rông của người Ê Đê là ẩn dụ về chiếc thuyền biển - về mặt văn hoá chắc chắn nó gợi nhớ được cội nguồn của họ.
Môi trường không chỉ tác động đến cuộc sống vật chất của con người mà nó còn tác động đến tâm trí, tư tưởng và đời sống tinh thần của con người.
Thuyết hồn linh thực sự là “triết học chung và hệ thống về thế giới tự nhiên” của con người cổ xưa (Tylor), là phương thức tư duy đặc thù của con người nguyên thuỷ: Họ không đối lập con người với hồn hay với các sinh loài khác, thậm chí ngay cả những vật thể tự nhiên như hòn đá cũng được họ xem nh là chính họ, tức tất cả ở thế giới này đều tuân theo luật tham dự (Law of Participation), đều có thể giao tiếp với nhau. Chính điều đó khiến họ ứng xử với chúng nh chính với đồng loại. Các nhà nhân học chỉ ra đặc trng của phương thức tư duy và kiểu ứng xử này bằng các thuật ngữ liên nhân (Interperson) và tính liên chủ thể (Intersujectivity)
Hay như C. Levi Strauss khi phân tích về thuyết vật tổ (Totemism) đã khẳng định rằng: Thờ vật tổ như là một dạng thức phân loại trong đó vật thể tự nhiên được dùng để biểu thị các đơn vị xã hội [sđd].
2.2. Văn hoá lại tác động trở lại đến môi trường
Như vừa nói ở trên, môi trường tác động mạnh đến văn hoá (dù trực tiếp hay gián tiếp), đặc biệt nó góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển t tưởng và tâm trí của con người. Vậy, văn hoá có tác động trở lại đến môi trường không?
Trên thế giới này có rất nhiều nền văn hoá khác nhau, nhng cũng có thể phân loại chúng thành hai loại chính. Hai loại văn hoá này thể hiện hai loại tâm trí người, chúng phụ thuộc hay bị chi phối bởi quyền lực của hai loại tư tưởng hay hai phương pháp nhận thức sau:
Phương thức nhận thức 1: duy lý/nhân quả |
Phương thức nhận thức khác: trải nghiệm/tham dự |
- Gián cách |
- Tổngthể/không chia cách |
- Lập luận |
- Tính xúc cảm |
- Trừu tượng |
- Trực giác |
ở phương thức một, người ta thấy một sự định hướng mang tính chất nhân quả trong nhận thức thế giới. Loại này được biểu đạt hoàn hảo bởi các phạm trù, nguyên tắc và phương pháp luận của khoa học thực chứng và được biểu thị trong lập luận logic, lý trí. Loại này liên quan đến sự trung gian có khoảng cách và không có xúc cảm và nó là một sự khái quát về các sự kiện trong thế giới.
Ngược lại, sự tham gia biểu thị một phương cách hợp nhất và đan quyện của việc trải nghiệm thực tại. Sự thể hiện rõ nhất cái này là tôn giáo. Một định hớng mang tính tôn giáo về thế giới ngụ ý một cảm giác của sự quan hệ và nối kết với các sự vật hiện tượng. Khi con người gắn kết với người khác và môi trường xung quanh một cái gì đó gần gũi, mang tính chia sẻ sẽ diễn ra. Nói cách khác, việc một cá nhân trải nghiệm cái gì đó cũng đều là một phần của một tổng thể lớn hơn. Sự tham gia đó gợi lên cảm giác cộng đồng và đồng cảm với người khác và thế giới.
Hai loại văn hoá này dẫn tới những hành vi có những tác động đến môi trường rất khác nhau.
Loại thứ nhất luôn đối lập tự nhiên và xã hội, coi con người là trung tâm và động cơ hành vi của con người trong mối quan hệ với môi trường là khai thác, tận dụng triệt để vì lợi ích của mình. Nạn tàn phá rừng và săn bắn động vật hoang dã ở nhiều nơi trên thế giới là một minh chứng.
Loại thứ hai không đặt con người đối lập với thế giới, coi mọi vật ở thế giới này đều có tính người và tính xã hội. Nói như Ingold thì vũ trụ là một xã hội lớn, trong đó có tương tác giữa con người có cơ thể (như chúng ta) với con người không cơ thể. Tất cả đều có tính chủ thể. Nền văn hoá này không chỉ sản sinh ra những hành vi tôn trọng môi trường mà còn sản sinh ra những khối lượng kiến thức về môi trường rất đáng khâm phục.
Nhiều học giả đã khẳng định khả năng nhận biết đặc biệt về động thực vật, các hiện tượng gió, ánh sáng, màu sắc, nớc và không khí của thổ dân thuộc các bộ lạc cổ xa mà người hiện đại chúng ta khó có thể theo kịp. Ví dụ, người Hanunoo có thể phân biệt được 75 loài chim, 12 loài rắn, hơn 60 loài cá; hoặc hầu hết đàn ông Negrito có thể liệt kê một cách dễ dàng tên và mô tả ít nhất 450 loài cây, 75 loài chim, hầu hết các loại côn trùng… Levi-Strauss đã đánh giá năng lực này như sau:
"Sự tận dụng những sản vật tự nhiên có sẵn của người Hawaii bản địa hầu như đã hoàn thiện hơn rất nhiều so với thời đại thương mại hiện nay, thời đại chỉ biết khai thác không thương tiếc một vài thứ mang lại lợi nhuận và thường xuyên phá huỷ những gì còn lại".
3.Thay kết luận
Ở nước ta, đây là vấn đề không chỉ mang tính lý thuyết thuần tuý, mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nhận thức và tác động đến thực tiễn. Thực tiễn văn hóa - xã hội ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã cho thấy, nhiều chính sách xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc ít người đã không phát huy được tác dụng, sở dĩ nh vậy là những người đề ra chính sách đã không thực sự “hiểu” được con người, văn hóa, xã hội của đồng bào dân tộc, thậm chí lại lấy chính những tiêu chí về văn hóa - xã hội của người Việt để áp đặt vào cuộc sống của họ: Ví dụ, nhiều buôn làng ở Tây Nguyên được nhà nớc hỗ trợ để định c, trồng lúa nớc hai vụ, đào giếng nớc, xây nhà văn hóa, ở theo lối nhà của người Việt, thậm chí, có nơi đồng bào còn thờ cúng tổ tiên nh người Việt v.v... Rõ ràng là, nếu có những nghiên cứu dân tộc học, nhân học theo cách “thâm nhập” và “hiểu” đồng bào các dân tộc thì chúng ta sẽ biết rằng, nhiều tộc người không phải du canh, du cư (như chúng ta thường diễn đạt), mà là chuyển canh theo cách hiểu khoa học của từ này: Họ có ý thức về địa lý, sở hữu và thổ nhưỡng của những khu đất mà họ canh tác; họ hiểu rằng khi nào thì phải chuyển địa điểm canh tác, khi nào thì những địa điểm đã được khai thác lại có thể canh tác trở lại được.
Tương tự như vậy là những chính sách “Đa miền núi tiến kịp miền xuôi”, cái gọi là “đưa dân đồng bằng đi khai hoang làm kinh tế miền núi” để rồi dẫn đến nạn phá rừng…/.
Nguồn: viettems.com
2275
2359
21650
218149
121356
114511276