Bác Đào Thế Tuấn sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức nổi tiếng cả về trí tuệ và tinh thần yêu nước. Trong gia đình họ Đào, các chú, thím, cô, các em hầu hết tham gia cách mạng và có nhiều nhà trí thức suất sắc. Bạn bè, đồng chí của gia đình cũng là các nhà cách mạng và văn hoá nổi tiếng. Mẹ của Bác là cụ bà Trần Như Mân một nhà giáo và hoạt động xã hội. Cha là cụ Đào Duy Anh, nhà sử học, địa lý, nhà từ điển học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam được từ điển Larousse gọi là nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.
Ngày 4 tháng 7 năm 1931 Đào Thế Tuấn ra đời ở Huế. Nghe tin, cụ Phan Bội Châu là bạn của gia đình gửi thơ mừng:
“Hai mươi lăm triệu giống dòng ta,
Hôm trước nghe thêm một tiếng oa,
Mừng chị em mình vừa đáng mẹ,
Mong thằng bé nọ khéo in cha.
Gió đưa nam tới sen đầy hột,
Trời khiến thu về quế nở hoa.
Sinh tụ mười năm mong thế mãi,
Ây nhà là nước, nước là nhà.”
Bác lớn lên trong một môi trường học vấn lý tưởng. Trước hết là học từ sách vở. Tủ sách gia đình rất phong phú không những có sách nghiên cứu mà cả sách văn học bằng tiếng Việt và Pháp. Cụ Đào Duy Anh đã đi thăm các nhà thế gia ở miền Trung để mượn và sao chép nhiều tài liệu lịch sử quý giá mà ngay các thư viện cũng không có. Cụ mời một nhà nho giúp sao chép các sách mượn về và dạy cậu Tuấn học chữ Hán. Gia đình mở hiệu sách Vân Hoà (lớn nhất ở Huế khi đó) và sau đó xây dựng thành một thư viện lớn nên Cậu Tuấn từ nhỏ đã say mê đọc và học hỏi từ sách vở.
Một nguồn học vấn đến từ những người bạn đặc biệt của gia đình. Từ bé, Bác Tuấn đã thấy Cụ Đào Duy Anh nghiên cứu khoa học và mạn đàm chính sự với Cụ Phan Bội Châu, nghe ông Bùi Ái, kể chuyện phiêu lưu ở Nga, ở Pháp, được học vẽ từ Họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung, được đi theo nghe nhà địa lý tốt nghiệp ở Pháp Nguyễn Thiệu Lâu bàn về lịch sử và địa lý. Khi đi học phổ thông cậu học bằng tiếng Pháp, lên lớp 6 thì bắt đầu học thêm tiếng Anh và tiếng Latinh. Tiếng Việt mẹ dạy ở nhà. Cha cho học thêm chữ Hán. Vốn ngoại ngữ phong phú sau này được bổ xung thêm tiếng Nga, giúp Bác Đào Thế Tuấn mở rộng khả năng trao đổi và tiếp thu kiến thức nghiên cứu.
Cả Bố và mẹ đều là thầy dạy cho Bác Tuấn, dạy rất thiết thực. Cụ bà Trần Như Mân dòng dõi nhà quan nhưng lại truyền cho con tư tưởng tiến bộ và lòng yêu nghề canh nông. Bà đã dạy cho con kỹ thuật và nuôi tằm để vừa học vừa chơi. Sau này khi thấy Bác Tuấn theo học nông nghiệp bà rất mừng. Những câu chuyện mẹ kể về nổi khổ cực của nông dân và những chuyến đi cùng Bố, Mẹ về miền quê, định hình mối quan tâm đến nông thôn trong tâm hồn non trẻ của cậu bé Tuấn. Cha hướng dẫn cậu vào các hoạt động xã hội, từ năm 6 tuổi Đào Thế Tuấn đã gia nhập Hướng đạo sinh, rồi Thiếu sinh Lê Lai đi theo các huynh trưởng hướng đạo như các ông Hoàng Đạo Thuý, Tạ Quang Bửu..., nhờ đó dù nhỏ đã biết nấu ăn, may vá, làm công việc thủ công, hoạt động xã hội, làm từ thiện và hình thành lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước. Qua Bố và bạn bè của Bố, Bác Đào Thế Tuấn tiếp xúc với kiến thức chính trị sớm, đọc nhiều tài liệu Việt Minh, về chủ nghĩa Mác Lê Nin bằng tiếng Việt, tiếng Pháp trong tủ sách của cha và bắt đầu tham gia công tác từ bé.
Bác bước vào con đường cách mạng tự nhiên như con đường đến với học vấn. Cách mạng tháng 8 thành công, Bác tham gia đội liên lạc chuyển công văn, thư từ của Giải phóng quân. Rồi tham gia đội trinh sát điều tra tin tức của Pháp. Năm 15 tuổi là đội viên ít tuổi nhất trong đội tuyên truyền xung phong Trung Bộ. Chàng thanh niên tốt nghiệp trung học phải đi bộ từ Thanh Hoá vào Hà Tĩnh để xin học trường Huỳnh Thúc Kháng rồi quay ra Diễn Châu xin vào trường Nguyễn Xuân Ôn của ông Cao Xuân Huy. Khi vào học trường cấp 3 Nguyễn Thượng Hiền, Bác đã tham gia Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác và tháng 5 năm 1949 được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam rồi tham gia chi uỷ của chi bộ trường, phụ trách tuyên huấn, lúc đó vẫn là học sinh.
Tháng 5 năm 1950, Bác Đào Thế Tuấn gia nhập quân đội, công tác ở Bộ Tổng tham mưu, lúc đầu thuộc Cục Tình báo, sau chuyển về ban bí thư của phó Tổng Tham mưu trưởng, chiến đấu ở bộ phận tham mưu tiền phương các chiến dịch Trần Hưng Đạo ở Trung Du và Hoàng Hoa Thám ở Đông Bắc. Năm 1951, Bác Đào Thế Tuấn được cử đi học lớp trung - sơ cấp quân sự ở trường Lục quân Việt Nam. Năm 1952, được điều về Tổng cục Hậu cần tham gia chiến dịch Tây Bắc đánh Nghĩa Lộ và giải phóng Sơn La. Năm 1953, giữa lúc cuộc kháng chiến vào giai đoạn quyết liệt, con đường học vấn lại mở ra với Đào Thế Tuấn khi được nằm trong số 50 thanh niên cử đi Liên Xô học.
Rời tay súng, năng lực học tập và nghiên cứu của ông lập tức tỏa sáng khi gặp điều kiện học tập rất thuận lợi ở Liên Xô. Chỉ sau một tháng tập bập bõm tiếng Nga, 10 người được cử về học đại học nông nghiệp Tasken vừa học tiếng, vừa học ngay các môn tự nhiên theo chương trình năm thứ nhất và ngay học kỳ thứ hai đã vào học cùng với sinh viên Liên Xô ở khoa Nông học. Năm 1955, mới là sinh viên năm thứ ba, Bác bắt đầu tham gia công trình nghiên cứu đầu tiên về cây trồng ở Việt Nam dưới sự hướng dẫn của giáo sư Eryghin, nhà sinh lý học nổi tiếng Liên Xô. Với kết quả trình bày luận văn tốt nghiệp xuất sắc, chỉ trong vòng 5 năm, Đào Thế Tuấn hoàn thành chương trình kỹ sư nông học, cùng lúc trình bày thành công luận văn Tiến sỹ trước thời hạn 3 năm. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, quyển sách đầu tay của ông ra đời được Viện hàn lâm Nông nghiệp xuất bản bằng tiếng Nga. Ông là Tiến sỹ đầu tiên của Việt Nam do Liên Xô đào tạo năm 1958.
Cuối năm 1958, Ông về nước công tác ở Học viện Nông lâm (trường Đại học Nông nghiệp nhập với Viện Nghiên cứu nông nghiệp) dạy môn sinh lý thực vật sau đó trở thành trưởng Bộ môn Sinh lý Thực vật kiêm trưởng phòng Khoa học của Học viện. Năm 1963, Học viện nông lâm tách ra thành Viện Khoa học Nông nghiệp và trường Đại học Nông nghiệp, Tiến sỹ Đào Thế Tuấn làm trưởng ban Trồng trọt kiêm trưởng phòng Sinh lý cây trồng của Viện.
Học trong chiến tranh chống Pháp, nghiên cứu lại trong chiến tranh chống Mỹ. Năm 1964, Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam. Tiến sỹ cùng Viện KHNN sơ tán về nông thôn, cùng sống và nghiên cứu với nông dân trong các hợp tác xã. Năm 1972 sau khi tỉnh Quảng Trị được giải phóng, Ban Thống nhất trung ương yêu cầu Tiến sỹ nghiên cứu về nông nghiệp miền Nam. Năm 1975, Ông theo sát bước quân giải phóng đi Tây Nguyên, rồi xuống duyên hải miền Trung tiếp đó vào thành phố Hồ Chí Minh, miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long để chuẩn bị cho công tác nghiên cứu khoa học và phát triển nông nghiệp sau chiến tranh. Năm 1967, ông vào Nghệ An cùng đoàn cán bộ giúp tỉnh chỉ đạo sản xuất. Từ 1976, Tiến sỹ được cử làm phó viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp, năm 1978 Viện đổi tên là Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Ông tiếp tục tham gia vào nhiều chương trình đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ở các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước. Trong quá trình công tác giáo sư đã có nhiều dịp đi thăm và làm việc tại Liên Xô, Hungaria, Bungaria, Đức, Ấn Độ, Pháp, Philippin, Thái Lan, Indonexia, Bangladesh... Đây là những dịp tốt để ông học hỏi và trao đổi học thuật với các đồng nghiệp khoa học nước ngoài, trở thành nhà khoa học Việt Nam có uy tín quốc tế.
Năm 1977, Tiến sỹ được UBKHKTNN cử làm chủ nhiệm chương trình nghiên cứu sinh vật học và cách mạng Xanh và tập trung nghiên cứu cơ cấu cây trồng. Từ đầu năm 1980, giáo sư nghiên cứu hệ thống canh tác rồi hệ thống nông nghiệp và tham gia vào tổ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo. Từ năm 1983 Giáo sư Đào Thế Tuấn làm Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam kiêm trưởng Bộ môn Sinh thái Canh tác Nông nghiệp sau này là bộ môn Hệ thống Nông nghiệp. Dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng Đào Thế Tuấn, Viện đã từng bước hiện đại hoá, đổi mới thiết bị, phát triển mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao đáng kể trình độ nghiên cứu.
Tiến sỹ Đào Thế Tuấn được nhà nước phong học hàm giáo sư năm 1980 và năm 1985 được bầu làm thành viên nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên Xô, sau này là Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Liên Bang Nga. Từ năm 1990, Giáo sư đảm đương vai trò phó chủ nhiệm Chương trình nghiên cứu về Phát triển nông thôn KX-08. Từ 1995 đến 2003 sau khi nghỉ công tác điều hành ông tiếp tục làm trưởng bộ môn Hệ thống Nông nghiệp và đến năm 2004 sau khi nghỉ hưu, giao lại bộ môn cho con trai là Tiến sĩ Đào Thế Anh. Từ đó, trên cương vị Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Phát triển nông thôn Việt Nam Giáo sư Đào Thế Tuấn vẫn miệt mài làm việc, tự mình biên soạn và xuất bản bản tin nhỏ Phát triển Nông thôn, đóng góp không ngừng nghỉ cho sự nghiệp khoa học.
Dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Đào Thế Tuấn, nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được nghiên cứu để áp dụng từ thập kỷ 1950 đến 2000 như: các vấn đề ứng dụng nghiên cứu sinh lý để thâm canh cây trồng, lý luận và phương pháp nghiên cứu hệ thống canh tác, nghiên cứu hộ nông dân, các mô hình nghiên cứu phát triển nông thôn, nhiều giống lúa, ngô, đậu tương mới. sau đó là 7 cuốn sách kỹ thuật và giáo khoa ra đời về về phân bón, sinh lý cây trồng, cơ cấu cây trồng, hệ sinh thái nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân.
Ghi nhận công lao to lớn của ông trong sự nghiệp khoa học và những đóng góp thiết thực cho sản xuất nông nghiệp, giáo sư đã được Nhà nước và quốc tế trao tặng Huân chương Chiến thắng Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhất, Huân chương Lao động Hạng Hai, Huân chương Công trạng Nông nghiệp của Pháp, năm 2000 được trao danh hiệu Anh hùng Lao động Xã hội Chủ nghĩa, năm 2005 được Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn được thưởng các Huân chương Sĩ quan Công trạng Nông nghiệp, Sĩ quan Cành cọ Hàn lâm và Giải thưởng Rene Dumont. Nhưng đối với ông, vinh dự to lớn nhất là sự biết ơn của đông đảo nông dân Việt Nam, là tình cảm quí trọng của các lớp cán bộ, học sinh, đồng nghiệp.
Không còn nữa nhà trí thức tài hoa Đào Thế Tuấn; người yêu nước từ thủa ấu thơ, khi có giặc thì cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi hoà bình thì nghiên cứu hạt lúa, củ khoai; người lãnh đạo mà tài sản quí nhất trong nhà chỉ là sách vở. Nhưng còn mãi với chúng ta giọng nói miền Trung sang sảng của giáo sư khẳng khái tranh cãi học thuật; mãi còn đó nụ cười hóm hỉnh, dí dỏm của Giáo sư khi bàn bạc về lẽ đời; nhớ mãi dáng vẻ ngơ ngác, cặm cụi tìm tòi của con người mà trí tuệ và lòng bao dung vượt qua những trăn trở đời thường. Chỉ có tương lai mới cho chúng ta biết đã mất gì khi mất đi Đào Thế Tuấn và cũng chỉ có thời gian mới cho chúng ta biết mình được gì do ông để lại. Vĩnh biệt Giáo sư Đào Thế Tuấn - Con Người tuyệt đẹp của một Gia Đình tuyệt đẹp.
------------
* Viết theo tư liệu Hồi kí của giáo sư Đào Thế Tuấn.
Nguồn: Tia sáng