Cuộc sống quanh ta

Tái ngộ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam

BÀI NÀY ĐĂNG TRỀN TỜ NGUYỆT SAN THẾ GIỚI NGOẠI GIAO (LE MONDE DIPLOMATIQUE) THÁNG 6-2011. ĐÂY LÀ MỘT TỜ BÁO LỚN CỦA PHÁP, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ LÀ CÓ THÔNG TIN ĐẦY ĐỦ NHẤT, VỚI MỘT QUAN ĐIỂM TỰ DO, ÍT PHỤ THUỘC VÀO ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC ĐẢNG CẦM QUYỀN. TUY TRONG BÀI NÀY CÒN CÓ NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHƯA THẬT HOÀN TOÀN KHÁCH QUAN, NHƯNG CẦN THIẾT CHO CHÚNG TA THAM KHẢO ĐỂ BIẾT THÊM PHẢN ỨNG CỦA CHÍNH GIỚI NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ VIỆT NAM. CHÚNG TÔI XIN TRÍCH GIỚI THIỆU VỚI BẠN ĐỌC.

Bán đảo Cam Ranh, phía nam Việt Nam. Gió nổi lên từ biển Nam Trung Hoa, ở đây người ta gọi là “Biển Đông”. Nằm kẹp giữa dây kẽm gai, một con đường hẹp quanh co dẫn đến căn cứ hải không quân được quân đội Mỹ mở mang hồi chiến tranh Việt Nam. Những bót gác quân sự, thường là cũ kỹ, nằm dọc trên dải đất khô. Binh lính và hải quan rỗi rãi nhởn nhơ. Ở bến cảng quân sự, du khách không phải là người được chào đón, vả lại, họ đến đây để làm gì? Từ nhiều năm, vịnh Cam Ranh hoạt đồng cầm chừng.

Cái uể oải đó sắp chấm dứt: tháng 10-2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nơi này từ nay sẽ tiếp nhận tàu của toàn thế giới. Hoa Kỳ là một ứng viên. Từ năm 2003, hàng chục tàu chiến của Mỹ đã cập bến trên bờ biển của kẻ thù cũ. Không vũ khí không hành lý, các chàng trai của Chú Sam đã thực sự quay trở lại đất nước của Bác Hồ – với danh nghĩa là thượng khách. Cứ như những năm tháng chiến tranh, đã được năm vị kế tiếp nhau cầm đầu Nhà Trắng(1) tiến hành một cách ham hố, đã rời bỏ ký ức của người Việt. Hai mươi năm cuồng nộ và hãi hùng đó đã kết thúc tháng 4 – 1975 với việc chiếm lĩnh Sài Gòn hình như đã bị lãng quên, hơn thế nữa người khổng lồ bị làm nhục còn kịch liệt ngăn chặn sự giúp đỡ quốc tế đến với người tí hon đã đánh bại họ, và cuộc cấm vận thương mại được duy trì đến tận năm 1994.
Tàu Khu trục USS John S. McCain ghé cảng Đà Nẵng
Tháng 8-2010, cuộc đối thoại đầu tiên về quốc phòng Mỹ-Việt đã diễn ra ở Hà Nội. Trong tháng đó, ngoài khơi Đà Nẵng – chính xác là nơi những người lính Mỹ đầu tiên đã đổ bộ năm 1965 – các chỉ huy cao cấp Việt Nam dạo bước giữa biển trên chiếc USS George Washington, hình ảnh tiêu biểu của hạm đội VII và là một trong 11 chiếc tàu sân bay khổng lồ của Hải quân Hoa Kỳ, trong khi chiếc khu trục hạm USS John S. McCain thả neo trên bến cảng. Ở Hà Nội, tên của ông McCain, ứng cử viên Cộng hoà trong cuộc bầu cử năm 2008 đối diện với ông Barack Obama, không làm chói tai. Là phi công lái máy bay ném bom, như vậy là “tội phạm chiến tranh” theo lời nói trước kia của người Việt, ông đã bị giam năm năm rưỡi ở Việt Nam. Được thưởng huân chương vì những năm bị cầm tù, ông trở thành người hùng của một bộ phận dư luận Mỹ. Sự thừa nhận chính thức đó giúp cho ông bịt miệng những kẻ bảo thủ để giúp tổng thống William Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, tháng 7-1995. Không hiềm thù, người Việt ưu tiên giai đoạn đó. Và những bức ảnh chuyến thăm đầu tiên của ông Clinton vẫn luôn trang trí trên tường một chuỗi nhà ăn nhanh của thành phố Hồ Chí Minh… Và bây giờ là bà vợ của ông, ngoại trưởng Hillary Clinton lên tiếng ca ngợi con đường đã trải qua: “Chúng ta đã học cách nhìn nhau không phải như những kẻ thù cũ, mà như là những đối tác, những đồng sự và người bạn. Chính quyền Obama sẵn sàng đưa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lên một cấp độ cao hơn”(2).
Nhìn từ Hà Nội, sự nhích lại gần với Mỹ trước hết là tuân theo một lôgich kinh tế. Từ hiệp định song phương về thương mại có hiệu lực từ năm 2001, sự trao đổi tăng lên đều đặn. Đầu tiên là đạt 1 tỉ đôla năm 2000, đã lên đến 18,3 tỉ đô la năm 2010. Chủ tịch phòng thương mại Mỹ ở Việt Nam, bà Jocelyn Trân, ước tính con số 35 tỉ đôla từ nay đến năm 2020(3). Cán cân thương mại xuất siêu nhiều đối với Hà Nội, xuất khẩu sang Mỹ – chủ yếu là đồ dệt và giầy dép – đem lại 14,8 tỉ đôla năm 2010, hơn một phần năm thu nhập xuất khẩu.
Những quan hệ chặt chẽ với Washington cho phép hoà nhập vào hệ thống quốc tế. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Từ đó, con số 1.000 đôla GDP trên đầu người đã được vượt qua, tương ứng với sự xếp hạng của Ngân hàng thế giới vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình.
Đối lập với bước đầu phồn vinh đó, phải lật lại trang sử về 3 triệu người chết trong chiến tranh, đất đai bị tàn phá, các gia đình bị phá huỷ. Do đó, một công việc đáng suy nghĩ để viết lại ký ức được đặt ra. “Sau năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu hạ thấp sự đánh giá giai đoạn 1954-1975, trong quan hệ với Hoa Kỳ để đề cao giai đonạ 1941-1945, nhà sử học Wynn W. Gadkar-Wilcox trình bày như vậy. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ đã hợp tác với Việt Minh, và nhiều nhân viên của OSS [tieenf thân của CIA] đã có liên hệ với cá nhân Hồ Chí Minh. (…) Các nhà sử học cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu (…). Dựa trên sự tập hợp tư liệu của Robert Hopkins Miller và dưới nhan đề Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với Việt Nam, 1787-1941, Phạm Xanh đã nhấn mạnh mối quan tâm của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson [1801-1809] với thu hoạch lúa ở miền Nam Việt Nam, cùng với nhiều cuộc du khảo do Hoa Kỳ tiến hành ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX”(4).
Một nửa dân số dưới 26 tuổi. Chiến tranh có vẻ đã lùi xa, và Hoa Kỳ kích thích sự hâm mộ. Nhờ vào tờ giấy xanh cũng như vào “giấc mơ Hoa Kỳ”: có thể đạt đến phồn vinh nhờ quyết tâm trong công việc. Mười ba nghìn sinh viên đã theo học trường đại học bên kia Thái Bình Dương – một kỷlục của Đông Nam Á. [...]
“Vị thế mong manh như trứng để đầu đẳng”
Đối với Washington, việc thắt chặt quan hệ quân sự và hợp tác hạt nhân đều nhằm vào một mục tiêu: duy trì sự ưu việt của Mỹ ở Thái Bình Dương. Năm 2010, Mỹ đã bán 6 tỉ đôla vũ khí cho Đài Loan; tuyên bố nối lại liên hệ với lực lượng đặc biệt Indonesia (Kopassus), dù đã dính líu vào các vụ thảm sát ở Timor, Atjeh và Papoua; bảo vệ tự do đi lại trên Biển Đông, xuất phát từ “lợi ích quốc gia Hoa Kỳ”, như bà Clinton đã nói; tiến hành những hoạt động quân sự cùng với Hàn Quốc trên Hoàng Hải; và nhắc lại, khi xảy ra đụng độ tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc với Nhật Bản, rằng Nhật Bản sẽ được ủng hội nếu cần thiết, theo điều khoản của hiệp nghị phòng vệ tương hỗ. Phần lớn những biện pháp đó, nếu không phải là tất cả, đều nhằm trả lời cho sự tăng cường sức mạnh của Trung Quốc: sự phát triển của Trung Hoa mặc nhiên đưa Hoa Kỳ đi đến nâng cao giá trị chiến lược của các nước xung quanh. Tờ US Quadrennial Defense Review 2010 kể tên Indonesia, Malaisia và Việt Nam như là những đối tác tiềm năng trong lĩnh vực an ninh. Ông Kurt Cambell, thứ trưởng ngoại giao phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, đã nói cụ thể hơn: “Khi tôi nhìn tất cả các bạn bè ở Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiều triển vọng nhất đối với Việt Nam”(5). Với sức mạnh Hoa Kỳ, đất nước này là một con cờ có ích – một lần nữa đã chứng tỏ vậy. Nỗi ám ảnh đó đã có một tiếng vang. Từ bao thế kỷ, Việt Nam xoay quanh quỹ đạo Trung Hoa và tìm cách thoát khỏi sự thu hút. Sự phụ thuộc về kinh tế là đáng kể – một tỉ lệ áp đảo hàng nhập khẩu đến từ láng giềng phía bắc. Carlyle Thayer, giáo sư danh dự đại học New South Waless (Canberra) và là chuyên gia về Việt Nam, đánh giá rằng “đối với Hà Nội, không một quốc gia noà có thể tự tin và có nhiều ảnh hưởng bằng Trung Quốc”(6). Về cơ bản, ngoại giao Việt Nam tìm cách hoà hợp với càng nhiều nước càng tốt, nhằm thoát khỏi sự ràng buộc của Bắc Kinh, nhưng đồng thời cũng muốn duy trì quan hệ đặc biệt với ông bạn láng giềng lớn – một mối lo chia sẻ với nhiều nước Đông Nam Á khác. Cựu đại sứ Đinh Hoàng Thắng không coi nhẹ những khó khăn: “Nếu Việt Nam có thể thuyết phục được Trung Quốc rằng sự cải thiện quan hệ Mỹ-Việt không làm tổn hại đến lợi ích của nước thứ ba, thì đấy đã là một thắng lợi lớn”(7). Việc đó về phía Mỹ cũng không dễ dàng hơn. “Sự xa cách của Mỹ đối với châu Á và sự mất cân bằng trong quan hệ của Mỹ với Trung Quốc và cả với Việt Nam, tiếp tục làm biến dạng hiểu biết về những quan hệ lẫn nhau đó”(8), ông Brantly Womack, giáo sư quan hệ quốc tế Đại học Virginia nhắc lại như vậy. Về phía Trung Quốc, lệnh ban ra đôi khi mạnh mẽ: “Việt Nam cần phải thấy rằng, bị kẹp giữa hai cường quốc, họ đang chơi trò nguy hiểm, với vị thế mong manh như trứng để đầu đẳng(…). Nếu Trung Quốc và Việt Nam phải đi đến đụng độ quân sự, thì không một chiếc tàu sân bay của bất cứ nước nào đến, có thể bảo đảm an ninh cho nó”(9), ta có thể đọc thấy trên tờ Nhân dân nhật báo, cơ quan của ĐCS Trung Hoa. Vào cuối thể kỷ XX đã xảy ra vụ tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa(10). Dù gần đây đã tăng cường hạm đội, Hà Nội vẫn không thể cạnh tranh với hải quân Trung Quốc. Kết quả là như Richard Bitzinger, chuyên gia các vấn đề phòng thủ Châu Á – Thái Bình Dương, đã phân tích: “Việt Nam muốn có nhiều Quốc gia dấn thân vào Biển Đông. Điều đó là một sự bảo vệ đối với họ. Họ muốn nhận được sự giúp đỡ để mở rộng và hiện đại hoá những thuận lợi của cảng trong vịnh Cam Ranh. Tôi nghĩ rằng hải quân Hoa Kỳ sẽ lợi dụng được vị trí chiến lược đó, nhưng đó cũng là trường hợp của các hạm đội khác – tất nhiên chỉ thiếu có hạm đội Trung Hoa!”
Cánh cửa đã sập xuống cuộc xung đột 1979 với Bắc Kinh
Người ta có thể thấy một ngày nào đó Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam chống lại Trung Quốc không? Ở đây sẽ có nhiều điều trớ trêu, nếu ta nhớ lại sau khi tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, nước Trung Hoa của Mao Trạch Đông là nước đầu tiên công nhận nước Cộng hoà dân chủ trẻ tuổi tháng Giêng năm 1950, 12 ngày trước Liên Xô… Giữ thăng bằng trước hai nước cộng sản bảo trợ, sau đấy trở thành hai kẻ xung đột công khai, là bài toán đã được Hồ Chí Minh và những người kế nhiệm thực hiện thành công trong 25 năm. Viện trợ Liên Xô đã tiêu tan khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Xung đột công khai mở ra giữa Việt Nam và Trung Quốc cuối những năm 1970, trở thành vấn đề tối kị nhất trong chính sách đối ngoại. Hơn 30 năm sau khi nổ ra, vẫn không thể nhắc lại cuộc chiến ngắn ngủi tháng Hai – Ba năm 1979, khiến hàng chục nghìn người chết. Báo chí không nói cũng như sách giáo khoa không đề cập. Chính thức thì mọi việc đều suôn sẻ với Bắc Kinh.
Lịch sử đã cho thấy những hiểm nguy đối với Việt Nam, bị kẹt giữa những toan tính địa – chính trị của các cường quốc láng giềng. Ai sẽ quên Hà Nội? Nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn mới đây đã nhắc lại rằng Việt Nam “có thể là nước duy nhất trên thế giới đã tiến hành thương thuyết gay go và lâu dài với Hoa Kỳ. (…) Dù rằng sự tin tưởng và hiểu biết có tếin bộ đáng kể, không có gì đảm bảo những hiểu nhầm về chiến lược sẽ nảy sinh lại. (…) Như vậy, mối quan hệ song phương không thể xây dựng bền vững trên thế bình đẳng nếu nó được nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ chứ không phải cho lợi ích địa – chính trị của một bên nào đó”(11). Vào lúc này, điềm báo có vẻ thuận lợi. Nhưng “sự câu thúc của địa lý”(12) có lẽ vẫn không ngừng định hướng cho vận mệnh của quốc gia Việt Nam.
Đào Hùng dịch
Nguồn: Tạp chí XƯA & NAY
Số 384, Tháng 7 năm 2011/BS
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114513377

Hôm nay

2163

Hôm qua

2315

Tuần này

21314

Tháng này

220250

Tháng qua

121356

Tất cả

114513377