Lénine đi lại Paris nhiều lần nhưng thời gian ở Paris lâu nhất là 4 năm, từ 1909 đến 1912. Có nhiều giai thoại liên quan đến đời sống của Lénine trong thời gian đó được ghi chép trong những tài liệu không chính thức.
Lénine đi lại Paris nhiều lần nhưng thời gian ở Paris lâu nhất là 4 năm, từ 1909 đến 1912. Có nhiều giai thoại liên quan đến đời sống của Lénine trong thời gian đó được ghi chép trong những tài liệu không chính thức.
Trong số những giai thoại, tôi xin chọn lọc một vài mẩu chuyện đã được kiểm chứng để kể lại dưới đây. Những mẩu chuyện này bộc lộ một phần nào khía cạnh nhân bản của con người Lénine, trước nay chỉ được biết như một nhà cách mạng, như một lãnh tụ đầy ý chí, quyết tâm, sắt đá.
Một vài chi tiết có lẽ không được nhắc đến trong những bản tiểu sử chính thức của Lénine
Lénine (1870-1924) (tên thật Oulianov) là con một ông thanh tra học vụ của Sa hoàng. Ông này có dòng máu dân tộc Kalmouke (thuộc chủng tộc Mông Cổ theo đạo Phật) về phía ông nội và dòng máu Đức về phía bà ngoại. Vì vậy cả 2 bên đều phải rửa tội theo đạo Chính Thống Nga : một bên từ đạo Phật, một bên từ đạo Phản thệ Lutherien Đức. Vì có công trong việc Nga hóa dân tộc Kalmouke của mình nên cha Lénine được Nga hoàng phong cho một tước nhỏ trong hàng quí phái. Lénine tốt nghiệp luật sư năm 1892. Năm 1895, Lénine mới ở Đức, Thụy Sĩ và Pháp về thì bị bắt vì có chân trong một hội kín. Bị ở tù 14 tháng và bị quản thúc 3 năm ở làng ông nội mình ở Sibêri năm 1897. Làng ở cạnh sông Léna nên tên Lénine từ đó mà ra. Khi bị quản thúc Lénine có mẹ đến ở cùng và được cung cấp tài liệu đầy đủ để viết sách. Năm 1898 Lénine cưới hôn thê là Nadia Kroupskaia và 2 vợ chồng được phép ở với nhau. Nadejda Kroupskaia là con một sĩ quan của Nga hoàng. Ông này được phong một tước nhỏ trong hàng quí phái.
Nơi ăn chốn ở của Lénine khi ở Paris
Bắt đầu từ 1900 cho đến 1917, Lénine và Kroupskaia phần nhiều ở ngoại quốc, chỉ thỉnh thoảng mới trở lại Nga.
Thời gian ở Paris, Lénine sống với vợ và bà mẹ vợ ở khu nghệ sĩ Montparnasse quận XIV : Trước hết, ở số 24 phố Beaunier gần công viên Montsouris (trước mặt khu Cư xá đại học Quốc tế hiện giờ). Nhà này có 4 phòng không kể bếp và phòng chứa đồ. Lénine có nhiều bạn bè hay đi lại ầm ỹ làm người ở những căn hộ kế bên khó chịu và mụ giữ cửa cứ than, những người "theo thuyết hư vô" (nihilistes) Nga quá bừa bãi. Sau Lénine đến ở số 4 phố Marie- Rose cùng khu. Cho tới bây giờ Montparnasse cũng vẫn là khu tụ tập của các nghệ sĩ, nhà văn và các nhà chính trị đủ mọi nước. Ngoài các quán cà phê, Lénine hay tới quán ăn nổi tiếng cho tới tận bây giờ là quán Closerie des Lilas.
Inès Armand : Mối tình tha thiết đi đến tận cùng
"Em yêu anh ngay từ phút đầu khi em thấy anh và cho tới giờ vẫn vậy. Em có thể chấp nhận anh không hôn em miễn là được thấy lại anh. Tại sao em bị ngăn không cho gặp anh?" Inès thốt ra như vậy trong một bức thư gửi Lénine.
Lần đầu tiên hai người gặp nhau là năm 1910 ở Paris. Hai người bị cú sét ái tình (coup de foudre) khi 2 cặp mắt giao nhau. Inès lúc đó đã 35 tuổi nhưng trông như mới 25, với cặp mắt to, đôi môi mọng đỏ và bộ tóc màu hạt dẻ. Còn Lénine tuổi 40 đã bắt đầu hói. Hai người cầm tay nhau đi thơ thẩn dọc theo những đại lộ của một thành phố lãng mạn nhất thế giới, rồi cùng nhau ngồi hàng giờ trong những quán cà phê. "Inès không phải là một người tình mà là Tình yêu suốt đời của Lénine. Lénine trước nay vẫn coi viết về chính trị là cái quan trọng nhất, bây giờ không thể rời cặp mắt Mông cổ của mình ra khỏi con bé (Inès)" Charles Rappoport, một đảng viên đảng Xã hội Pháp nhận xét như vậy.
Inès, cha Do Thái Pháp mẹ Anh, sinh ở Paris năm 1874. Cha chết sớm, mẹ làm quản gia cho một gia đình ngành dệt (như gia đình Engels) giầu nhất nước Nga, gia đình Armand. Inès được coi như con nuôi của gia đình nên được chiều chuộng, sống rất sung sướng, chơi piano, nói đúng giọng 4 thứ tiếng. Khi lớn lên, lấy Alexandre con trưởng của gia đình và ngự trị trên cả một đội ngũ đầy tớ, quản gia, đầu bếp và cận vệ. Nhưng sau 7 năm, sinh được 4 người con với chồng, thấy cuộc đời quá buồn tẻ, tằng tịu với Vladimir đứa em út của chồng mới 17 tuổi rồi rủ nhau đi trốn. Khi Inès có bầu đành trở về Moscou. Nhưng vì quá tai tiếng, bỏ chồng con qua Stockholm học. Năm 1905 trở về Nga bị bắt trong toán thợ thuyền nổi loạn ở Saint-Pétersbourg và bị đem đi đầy ở tỉnh Mesen vùng băng giá Bắc nước Nga.
Mấy tháng sau khi gặp nhau, Lénine thấy cảm thấy phải có người tình luôn luôn ở cạnh mình, nên thuê nhà số 2 phố Marie-Rose cho Inès ở. Vợ chồng Lénine và mẹ vợ vẫn ở nhà số 4 bên cạnh.
Thời gian trước khi gặp Inès, hoạt động thường ngày của Lénine là đọc và viết sách. Lénine thường hay đạp xe đạp từ nhà đi đến Thư viện Quốc gia đường Richelieu. Xe đạp đầu của Lénine bị mất cắp ngay trước cửa thư viện. Xe đạp thứ hai bị gẫy bánh khi rớt vào một hố trên đường đi đến ngoại ô Issy. Thời đó mới có máy bay nên Lénine thường đạp xe đạp ra sân bay ở Paray-Vieille-Poste (gần phi trường Orly bây giờ) để coi biểu diễn máy bay. Không may cho Lénine, hồi tháng 11 năm 1909 trên đường đi đến sân bay Lénine bị ô tô của một tử tước đụng. Lénine viết thư cho em gái : " xe bị gẫy may mà anh nhảy ra kịp. Mấy người chung quanh giúp anh ghi kịp số xe và họ sẵn sàng ra tòa làm chứng. Anh đã nhận dạng được chủ nhân cái ô tô này - một lão tử tước trời đánh thánh vật (que le diable l'emporte) - Anh đã thuê luật sư kiện nó. Nhưng tốt hơn hết là đừng nên đi xe đạp mùa này".
Tìm cách làm quen với Paul Lafargue, con rể của Marx
Qua sự giới thiệu của Charles Rappoport, Lénine làm quen với Paul Lafargue, con rể của Marx. Rappoport, người Pháp lai Nga, cai quản thư viện Nga ở Paris đồng thời cũng là nhân viên của Ban Quản lí thường trực Phân bộ Pháp Quốc tế Thợ thuyền (SFIO) nằm trong Đệ Nhị Quốc tế Dân chủ-Xã hội của Engels do Jean Jaurès sáng lập và Paul Lafargue là một trong số những người lãnh đạo.
Sinh ở Cuba năm 1842, Paul Lafargue có một ông tổ người Do thái, một bà tổ có máu da đen và một bà tổ người đảo Caraibe. "Dòng máu của ba chủng tộc bị áp chế chảy trong người tôi", Lafargue nói vậy. Năm 1865, khi còn là sinh viên Y khoa, Lafargue đi theo phái xã hội Blanqui, bị đuổi khỏi trường, qua London học tiếp y khoa nhưng không bao giờ hành nghề. Khi ở Luân Đôn gặp Marx, làm thư ký cho Marx và lấy Laura con gái thứ hai của Marx. Laura chuyên dịch những tác phẩm của cha ra tiếng Anh và tiếng Pháp. Cả ba người con gái của Marx đều được bà mẹ, Jenny dòng dõi quí tộc giáo dục, nên có trình độ trí thức và ý thức xã hội rất cao. Paul và Laura lấy nhau năm 1868 ở London rồi trở về Pháp tham gia những biến cố Công Xã Paris. Khi Công xã thất bại, chạy qua London cho tới khi có luật Đại xá năm 1880 mới trở về Pháp vĩnh viễn. Paul Lafargue cùng Jules Guesde sáng lập đảng Thợ thuyền Pháp, một đảng marxiste thật sự. Trong một bản Đả kích mang tên "Quyền được làm biếng", Lafargue viết: chính người thợ phải có trách nhiệm về sự tha hóa của mình. Lafargue đưa ý kiến phải bớt giờ làm của người thợ từ 70 giờ xuống.... 25 giờ một tuần ! Lafargue bị bắt khi tổ chức mít ting phản đối cuộc đàn áp ngày 1-5-1891 làm chết 9 người ở miền Bắc nước Pháp. Cũng trong thời gian còn ngồi trong tù, Lafargue được bầu làm đại biểu Quốc hội tỉnh Lille và nhờ vậy nổi tiếng.
Trước khi chết năm 1894, Engels viết chúc thư để lại một phần tư gia tài cho Laura. Nhờ vậy mà cặp Lafargue trong 3O năm sống thiếu thốn, có tiền sống thanh thản và mua được một tòa nhà đẹp đẽ ở Draveil, ngoại ô Paris.
Tòa nhà này có chừng 1O phòng và nhiều nhà phụ xây trên miếng đất 20 ngàn mét vuông gồm một vườn hoa và một vườn trồng trái cây 10 ngàn mét. Cái lâu đài nhỏ này gây nhiều bàn tán trong giới đảng Xã hội. Tất nhiên là trong giới đối lập còn đàm tiếu nhiều hơn nữa ! Mặc dù vậy, Paul Lafargue vẫn hoạt động đắc lực trong Phân bộ Pháp Quốc Tế thợ thuyền và giữ nhiệm vụ liên lạc với các đảng anh em Đức, Anh, Lỗ, Hung v.v... với sự phụ tá của Laura, "con gái của Marx", một biểu tượng của Marx đối với giới bình dân.
Gặp Laura Marx ở Draveil
Lénine nói với Paul Lafargue là mình và vợ rất mong muốn gặp mặt Laura Marx. Vì vậy mà một ngày chủ nhật đẹp trời năm 1910, Lénine và Nadia đạp xe đạp mới tinh do bạn bè tặng, tới Draveil. Buổi gặp gỡ ngày hôm đó được kể trong cuốn hồi ký của Nadia Kroupskaia, Đời sống của tôi với Lénine : "Paul Lafargue và vợ là Laura, con gái Marx ở Draveil, cách Paris 20-25 cây số. Khi đó 2 người đã ít hoạt động thực tiễn. Có một ngày, Ilitch và tôi đi đến thăm bằng xe đạp, được cả hai tiếp đón rất niềm nở. Ilitch (Lénine) nói với Lafargue về cuốn sách triết học đang viết còn Laura đưa tôi đi xem vườn hoa. Tôi rất cảm động : trước mặt tôi là con gái của Marx ! Tôi cố tìm kiếm trong khuôn mặt Laura có những cái gì giống Marx. Tôi luống cuống nói cà lăm những chuyện đầu Ngô mình Sở về nước Nga và về sự tham dự của giới phụ nữ trong phong trào cách mạng... ".
Lénine mở trường học ở Longjumeau
Mùa Xuân năm sau, năm 1911, Lénine và các bạn bè quyết định mở ở Paris một trường đào tạo chính trị cho những thợ thuyền người Nga để trở thành những cán bộ tương lai sau này. Để tránh sự theo dõi của mật vụ Nga Hoàng l'Okhrana, gài nhân viên khắp Âu châu, mọi người đều đồng lòng chọn Longjumeau (1), một thị trấn nhỏ ở trên đướng đi từ Paris đến Orléans. Thị trấn này có đường xe lửa đi lại rất tiện lợi lại rất nhộn nhịp nên sự đi lại của những người nước ngoài sẽ không bị để ý.
Trường được mở tháng Ba năm 1911 ở số 17 Phố Lớn. Hai tháng sau trường dọn về số 60 và 91 cùng phố. Ở số 60, lớp học nằm trong một xưởng đằng sau sân. Phần căn nhà còn lại được Inès Armand dùng làm chỗ ở cho sinh viên. Ở số 90, ngay bờ sông Yvette, Lénine, vợ và bà mẹ vợ có một căn phố dùng làm nơi nghỉ mát. Sinh viên cả thảy 18 người đến từ Saint-Pétersbourg, Moscou, Bakou, Tiflis... Giáo sư thì Lénine tự tuyển lựa : Zinoviev, Kamenev và Sémachko dạy về lịch sử đảng Dân chủ-Xã hội Thợ thuyền Nga, Riazanov dạy về phong trào thợ thuyền ở Tây Âu (Những người này sau đều bị Staline giết), Rappoport trình bày lịch sử những cuộc đấu tranh cách mệnh Pháp.... Lénine cũng cho cua về Kinh tế chính trị, về vấn đề cải cách ruộng đất và về quan niệm duy vật lịch sử. Đặt biệt là Lénine cũng để Inès dạy một cua về lịch sử phong trào thợ thuyền ở Bỉ và cho Inès đứng đầu một nhóm chuyên về nghiên cứu chính trị kinh tế. Malinowski kể, "khi Ines cho cua thì Lénine luôn luôn ngồi ngay hàng đầu, cặp mắt đắm đuối nhìn Inès".
Nadia Kroupskaia cũng bị Inès mê hoặc : Trong cuốn hồi ký của mình, Nadia viết "Khi Inès bước chân vào nhà thì căn nhà bỗng nhiên bừng sáng". Nadia cho Paris bẩn thỉu và người Paris không dễ thương nên thích ở Lonjumeau hơn. Trong 1 bức thư gửi cho một bạn gái đề ngày 26-8, Nadia viết : "Volodia (viết tắt của Vladimir) biết tận hưởng mùa hè nên tổ chức làm việc ngay ở ngoài đồng ruộng, đi xe đạp nhiều, hay tắm sông và rất bằng lòng về nhà nghỉ mát của mình. Tuần này 2 đứa đạp xe đạp như điên. Bọn này đạp xe đi chơi cả thẩy 3 đoạn đường, mỗi đoạn dài 70-75 cây số, đi thăm 3 khu rừng, từ 6-7 giờ sáng đến chiều tối mới về".
Cái chết của vợ chồng Lafargue
Trường Longjumeau chỉ hoạt động đúng một mùa và tự đóng cửa ngày 30-8-1911. Lénine và gia đình trở về Paris để 3 tháng sau, ngày 27 tháng 11, như những người Xã hội toàn thế giới, nhận được tin xét đánh là sáng sớm chủ nhật ngày 26-11, người đầy tớ của 2 vợ chồng Lafargue thấy trong phòng ngủ của mỗi người, thân thể bất động của Paul và Laura Lafargue. Theo điều tra của cảnh sát, Paul Lafargue chích cho vợ một mũi thuốc độc, acide cyanhydrique trước rồi chích cho mình sau. Lafargue để lại một chúc thư:
"Khi tinh thần còn sáng suốt và thể xác còn khỏe mạnh, tôi tự kết liễu đời mình trước khi cái tuổi già tàn nhẫn tới lấy của tôi từng cái một, những vui thú và những vui vẻ của cuộc sống, tước lột sức lực thể xác và trí não tôi, làm tê liệt mọi nghị lực của tôi, bẻ gẫy sự quyết tâm của tôi và làm cho tôi trở thành một gánh nặng cho chính tôi và cho người khác.
Đã từ nhiều năm tôi đã tự hứa hẹn là sẽ không đi quá những tuổi 70; tôi đã định trước ngày nào trong năm sẽ ra đi và phương cách thực hành ý định của tôi : một mũi ac cyanhydrique.
Tôi chết với một nỗi vui là chắc chắn trong tương lai gần đây, sự nghiệp mà tôi đã hết lòng phục vụ từ bốn mươi lăm năm, sẽ toàn thắng. Quốc tế Xã hội muôn năm ! Paul Lafargue.
Có điều là Laura không để lại tài liệu nào chứng tỏ có sự đồng tình với quyết định của chồng và sự yên lặng đó đã tạo quanh cái chết của 2 vợ chồng Lafargue một sự khó chịu vẫn chưa bị đánh tan từ 99 năm nay. Cặp vợ chồng Lafargue bao giờ cũng như một, nhưng Laura trẻ hơn Paul 3 tuổi, có chắc chắn là Laura hoàn toàn đồng tình với quyết định của Paul Lafargue không ?
Đám tang của Paul và Laura ở nghĩa địa Père-Lachaise (Paris) có 20 ngàn người tham dự. Trong khi chờ thiêu đốt xác 2 người, có hơn một chục bài diễn văn được đọc bởi các lãnh tụ Xã hội đến từ khắp Âu châu. Nhân danh đảng Thợ thuyền Dân chủ-Xã hội Nga, Lénine đọc một bài điễn văn dài bằng tiếng Pháp. Nadia Kroupskaia tiết lộ sau này là bài diễn văn được Lénine viết bằng tiếng Nga và Inès Armand là người đã dịch ra tiếng Pháp.
Hai hũ đựng tro Paul và Laura Lafargue được để trong phần mộ các cháu của Laura, con của người chỊ, Jenny Marx-Longuet, gần bức tường xử bắn 147 nghĩa quân Công xã Paris (Le mur des Fédérés) trong nghĩa trang Père-Lachaise.
Lénine và Kroupskaia bỏ Paris tháng 6 năm 1912 đến ở Cracovie (Ba Lan) cho gần biên giới Nga, rồi từ năm 1914, ở Genève và Zurich. Inès ở Bern. Tới năm 1917 trở về Nga, xuyên qua Đức, bằng xe bọc thép có bảng ngoại giao của Đức.
Kết cục bi thảm của Inès Armand
Sau khi Cách mạng tháng Mười thành công, năm 1918 Lénine cho Inès ở phố Arbat cạnh điện Kremlin và đặc cách cấp cho Inès một trong những số điện thoại đầu tiên trong khi cả nước chỉ có 200 số điện thoại, để khi không gặp nhau cũng có thể nói chuyện với nhau. Nhưng công việc bề bộn, Lénine không còn nhiều thì giờ dành cho Inès
Ngay những năm đầu, Inès đã bắt đầu cảm thấy những hiểm nguy Cách mạng đem đến và những diễn tiến đẫm máu. Nhưng Inès vẫn bị mê hoặc bởi sức hút nam châm của Lénine khi viết "Anh thân yêu, chúng mình quá xa nhau làm em quá đau đớn". Nhưng cũng viết cho một người bạn : "Lénine là một người có sức thôi miên làm tôi không thể tách rời được, nhưng tôi khuyên anh nên tránh xa".
Năm 1920, Inès cảm thấy quá mệt mỏi muốn trở về Pháp tĩnh dưỡng. Nhưng Lénine sợ mất Inès, khuyên đi nghỉ ở vùng núi Caucase và lo cho Inès đủ áo ấm, giầy ấm (ủng bằng plastique thời đó là một sự hãn hữu).
Hai tuần sau Lénine nhận được điện tín "Đồng chí Inès Armand bị bệnh dịch tả không sao cứu được đã qua đời ngày 24-9-1920. Khi linh cữu Inès về đến Moscou ngày 11-1O, Lénine đi theo quan tài từ nhà ga đến trung tâm thành phố. E. Drobkine kể lại "Cả người Lénine chứ không phải chỉ bộ mặt, cúi gập xuống, bộc lộ một nỗi buồn vô hạn khiến không ai dám nhìn, chào hay chỉ gật đầu. Cái mũ lưỡi trai của Lénine che kín khuôn mặt và giấu cặp mắt đẫm lệ..."
Lénine làm quốc táng cho Inès : dàn nhạc Bolchoi hòa tấu hành khúc điếu tang (la Marche funèbre) của Chopin rồi mới tới Quốc tế ca. 60 xe chở súng liên thanh xếp thành hàng dài đi hộ tống quan tài từ quảng trường Cách mạng tới Quảng trường Đỏ. Từng tràng liên thanh xé bầu trời. Inès được chôn ngay dưới chân tường điện Kremlin, cách lăng của Lénine sau này chừng mười mét. Inès Armand là người đàn bà Pháp độc nhất được chôn ở Công trường Đỏ. Từ ngày Inès mất cho tới khi Lénine chết 4 năm sau, Lénine không bao giờ chế ngự được nỗi buồn của mình.
.............................................
(1) Lonjumeau có bà thị trưởng Natalie Kosciusko-Morizet (viết tắt là NKM) đồng thời cũng là tổng trưởng một bộ lớn trong chính phủ của tổng thống Sarkozy. Bà còn trẻ măng, tốt nghiệp đại học Polytechnique, dòng dõi một gia đình quí phái Ba Lan phía bên nội. Phía bên ngoại, André Morizet, ông của NKM, thị trưởng Boulogne-Billancourt ngày trước, lại là một trong những người sáng lập ra đảng Cộng Sản Pháp. Khi mọi người nhắc đến chuyện này, bà trả lời một cách hài hước: "không phải như vậy mà làm tôi trở thành người cộng sản". Cũng có người muốn Longjumeau kết nghĩa sinh đôi với thành phố Oulianovsk sinh quán của Lénine, nhưng NKM nói, Longjumeau nhỏ tí làm sao kết nghĩa sinh đôi được với Oulianovsk có dân số tới 600 000 người. Oulianovsk mang tên thật của Lénine.
2168
2303
21935
220871
121356
114513998