Cuộc sống quanh ta

Nghĩ về vai trò Phật giáo trong cuộc sống của đất nước hôm nay (I)

 I. Từ một thực tiễn trái chiều của đất nước

Không ai chối cãi được rằng: đất nước của vua Hùng hôm nay đang giàu lên, nhiều mặt văn minh lên, nhưng đồng thời cũng đang suy thoái về đạo đức. Cuộc tương tranh giữa cái Thiện và cái Ác đang diễn ra gay gắt chưa từng có trong lịch sử đất nước. Về cơ bản, cái Thiện, cái Tốt vẫn tồn tại nhưng lại đang hao hụt dần và không đủ sức mạnh để đè bẹp cái ác, cái xấu xuống. Không ngày nào, báo chí, các cơ quan truyền thông đại chúng không nói đến những hiện tượng vô đạo.

Ấy là chưa kể đến những thứ vô đạo còn được ngụy trang, ẩn núp sau những thứ đạo đức giả, có mặt ở mọi nơi mọi chốn, cả ở những nơi đáng ra phải thật trong lành, thánh thiện, làm đau lòng cả xã hội. Phải chăng, thực tiễn đất nước ta cũng ít nhiều đang là dẫn chứng cho điều mà thi sĩ Tản Đà trong Giấc mộng con tập I viết cách đây hơn chín mươi năm, đoạn thi sĩ đến chơi Cõi đời mới nhìn về Cõi đời cũ nơi mình sinh sống mà có nhận xét rằng: “sự văn minh càng tiến hóa bao nhiêu thì sự dã man cũng tiến hóa bấy nhiêu”. Nguyện vọng thiết tha, lớn lao và cháy bỏng của toàn dân là phải làm sao vãn hồi được đạo đức chưa nói là xây dựng đạo đức mới. Nhà nước cũng đã có nhiều chủ trương chính sách để bảo vệ đạo đức nhưng xem ra hiệu quả chưa là gì đáng kể trước đà suy thoái của nó. Năm 2000, người viết đã có bài: “Mối quan hệ cân đối giữa sự giàu có và đạo lý, bài toán khó của văn hóa Việt Nam ở thế kỷ XXI”(1). Trong đó, có nguyện vọng được Đảng Cộng sản Việt Nam ra một nghị quyết riêng về vấn đề đạo đức Việt Nam trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa để vào cuối XXI, con cháu Việt Nam sẽ reo lên: Đảng Cộng sản Việt Nam tài giỏi thật, vừa làm được cho đất nước cả ở hai phương diện giàu có và đạo đức. Muốn có nghị quyết đó, trước hết phải tách khái niệm đạo đức khỏi các khái niệm văn hóa văn minh đã được nói nhiều trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Bởi lẽ giữa các khái niệm đó tuy có nội hàm liên quan mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Phải tách riêng khái niệm đạo đức để có nghị quyết riêng về đạo đức. Nghị quyết đạo đức muốn có sức sống thực sự thì dứt khoát phải đi qua con đường nghiên cứu khoa học đích thực. Trong đó, về mặt lý thuyết, nhận thức, phải tường minh và rất khách quan về các mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế, đạo đức với chính trị, đạo đức với pháp luật, đạo đức với tôn giáo… Mặt khác, cũng phải nhận thức lại cho tường minh về đạo đức truyền thống vốn có liên quan với các học thuyết Nho, Phật, Đạo…để biết rõ đâu là điều tốt lành cần cho sự sống hôm nay, đâu là chỗ chưa có mà hôm nay phải bổ sung, chứ không thể nói chung chung và nói những điều đã quá quen thuộc nhưng chưa đủ độ tường minh. Đặc biệt, cần có sự thức tỉnh trước sự mai một của đạo đức truyền thống do sự áp đảo khá tai hại của phương Tây đối với phương Đông trong đó có Việt Nam ta trên phương diện văn hóa và tinh thần(2) mà xem ra đến nay vẫn áp đảo nhưng chúng ta thì chưa tỉnh. Mặt khác, cũng phải nhận ra sự gián cách lịch sử do có sự thay chữ viết từ Hán Nôm sang chữ quốc ngữ, tuy cái được là to lớn nhưng cái mất cũng không nhỏ(3). Vị cố đạo Pháp là Pujinier, người từng rất hăng hái cổ động chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương nhanh chóng thay chữ Hán Nôm bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ, chẳng đã nói: thay chữ viết là thay cả một nền văn hóa. Về sau, vào năm 1943, Toàn quyền Đông Dương là Decoux còn nói trực tiếp hơn rằng: “Bỏ Hán Nôm, dạy chữ quốc ngữ là một tội ác vì nó cắt đứt con cháu với quá khứ văn hóa tinh thần dân tộc của họ”(4).

Để có phương hướng vãn hồi đạo đức, điều quan trọng nữa là phải tìm ra nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái đạo đức vốn không phải là chuyện đơn giản. Bởi lẽ sự suy thoái này lại có liên quan tới nhiều qui luật mang tính chất hai mặt của cuộc sống hiện đại trên đất nước. Đó là:

1. Qui luật về sự hội nhập thế giới đang là một qui luật hàng đầu của sự sống hôm nay trong đó vừa là thuận lợi, cần thiết vừa là nguy cơ, bất lợi. Đã có khẩu hiệu tối ưu là “hòa nhập mà không hòa tan”. Nhưng thực tế hiện tượng hòa tan là điều khó chối cái. Trong sự hòa tan, có phần dẫn đến sự suy thoái đạo đức,

2. Qui luật về mối quan hệ giữa yêu cầu làm giàu và đạo đức mà thực tế đã có độ vênh như đã nói. Điều mà đạo Nho đã cảnh báo nhân loại từ mấy ngàn năm trước rằng “phi thương bất phú”, “vi phú bất nhân” không phải là sự thật ư, dù ít dù nhiều. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh các nhà doanh nghiệp đang ra sức làm giàu cho bản thân nhưng cũng là cho đất nước, đặc biệt có nhiều người còn làm từ thiện lớn lao. Nhưng sự vô đạo trong kinh tế thị trường thì ai dám chối cãi.

3. Qui luật về sự cạnh tranh sinh tồn vốn thuộc học thuyết Tiến hóa luận của Darwin, cũng là vừa khốn nạn vừa cần thiết. Khốn nạn là ở chỗ cá lớn nuốt cá bé, vô đạo. Nhưng muốn phát triển sự sống, lại không thể không đi theo qui luật cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô thất bại, nhìn từ góc độ triết học, chính là vì đã không chịu đi với qui luật này. Các chí sĩ yêu nước của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX đã thừa nhận qui luật đó. Đến thời đại Mácxit, không thấy nói đến nó nữa. Nhưng có đúng là trên đất nước ta hôm nay, qui luật cạnh tranh sinh tồn đang làm mưa làm gió ở khắp mọi lãnh vực mà chính mặt trái của nó đã dẫn đến sự suy thoái đạo đức đó không?

4. Qui luật về sự trỗi dậy của con người cá thể, cái Tôi (L’individu), vốn cũng có hai mặt. Bởi từ một đối tượng là con người cá thể nhưng trong thực tiễn cuộc sống nhân loại, lại đã có hai trạng thái: a) cái Tôi chân chính vốn là tế bào làm nên các hình thức cơ thể xã hội, cần được chăm sóc cho nó khỏe để có các cơ thể khỏe, cho nên đang rất cần thắp hương cầu nguyện cho nó sớm trỗi dậy được ngày nào là đất nước được nhờ ngày ấy. b) Cái Tôi vị kỷ, ích kỷ (L’individualisme) chỉ biết vụ lợi cá nhân một cách vô đạo, cần tiêu diệt được sớm phút nào thì đỡ khổ cho nhân dân phút đó. Suy cho cùng, mọi thứ xấu xa vô đạo trong cuộc sống của đất nước hôm nay - điển hình nhất, vô đạo nhất - là sự tham nhũng đã được coi là quốc nạn - chính là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân phi nhân bản(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước bằng sự kết hợp đức trị và pháp trị trên cơ sở nền tảng là đức trị do đó đã rất quyết tâm chống chủ nghĩa cá nhân.

Đúng là “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán”(6), bắt nhân loại phải sống với những qui luật khắc nghiệt mang tính chất hai mặt như thế. Vấn đề đặt ra với nhân loại là vừa phải chấp nhận qui luật vừa phải biết phát huy vai trò chủ thể của con người để hạn chế bớt mặt trái của qui luật. Việc vãn hồi đạo đức cho đất nước phải được đặt trong trạng thái chung mang tính tất yếu khách quan, hai mặt và nghiệt ngã đó.

II. Nghĩ về vai trò của Phật giáo

Một thực tiễn trái chiều của đất nước đã diễn ra như thế và nguyên nhân dẫn đến sự trái chiều vốn phức tạp là như thế. Do đó, đã đến lúc phải làm sao để cả nước cùng ào ạt ra quân nhằm vãn hồi đạo đức. Trong đó, phải nói đến vai trò của những nhà lãnh đạo đất nước trước lịch sử dân tộc. Tiếp đó là sự tham gia của mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp, mọi ngành trong xã hội kể từ chính trị học cho đến văn hóa học, giáo dục học, khoa học, triết học, đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, phong tục học... bằng cả hai hướng vừa có lý thuyết vừa có biện pháp hữu hiệu và kết hợp lý thuyết với biện pháp sao cho đích đáng, và có hiệu quả. Đặc biệt cần nhớ cho rằng trong cuộc ra quân tổng lực nhằm vãn hồi đạo đức này, nhất thiết không được coi nhẹ vai trò của tôn giáo, mặc dù tôn giáo không thay thế được mọi chuyện. Từ cách đặt vấn đề như thế, ở đây, người viết bản tham luận này xin nói riêng về Phật giáo.

1, Hẳn mọi người đều đã nhận biết rằng trong muôn loài thì chỉ loài người có tôn giáo. Phải thấy rằng, tôn giáo nói riêng, tín ngưỡng nói chung là một năng lực người. Đã là một năng lực người thì con người phải biết cách đối xử tỉnh táo, khách quan, kể cả trân trọng nó. Chúng ta đều biết, bản chất sự sống của loài người là ham muốn. Không ham muốn là không còn sự sống. Người mất trí, người điên là vậy. Nhưng tạo hóa lại đã bắt loài người phải đương đầu với một sự thật nghiệt ngã mang tính khách quan, bất khả kháng, là giữa ham muốn và kết quả đạt được muôn đời vẫn là một khoảng cách. Chính từ khoảng cách này mà nảy sinh tín ngưỡng, cầu mong sự phù hộ của một lực lượng siêu nhiên nào đó ngoài sự sống trần gian. Từ đây mà có tín ngưỡng, mà tôn giáo lần lượt ra đời với giáo hội này giáo hội khác. Tôn giáo ra đời còn là bởi loài người với bản tính tự nhiên đều ham muốn hạnh phúc mà hạnh phúc chỉ có một khi có cái thiện. Nhưng thực tế không bao giờ có trọn cái thiện mà ngược lại vẫn có cái ác. Do đó loài người bằng năng lực người phải tạo ra tôn giáo để hướng con người vào cõi thiện, hạn chế cõi ác. Tôn giáo nào cũng có phần đạo và phần đời. Về phần đời thì cũng phức tạp, không đơn thuần là tốt đẹp cả. Nhưng phần đạo thì bản chất là tốt đẹp mặc dù vẫn có sự bất cập này khác trước yêu cầu của cuộc sống thiên hình vạn trạng của loài người.

Sự tồn tại của tín ngưỡng và tôn giáo, nói chung là đời sống tâm linh, giữa các cá thể người cũng như giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giời vốn không đồng đều nhau. Nếu so sánh phương Đông (trong đó có Việt Nam ta) với phương Tây ở thời cổ trung đại thì có thể nói rằng ở phương Đông thiên về duy linh, nên có đời sống tâm linh đặm đặc, bề thế hơn ở phương Tây thiên về duy lý, duy vật. Các sử gia thường nói đến sự khác nhau giữa phương Đông có truyền thống đức trị khác phương Tây có truyền thống pháp trị là từ sự khác nhau đó. Các khái niệm như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa vô thần là sản phẩm của tư duy phương Tây chứ không phải của phương Đông. Sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đông trên phương diện văn hóa và tinh thần truyền thống mà trên có nói tới đã làm cho chính người phương Đông trong thời hiện đại có nhiều điều tỏ ra không hiểu đúng giá trị tâm linh trong sự sống của tổ tiên xưa nữa. Một ví dụ: về khái niệm ông vua. Có đúng là người đời nay khi nói đến ông vua thì chỉ nghĩ đó là người có quyền uy tối thượng, ăn trên ngồi trốc thiên hạ. Tốt thì trăm họ được nhờ. Xấu thì muôn dân phải chịu. Như thế là lạc hậu so với ông Tổng thống cai quản đất nước bằng hiến pháp, luật pháp thuộc chính thể tư sản đại nghị. Cách hiểu đó là sai về cơ bản ví đã hữu ý hay vô tình vừa bỏ mất vừa hiểu sai một khái niệm quan trọng là thiên tử (con trời) và thiên tử là thế thiên hành đạo (thay trời thực hành đạo lý cho muôn dân trăm họ). Như thế, vua chưa hẳn là người có quyền uy tối thượng bởi quyền uy tối thượng là ở ông Trời. Và ông trời quả là một biểu tượng siêu hình nhưng không phải như ai đó xơi phải lý thuyết duy vật thô sơ, lý thuyết vô thần từ phương Tây đến mà cho rằng nó là vô nghĩa, là chuyện tạo thần quyền để tăng sức mạnh cho quân quyền. Trong khi, nó là siêu hình nhưng lại có ý nghĩa thực tiễn vô cùng lớn lao, thậm chí còn lớn lao hơn cả công năng của hiến pháp của chế độ tư sản đại nghị. Nó ngự trị thường trực trong tâm trí ông vua để theo dõi, để uốn nắn, không chỉ với hành động mà còn là ý nghĩ riêng tư thầm lặng của ông vua để hướng ông vua theo sứ mạng thế thiên hành đạo. Tác dụng lớn lao như thế sao lại bảo là vô nghĩa.

Nước Việt Nam ta trước khi có cuộc giao lưu với phương Tây đã có một đời sống tâm linh vô cùng bề thế, trong đó không phải không có mặt sai trái, lạc hậu nhưng mặt tích cực vẫn là chính. Khí quyển đạo đức đậm đặc có được ở thời cổ trung đại một phần cơ bản là nhờ có đời sống tâm linh đậm đặc đó. Còn sau này, không ít người đã nông nổi, cũng có thể nói là dại dột chạy theo những thứ lý thuyết vu vơ này khác, rồi nhân danh xây dựng đời sống mới, mà phá hoại nhiều phong tục cổ truyền tốt đẹp của đất nước, phá hoại đền chùa miếu mạo, coi rẻ đời sống tâm linh, ít nhiều kỳ thị tôn giáo, mà thực tế đã góp phần không nhỏ vào sự suy thoái đạo đức làm đau lòng như thế.

Câu chuyện tâm linh vốn là một vấn đề vô cùng phong phú, kể cả huyền diệu và bí ẩn nữa. Ở đây chỉ nói qua như thế để nói rằng, nếu thực sự muốn vãn hồi đạo đức cho đất nước, trong trăm phương ngàn kế, không thể không đặt lại vấn đề khai thác tính năng của các tôn giáo trên cơ sở nhận thức về đời sống tâm linh, về vai trò của tôn giáo một cách tường minh, sâu sắc hơn nhiều nữa. Đành rằng, chính sách của nhà nước về tôn giáo được ghi trên văn bản thì đã đúng đắn. Nhưng khoảng cách từ chủ trương đến thực tiễn vốn là điều không đơn giản. Phải có cảm hứng tôn giáo mãnh liệt hơn nữa để chính sách còn được cụ thể hóa thêm và có khả năng đi vào cuộc sống nhiều hơn nữa.

Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114597617

Hôm nay

2225

Hôm qua

2320

Tuần này

2865

Tháng này

224234

Tháng qua

131357

Tất cả

114597617