Xin hãy lấy lại bài học Tam giáo đồng nguyên đã từng có trong lịch sử dân tộc để đất nước, để toàn dân được nhờ. Từ nguyện vọng thiết tha, cháy bỏng vì công cuộc vãn hồi đạo đức cho đất nước trên con đường phấn đấu phú cường, với tư cách là một công dân Việt Nam, chưa phải là một tín đồ Phật giáo do đó cũng chưa có hiểu biết nhiều về Phật giáo, nhưng ít nhiều có quan tâm đến đời sống văn hóa tâm linh của đất nước, tôi xin thắp hương cầu nguyện cho Đạo Phật Việt Nam ta đã hoằng dương Phật pháp càng thêm hoằng dương Phật pháp, đang chớm lên một thời đại phục hưng sẽ nhanh chóng phục hưng hơn.
2. 2 Nén hương tâm thành này của tôi là dựa trên những nhận thức dù còn là nông cạn nhưng đã in sâu trong tâm trí của tôi từ lâu về đạo Phật là như sau:
2. 2. 1. Đạo Phật là tôn giáo có tình thương bao la bát ngát nhất trong các tôn giáo. Bởi đạo Phật không chỉ thương tất cả loài người (tứ hải giai huynh đệ) mà còn thương đến cả muôn loài, từ đó có chủ trương không sát sinh. Không sát sinh hẳn là bất lợi cho loài người vì với loài người không ăn thịt động vật thì làm sao phát triển được bộ não để tạo ra thế giới văn minh như ngày nay. Tất nhiên, với những người theo đạo Phật, không ăn thịt nhưng đã có cách khác để phát triển bộ não. Còn với những ai không tán thành đạo Phật về chủ trương không sát sinh thì xin đừng quên lòng nhân ái, tình thương bao la bát ngát của đạo Phật và đừng quên rằng chủ trương không sát sinh này bên cạnh mặt không hợp lý lại có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái để bảo vệ sự sống bền vững cho loài người hiện đang thành vấn đề nóng bỏng của loài người hôm nay. Và, có phải là nhân loại hôm nay (trong đó có Việt Nam ta) đang ít nhiều lâm vào trạng thái stress, thậm chí, còn nổi cáu, phát điên, dẫn đến chém giết lẫn nhau ở nhiều nơi, đặc biệt là ở vùng Trung đông và Bắc Phi là điển hình cho sự vô đạo không? Đạo Phật với bản chất từ bi bác ái, với phương pháp tu hành thiền định, nhập thiền, đốn ngộ… sao không coi đó là phương thuốc hữu hiệu nhất để thư giãn tâm lý, thư giãn thần kinh căng thẳng? Năm 1947, người đứng đầu Ấn Độ - quê hương của Phật giáo - là Nérhu sang Mỹ, gặp Albert Einstein. Nérhu than phiền rằng: “Nền văn hóa toàn cầu hiện nay tạo ra nhiều của cải vật chất nhưng vô trách nhiệm đối với việc chăm sóc đạo đức con người”. Einstein đáp: “Vâng! Nền văn hóa chăm lo đạo đức chính là nền văn hóa phương Đông cổ truyền của các ông”. Theo Einstein, nếu trong tương lai cần một tôn giáo vũ trụ thì đó là Phật giáo(7). Chúng ta nghĩ gì trước ý kiến của vị thiên tài khoa học của nhân loại ở thế kỷ XX này vốn không phải là người của phương Đông? Tôi xin 100 lần đồng ý đồng tình với Einstein mặc dù biết trước không dễ gì có chuyện đó.
2. 2. 2. Riêng với lịch sử Việt Nam, Phật giáo có những điểm ưu việt là:
2. 2. 2. 1. Nó sớm có mặt ở đất nước ta mà không liên quan đến các thế lực xâm lược trong khi Nho giáo thì liên quan tới cuộc xâm lăng của nhà Hán, Thiên Chúa giáo thì ít nhiều cũng liên quan tới mấy nước tư bản chủ nghĩa phương Tây đặc biệt là Pháp trên đường sang phương Đông kiếm thuộc địa. Điều này đã được chính một vài cha cố người Việt thừa nhận. Và nếu tôi không lầm thì Phật giáo trong lịch sử của mình chưa bao giờ gắn với chiến tranh bởi với Phật giáo thì chiến tranh nào cũng là cốt nhục tương tàn. Thật là tuyệt vời.
2. 2. 2. 2. Đến Việt Nam, Phật giáo ít nhiều được Việt Nam hóa theo phương châm cư trần lạc đạo (chứ không phải là thoát trần lạc đạo như đó đây đã bị hiểu lầm) và có mấy thế kỷ (thứ 10 đến thứ 14) là quốc giáo của Việt Nam trong quan hệ tam giáo đồng nguyên, góp phần đắc lực đưa đất nước Việt Nam đến một thời đại vinh quang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc. Đặc biệt, đã cống hiến cho dân tộc một vị đệ nhất minh triết là Thánh đế (vừa là vua vừa là thánh) Trần Nhân Tông. Với Thánh đế Trần Nhân Tông, nếu theo thuyết “tam bất hủ” (ba giá trị không bao giờ hủ bại, tan nát) là: lập đức, lập công, lập ngôn trong đó lập đức là cao nhất, thứ đến là lâp công, thứ nữa là lập ngôn, thì trong lịch sử Việt Nam, tạm tính đến trước thời đại Hồ Chí Minh, không ai xứng bằng Thánh đế Trần Nhân Tông. Nói riêng về khả năng đưa lại sự đoàn kết dân tộc thì cũng vậy, trong suốt trường kỳ lịch sử dân tộc, hỏi ai làm hơn được vị Thánh đế này? Ở vị thánh đế này, còn một điều có thể nói là vô tiền khoáng hậu, hẵng cứ nói trong phạm vi Việt Nam ta, là một người cầm quyền duy nhất đã cố gắng và thực tế đã đạt được là cầm quyền mà không bị rơi vào bi kịch của người cầm quyền vốn như là định mệnh. Cơ sở tạo ra những giá trị nhân bản phi thường đó là gì, nếu không phải từ đạo lý Phật giáo.
Sau khi mất địa vị quốc giáo, Phật giáo vẫn gắn bó với đất nước Việt Nam, người dân Việt Nam, trước hết là người dân đau khổ. Việc chăm sóc cho phần hồn của người dân Việt Nam chủ yếu vẫn thuộc về đạo Phật. Trên con đường củng cố chế độ phong kiến, các vương triều đã phải đưa Nho giáo lên địa vị quốc giáo. Nhưng chủ yếu là thuộc phần đời chứ về phần đạo, phần hồn, ngoài vai trò của Nho giáo cần cho lớp trên, còn với nhân dân và cả vua chúa, vẫn phải lấy Phật giáo làm chính. Thời Lê Trịnh, chẳng phải là thời chùa chiền mọc lên như nấm do dân tự làm nhưng cũng do triều đình khuyến khích mà có. Nói riêng về văn học Việt Nam thời trung đại mà có nét đặc sắc có thể nói là không thua bất cứ một nền văn học nào trên thế giới là giàu tình thương con người thì trước hết vẫn phải ghi nhận vai trò của Phật giáo. Thiên tài văn học Việt Nam là Nguyễn Du, đặc biệt là với Truyện Kiều, ở phương diện tình thương con người, hỏi thua kiệt tác nào của thế giới? Chỉ một chi tiết này đủ thấy thế nào là tình thương người của nàng Kiều mà chính là của Nguyễn Du. Cùng đi thanh minh, có bao nhiêu người, “ngựa xe như nước áo quần như nêm” thế kia mà có ai thầy gì ở một nắm đất “sè sè bên đường, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” và không thấy cũng chả sao. Nhưng nàng Kiều thì thấy. Thấy một nắm đất sè sè mà ở đấy là một nấm “mồ vô chủ ai người viếng thăm”, dưới đó là một kiếp người “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Hãi thay chết xuống làm ma không chồng”, và qua một Đạm Tiên là cả cái “phận đàn bà” “đau đớn thay”. Đúng là một tiếng kêu than cho cái phận đàn bà muôn nơi muôn thuở. Thử hỏi từ đâu mà có tiếng kêu than đó, nếu không có phần nâng đỡ từ tình thương bao la bát ngát của đạo Phật. Có thể nói khái quát rằng văn học trung đại Việt Nam nếu chỉ dựa vào một Nho giáo không thôi mà không có Phật giáo thì chắc hẳn không có thành tựu như đã có, trước hết là trên phương diện lòng thương người vốn là một yếu tố côt lõi của giá trị nhân bản.
2. 2. 2. 3. Thực tế đã có một nền văn hóa Phật giáo của Việt Nam mở đầu ngay từ buổi đầu khi Phật giáo du nhập không lâu với vai trò của các bậc thiền sư như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, làm nên gương mặt sơ khai của văn hóa Việt Nam ngay dưới thời Bắc thuộc mà con cháu hôm nay còn thấy được. Ở phương diện này, Nho giáo chưa làm được như thế. Đến thời đất nước được tự chủ, Phật giáo lên ngôi quốc giáo thì rõ ràng đã đưa văn hóa Phật giáo mà cũng là văn hóa Việt Nam lên đỉnh cao chói lọi. Cứ đọc lại văn thơ Lý Trần, tìm hiểu lịch sử kiến trúc thời Lý Trần sẽ thấy phần tinh túy nhất, cao diệu nhất của văn hóa nghệ thuật Việt Nam ở thời đại Lý Trần vẫn thuộc phần đóng góp của Phật giáo là chính. Tiếp đó, dù Phật giáo không còn địa vị quốc giáo, nhưng văn hóa Phật giáo vẫn là dòng chảy không ngưng nghỉ dù có yếu đi. Riêng về nghệ thuật kiến trúc thì sản phẩm chịu ảnh hưởng Phật giáo vẫn là đầu bảng. Dưới thời Pháp thuộc, văn hóa Phật giáo dù có sút kém cùng sự sút kém của Nho giáo, của văn hóa truyền thống của Việt Nam nhưng riêng Phật giáo cũng đã cố gắng chấn hưng để không bị mai một hẳn. Sau 1945, ở vùng cách mạng đã thắng lợi, do có sự ấu trĩ mà ít nhiều coi rẻ Phật giáo, hiểu sai Phật giáo. Trên Tập san Văn Sử Địa suốt bao năm chỉ có một bài viết của nhà nghiên cứu Văn Tân về Phật giáo mà xem ra kiến thức không nằm ngoài những gì đã có trong các sách về Phật giáo của Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Phan Văn Hùm… viết trước Cách mạng tháng Tám. Trong khi ở các vùng mà từng gọi là vùng tạm chiếm, ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, văn hóa Phật giáo đã không mai một, ngược lại cón có sự trỗi dậy bề thế, khả kính. Sau 1975, đất nước được thống nhất, rõ ràng là văn hóa Phật giáo càng trở nên phồn thịnh vượt bậc. Cứ nhìn qua vào các công trình nghiên cứu Phật học của Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Thiệu Hoa, Thiền sư Lê Mạnh Thát…; kể cả Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã sáng lập ra môn phái Làng Mai ở nước ngoài và đang muốn đưa môn phái này về tổ quốc, với bao nhiêu là sách vở về Phật giáo của ông; kể cả bao nhiêu sách vở của các vị Hòa thượng, Thượng tọa khác viết; kể cả bao nhiêu băng đĩa chứa đựng các bài giảng về Phật pháp, về đạo đức làm người của các Thiền sư, đang có bán khắp nơi trên đất nước và được người dân đón nhận… Và, cứ nhìn đến các chùa chiền hoặc được tái thiết, hoặc được tân lập, tiêu biểu như Yên Tử ở Quảng Ninh, Tây Thiên ở Vĩnh Phúc, Bái Đính ở Ninh Bình… có được trong thời gian gần đây, ai mà không thấy đó là dấu hiệu phục hưng của Phật giáo Việt Nam đáng mừng cho đất nước hôm nay và mai sau trên phương diện phần hồn, phương diện văn hóa nghệ thuật. Và những thành quả văn hóa nghệ thuật có được từ đạo Phật đó sẽ là gì trong công cuộc vãn hồi đạo đức mà toàn dân ta đang từng ngày từng giờ mong đợi. Cần nói thêm rằng nói đến lịch sử văn hóa Việt Nam mà không thấy đúng tầm độ của văn hóa Phật giáo Việt Nam thì coi như chưa hiểu đúng văn hóa Việt Nam. Cũng như xây dựng đời sống tinh thần Việt Nam mà không biết tận dụng, khai thác kho báu văn hóa Phật giáo Việt Nam thì đó là điều đáng tiếc, vô cùng đáng tiếc. Không dấu gì quí vị, trong đầu óc tôi đã nhiều lần hễ nghĩ đến tình trạng suy thoái đạo đức đang ngày một tăng trưởng như không gì cản lại được thì vẫn mơ tưởng, vẫn ước mong một điều mà biết trước tương lai thì không nói nhưng hiện tại thì vẫn là hão huyền, là không tưởng rằng giá gì Phật giáo có lại được vị trí quốc giáo trên đất nước của vua Hùng trăm quí ngàn yêu của tôi của chúng ta, dĩ nhiên là chỉ ở phần hồn, chứ không phải ở phần xác. Mặc dù theo qui luật, phần hồn vẫn có liên quan đến phần xác. Nhưng phần xác thì đã có các chủ thuyết khác đảm nhiệm.
Chú thích.
(7). Trích Phạm Đức Dương: Giao lưu văn hóa Việt Nam và thế giới. Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 152 ngày 10 - 7 - 2009