Bắt đầu đổi mới (Đại hội VI, tháng 12-1986), lần đầu tiên chúng ta được nghe những cụm từ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thât, nói rõ sự thật”. Với tinh thần và thái độ đó, Đảng ta đã chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Trong lĩnh vực tư tưởng, bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ còn theo một số quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng hình thức, không xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của công việc; cách làm lại thiếu quy hoạch, chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định.
Giá trị lớn nhất trong các văn kiện Đại hội VI là nhấn mạnh và khẳng định “đổi mới tư duy”. Sự cần thiết phải đổi mới tư duy xuất phát từ thế giới ngày nay đang thay đổi nhanh chóng, cuộc sống thay đổi từng ngày, thế giới thay đổi từng giờ. Đối với các nước, đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đối phó thắng lợi với mọi thử thách, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Nhiều năm nay, trong nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội có nhiều quan niệm lạc hậu, nhất là những quan niệm về công nghiệp hóa, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông, v.v... Đó là nguyên nhân chậm phát triển và cụ thể hóa đường lối chung, đường lối kinh tế trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Vì vậy, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn, thực hiện được những mục tiêu do Đại hội VI đề ra.
Đại hội VI nhấn mạnh “muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu những thành tựu lý luận, những kinh nghiệm mới phong phú của các đảng anh em, những kiến thức khoa học của thời đại. Phải khắc phục những quan niệm sai lầm, lỗi thời. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy.
Những tư duy mới mẻ trong Đại hội VI nếu xuất hiện trước đổi mới là chuyện “động trời”, nhưng ngày nay nếu không như vậy thì sẽ dẫm chân tại chỗ hoặc thất bại.
2. Hơn một phần tư thế kỷ sau
Phải khẳng định ngay rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Những thắng lợi đó có một nguyên nhân rất quan trọng là nhờ đổi mới tư duy. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra, trong bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay, chúng ta còn phải tiếp tục đổi mới tư duy nhiều hơn nữa, mạnh hơn nữa, cả bề rộng lẫn chiều sâu. Những gì được nêu trong các văn kiện Đại hội VI và các nghị quyết của Đảng sau đó là bổ ích, rất đáng trân trọng, nhưng vẫn chưa trở thành văn hóa bởi nó chưa thật sự thấm sâu vào tư duy và chưa trở thành hành động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Nghị quyết Trung ương 4 Đại hội XI vừa qua cũng cho thấy có sự đổi mới tư duy nhưng rõ ràng vẫn đang nằm ở tầm mức nghị quyết, chưa trở thành suy nghĩ thường trực, chưa biến thành những việc làm cụ thể của mỗi đảng viên và cán bộ. Điều cần ghi nhận ở Hội nghị Trung ương 4 là sự định hướng về đột phá đổi mới tư duy trong Đảng và nhân dân và xã hội. Với tinh thần đột phá đó và trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thử đi tìm chân lý từ một số điều tưởng như nghịch lý. Nói đúng ra, nhiều vấn đề theo tư duy mới và tư duy cũ sẽ mang lại những giá trị và phản giá trị khác nhau. Chính chân lý lại nằm ở câu trả lời theo tư duy mới những câu hỏi thường nhật, mà có người cho là “vớ vẩn”.
Thứ nhất, cán bộ phục vụ ai? Tư duy cũ là cán bộ phục vụ Đảng và Chính phủ. Tư duy đó vẫn còn tồn tại hiện nay trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Còn theo tư duy mới đã được Hồ Chí Minh nói đến từ thập kỷ bốn mươi, đó là cán bộ phải lấy việc phục vụ nhân dân làm chính. Người viết: “Có người nói rằng: mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân. Mà phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy, nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ”(1).
Cái gốc rễ trong tư duy của Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc. Cái gốc này không nằm trong nghị quyết mà lấy nhu cầu, lợi ích và hạnh phúc của người dân làm tiêu chí, thước đo. Tức là làm theo các quần chúng.
Thứ hai, ai làm công tác cán bộ, tổ chức và ra nghị quyết? Tư duy thông thường là Đảng ra nghị quyết, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và Đảng chỉnh đốn tổ chức. Tư duy như vậy là đúng nhưng không hoàn toàn, vì chỉ như vậy thì liệu có đem lại hiệu quả thật sự hay không. Ví dụ: hiện nay nếu công tác cán bộ khép kín trong Đảng, Đảng “đóng cửa” tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng liệu có mang lại kết quả như mong muốn? Trả lời câu hỏi này liên quan đến tư duy trong câu trả lời câu hỏi thứ nhất, tức là trách nhiệm của cán bộ trước nhân dân và Đảng phải có lòng tin ở nhân dân. Theo tư duy mới mà Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta cách đây tròn 65 năm là: “(1) Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. (2) Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm thì thật thà thừa nhận trước dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(2).
Thứ ba, cải cách hành chính để làm gì? Tư duy thông thường là để chính quyền mạnh hơn. Nhưng nếu hỏi tiếp: “Chính quyền mạnh hơn để làm gì?” thì tư duy cũ không có câu trả lời. Còn theo tư duy mới thì câu trả lời là cải cách hành chính là để phục vụ người dân tốt hơn. Theo ý kiến của TS Nguyễn Sĩ Dũng đăng trên báo Lao Động ngày 10-9-2012 thì thước đo trung thực nhất, chính xác nhất cho mọi cố gắng cải cách ở đây là sự hài lòng của người dân. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo kết quả cải cách hành chính không những sẽ làm thay đổi căn bản tính chất của cải cách mà còn xác lập được chế độ trách nhiệm tốt hơn đối với các quan chức hành chính. Và muốn người dân hài lòng thì phải làm hai việc. Một là, cải cách ngay những thứ đang làm mất lòng người dân nhiều nhất, và hai là, phải cung cấp được những thứ mà người dân mong muốn nhất. Như vậy, nếu lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo cải cách hành chính thì phải xây dựng chương trình cải cách hành chính theo nhu cầu của người dân. Có hai cách để xác định sự hài lòng của người dân. Thứ nhất, hãy xem những người đại diện cho dân phản ứng thế nào. Cách thứ hai là thăm dò ý kiến của người dân. Ý kiến của TS Dũng trở về đích thực với tư duy mới mẻ của Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh trong Hiến pháp năm 1946 về trưng cầu ý dân và mọi thứ phải bàn bạc và hỏi ý kiến dân.
Thứ tư, học để làm gì? Để biết, để có bằng cấp hay để làm việc, làm người, làm cán bộ? Sau mấy chục năm trăn trở, câu trả lời nghiêng về học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Bước vào thập kỷ chín mươi, UNESCO đưa ra bốn trụ cột, đó là: “Học để biết. Học để làm. Học để khẳng định mình. Học để chung sống”. Ngày nay, ưu tiên số một là: “Học để học cách học”. Học để học cách học là học phương pháp, mà quan trọng hàng đầu là phương pháp tư duy. Phải luôn luôn có cách tiếp cận mới, tư duy mới về mọi vấn đề của cuộc sống. Không có tư duy mới, cách tiếp cận mới và sáng tạo thì vẫn chỉ dừng lại học để biết. Đương nhiên học thì phải để biết, nhưng đó chưa phải là mục đích cuối cùng. Biết để làm gì? Cuối cùng là để hành động, để làm việc có ích cho nhân dân, cho Tổ quốc và nhân loại. Cái chất “người” và chất cán bộ trong tư duy Hồ Chí Minh cũng là làm công bộc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn. Giáo dục-đào tạo không phải để khoác lên người học một gánh nặng kiến thức mà là quá trình tạo ra các năng lực để học tập. Năng lực số một là năng lực tư duy. Cho đến hôm nay, tư duy học để làm việc, làm người, làm cán bộ vẫn chưa trở thành triết lý giáo dục của Việt Nam. Chúng ta vẫn cứ loay hoay học để thi cử, để có bằng cấp. Đến khi thi cử quá nhiều tiêu cực, thành tích trở thành bệnh thì lại tập trung chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích. Một nền giáo dục mà chỉ tập trung vào “chống” thì coi như số phận đã an bài.
Thứ năm, ai có quyền thải hồi người lao động? Theo tư duy cũ, chỉ cần năm giây là có câu trả lời đạt điểm tối đa. Đó là người sử dụng lao động (chủ công ty, thủ trưởng đơn vị) có quyền thải hồi người lao động. Tư duy cũ đó hiện nay vẫn là phổ biến trong các cơ quan, doanh nghiệp tư nhân và nhà nước. Vậy tư duy mới cho câu trả lời là gì? Một số chuyên gia cho rằng họ sẵn sàng nhường quyền thải hồi của họ với tư cách là chủ công ty (hay người đứng đầu cơ quan, doanh nghiệp) cho người lao động. Hoặc là người lao động tự thấy mình không đủ năng lực, phẩm chất để làm việc thì tự họ có quyền lựa chọn “đi hay ở”. Phải có cơ chế (chứ không phải là quyền lực của ông chủ) để người lao động tự cảm thấy xấu hổ với năng lực của mình trước công việc và những người xung quanh. Trong trường hợp người lao động đã trở thành một giá trị khách quan thì họ vẫn/ càng có quyền lựa chọn ông chủ hay thủ trưởng đơn vị. Nói cách khác người sử dụng lao động khôn ngoan là sử dụng lao động có năng lực lựa chọn ông chủ. Trong trường hợp đó, ông chủ hay người đứng đầu buộc phải xem lại mình có thực sự xứng đáng là ông chủ hay thủ trưởng đứng đầu cơ quan nữa hay không. Khi chúng ta đã đào tạo được một lực lượng lao động có tay nghề cao thì người sử dụng lao động cũng phải nâng cao năng lực mọi mặt của mình.
Ở một bình diện khác, tầm vĩ mô, Đảng lãnh đạo xã hội và hệ thống chính trị. Đảng không chỉ lãnh đạo nâng cao dân trí mà một khi dân trí đã cao thì đồng thời phải nâng cao “quan” trí, nâng cao đảng trí.
Thứ sáu, nhân dân chọn Đảng lãnh đạo hay Đảng đòi hỏi nhân dân phải thừa nhận quyền lãnh đạo của mình? Câu hỏi này nếu không được nhận thức và trả lời theo một tư duy khoa học và thấu đáo với một tinh thần đổi mới thì rất dễ dẫn đến sự giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và có nguy cơ Đảng mất vai trò lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt trận không phải là áp đặt hay trói buộc sự lãnh đạo đó, bắt nhân dân phải theo. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”(3).
Chúng ta vẫn nghĩ và thường nói Đảng lãnh đạo và đi theo đường lối của Đảng. Vậy ngoài đường lối của Đảng còn có đường lối nào nữa không? Phải suy nghĩ thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh trong luận điểm “Đảng phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Luận điểm này cho thấy tuy hai mà một, tuy một mà hai. Bởi vì “lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt”(4).
Bởi lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân nên cùng với đường lối lãnh đạo của Đảng, còn có cả đường lối nhân dân. Đường lối nhân dân là lấy nhân dân làm trung tâm và động lực của sự phát triển. Theo Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ chấp hành tốt đường lối của Đảng mà còn phải “theo đúng đường lối nhân dân” với 6 điều: Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo”(5).
Thứ bảy, đảng viên, cán bộ, người có chức, có quyền hay người ngoài đảng và nhân dân dễ mắc sai lầm? Ai cũng nghĩ và khẳng định rằng đảng viên ít mắc khuyết điểm hơn người ngoài đảng; người có chức, có quyền ít mắc khuyết điểm hơn cán bộ, công chức bình thường. Thậm chí có quan điểm cho rằng đảng viên bao giờ cũng tốt hơn người ngoài đảng(!?). Đó là một suy nghĩ thiển cận, giản đơn và sai lầm. Đúng rằng khi được cất nhắc lên một vị trí, chức vụ mới - trừ trường hợp mua chức, bán quyền và quy trình bổ nhiệm cán bộ không chặt chẽ - còn lại, ở thời điểm đó, họ là người tốt, không mắc sai lầm. Những người bắt đầu được đứng vào hàng ngũ của Đảng tốt hơn quần chúng. Nhưng đó là ở thời điểm đó. Còn sau đó, mọi thứ không thể tư duy thô thiển rằng họ luôn luôn ít mắc khuyết điểm hơn quần chúng, tốt hơn quần chúng. Hãy lắng nghe lời của Xtalin được Hồ Chí Minh dẫn lại: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng”(6). Không phải ít mà nhiều trường hợp, đảng viên tiêu cực hơn người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh dẫn tiếp Xtalin: “Một điểm đáng chú ý. Nhiều khi có những người ngoài Đảng họ tiết kiệm của công hơn những đảng viên. Có những đảng viên rất “dũng cảm, kiên quyết” trong trường hợp này. Họ âm thầm phát phụ cấp cho nhân viên của họ, mượn tiếng là “hoa hồng”. Họ âm thầm phớt qua phép luật, trốn tránh và làm trái phép luật. Về điểm này những người ngoài Đảng cẩn thận hơn. Vì đảng viên thường xem phép luật, chính quyền, v.v... là việc trong nhà. Vì vậy mà có đôi đảng viên như những con lợn (xin lỗi tiếng đó) rúc vào vườn rau của Nhà nước, chén một bữa no say, hoặc họ hy sinh lợi ích của nước nhà, để lên mặt mình là khảng khái. Chúng ta phải chấm dứt cái thói vô chính phủ ấy”(7).
Thứ tám, Chính phủ là gì? Quyền lực trong tay Nhà nước hay trong tay nhân dân? Nhân dân cảm ơn Nhà nước hay ngược lại? Đi tìm chân lý ở câu hỏi này không khó, cái khó ở đây là sự vận động trên thực tế. Ai cũng biết Chính phủ là đày tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhưng vai trò chủ và quyền hành của dân được thể hiện như thế nào? Từ năm 1947 Bác Hồ đã nói “nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”(8). Quan điểm này là một khía cạnh cụ thể khi bàn về quyền của nhân dân. Nhưng 67 năm qua, điều đó hiện nay vẫn đang nằm ở dạng “đề án”, dự kiến sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 vào cuối năm 2012. Còn nó trở thành hiện thực đến đâu thì vẫn phải chờ đợi.
Trong cuộc sống thường nhật, với lòng biết ơn vô hạn đối với Đảng và Nhà nước, khi được hưởng một thứ quyền lợi vật chất hay tinh thần, lớn hay nhỏ, nhân dân ta thường nói: “Cảm ơn Đảng và Chính phủ”. Đó là một kiểu ứng xử, một thái độ đáng trân trọng. Tuy nhiên xét đến cùng thì Đảng và Nhà nước phải cảm ơn đồng bào, cảm ơn nhân dân. Hiện nay mức thuế, phí của nhân dân chiếm 26,3% trong tổng thu ngân sách của Nhà nước, đứng đầu khu vực. Mặt khác, như Bác Hồ đã chỉ ra, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và vì vậy bao giờ Người cũng thưa đồng bào trước. Đảng ta ngày nay cũng nhấn mạnh “chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân”. Cả vị trí người chủ và đày tớ đều phải ý thức được điều này.
Thứ chín, dân là ai? Trả lời câu hỏi này có độ chênh giữa lý thuyết và thực tế. Ai cũng hiểu dân là “toàn dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi người thuộc các dân tộc đa số và thiểu số sống trên giải đất Việt Nam, không phân biệt nòi giống gái trai, giàu nghèo, tôn giáo” (Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946). “Dân” trong mệnh đề “dân là chủ và dân làm chủ”, “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, “toàn dân phúc quyết” đều được hiểu theo nghĩa trên. Nhiều lúc Bác Hồ nói gắn gọn hơn, súc tích hơn nhưng thể hiện rõ hơn, đậm đặc hơn vai trò, vị trí của người dân. Đó là khi Người nói đến hai chữ “đồng bào”, “con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên”. Tóm lại, “dân” là những người mang dòng máu Việt, trừ những kẻ phản bội, làm tay sai cho đế quốc và đi ngược lại nguyện vọng, quyền lợi của dân tộc. Với tư duy đó, khi nói về chức Chủ tịch nước, thông thường là do Quốc hội bầu, nhưng Hồ Chí Minh lại cho rằng “do ĐỒNG BÀO ủy thác”. Tư duy của Hồ Chí Minh gợi cho ta suy nghĩ cùng với những vấn đề do Quốc hội thay mặt toàn dân giải quyết thì cần chú ý những vấn đề khác phải do toàn dân, đồng bào phúc quyết. Phải lấy nguyện vọng, quyền lợi chính đáng và sự hài lòng của toàn dân, của đồng bào làm thước đo, chứ không phải chỉ là đại biểu Quốc hội hay Hội đồng nhân dân.
Thứ mười, tại sao phải lấy dân làm gốc, Đảng phải gắn bó với dân? Ta thường nói “nước lấy dân làm gốc”, hay “dân là gốc của nước”, nhưng chưa hiểu lý do vì sao như vậy? Những tố chất nào tạo nên cái gốc của dân? Theo tư duy Hồ Chí Minh, cái gốc được tạo nên bởi mấy tố chất sau: 1- Lực lượng của dân. 2- Trí tuệ của dân. 3. Quyền hành của dân. 4- Lòng tốt của dân. 5. Lòng tin của dân. Năm tố chất đó kết thành gốc, nhưng mỗi tố chất cũng có thể là một cái gốc. Đặc biệt là lòng tin của dân. Nếu cán bộ suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu... thì sẽ làm giảm lòng tin, mất lòng tin của nhân dân với Đảng. Mất kinh tế cũng thiệt hại nhưng có thể làm lại được, còn mất lòng tin của dân với Đảng là mất tất cả.
Như vậy, Đảng và Chính phủ phải lấy dân làm gốc, phải gắn bó với dân. Nếu không như vậy thì Đảng và Chính phủ sẽ không đủ lực lượng, không đủ trí tuệ, thiếu bệ đỡ về lòng tin, thiếu sự ủng hộ về vật chất, tinh thần, trí tuệ và nhiều khía cạnh khác. Hồ Chí Minh dạy: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì làm việc gì cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(9). “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(10).
Mười một, làm cán bộ là làm cái gì? Làm lãnh đạo là làm gì? Trước đến nay, nhiều người nghĩ đơn giản, làm cán bộ, làm lãnh đạo là ngồi viết chương trình, kế hoạch, tổ chức hội họp, mít tinh, hô khẩu hiệu, huấn thị, giáo dục, thuyết giáo dân chúng... Một loại cán bộ khác như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra: “Họp thì có người ghi, đi thì có người chở, ở thì có người chăm, nằm thì có người bóp”; “chẳng chịu học hành, nghiên cứu gì, về là chỉ thấy đi giao lưu, chè chén, vui vẻ”, đến cơ sở thì có khẩu hiệu “nhiệt liệt chào mừng đồng chí về thăm”(11). Nghĩa là họ nghĩ vào Đảng là để thăng quan phát tài, có thêm danh lợi; làm cán bộ là làm “quan” để cả họ được nhờ. Chúng ta không chỉ sai lầm mà đã sa lầy trong cả nhận thức và hành động về cán bộ và lãnh đạo. Bác Hồ có dạy thế đâu, có làm thế đâu. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “thế mà cứ hô khẩu hiệu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ”. Và vì vậy đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Hãy trở lại với tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Người dạy: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a,b,c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”(12). Người lại dạy: “Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân, Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân. Làm lãnh đạo là làm đày tớ của nhân dân và phải làm cho tốt”(13).
Mười hai, người được cất nhắc lên chức vụ hay được thưởng huân, huy chương có phải người tốt? Trả lời câu hỏi này theo tư duy mới phải hết sức bình tĩnh, hết sức kiềm chế. Nếu vội vàng và theo tư duy thông thường thì đó nhất định phải là người tốt. Có tốt, có thành tích thì mới được cơ cấu nguồn, mới được cất nhắc, bổ nhiệm, được khen thưởng... Nếu thật sự như vậy thì có lẽ đất nước ta không như hiện nay, mà phát triển mạnh hơn nhiều vì cán bộ có chức, có quyền của chúng ta đều là người tốt. Nếu ai được bổ nhiệm, được khen thưởng không qua con đường “chạy”, mua, bán, mà bằng chính đạo đức, năng lực, trí tuệ, bằng cái đầu chứ không phải bằng cái chân của mình thì đó là những người tốt. Nhưng rõ ràng một bộ phận cán bộ được bổ nhiệm lại thuộc loại “thường thường bậc trung”, thiếu tâm, thiếu tầm, thừa khả năng “chạy” thì họ không thể là người tốt. Đó là những bầy sâu, phải được xử lý theo luật pháp hay kỷ luật Đảng.
Tóm lại, đi tìm triết lý phát triển đất nước phải xuất phát từ vai trò, vị trí của người dân với tư cách là chủ; Đảng, Chính phủ và cán bộ, với tư cách là đày tớ phải hết lòng, hết sức, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng và sự hài lòng của nhân dân. Triết lý phát triển đất nước phải xuất phát từ ý thức trách nhiệm của công bộc đối với nhân dân và Tổ quốc.
.................................................................................
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.334.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.337-338.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.168.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.292.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.177.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.361.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.368.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.75.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.335.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.326.
(11) Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên bế mạc Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, ngày 29-2-2012, Tạp chí Cộng sản, số 834, tháng 4-2012.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.670.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.292