Cuộc sống quanh ta

Nguyễn Thượng Hiền phải chăng là người đầu tiên quảng bá thương hiệu Việt Nam?

Nguyễn Công Mai Sơn là tên tự của Nguyễn Thượng Hiền (1868 - ?) người thôn Trù xã Liên Bạt tổng Xà Cầu huyện Sơn Lãng phủ Ứng Hòa Hà Nội (nay thuộc xã Liên Bạt huyện Ứng Hòa thành phố Hà Nội).

Nguyễn Thượng Hiền là một chí sĩ yêu nước, sau khi đỗ Hoàng giáp khoa Nhâm Thìn 1892, ông từ quan sang Trung Quốc, qua Nhật rồi sau đó lại trở về Trung Quốc, hoạt động tích cực ủng hộ phong trào yêu nước ở trong nước. Ông là người viết rất nhiều sách báo chống lại thực dân Pháp và là người có uy tín trong Việt Nam Quang Phục hội. Sinh thời, ông được nhà yêu nước Phan Bội Châu hết sức quý trọng. Ngoài ra Nguyễn Thượng Hiền còn là tác giả của rất nhiều bài thơ phú vịnh cảnh và thể hiện chí hướng của mình như: Thơ đề Trấn Vũ, Thúy Sơn thi lục, Phú hồ Lãng Bạc, Thúy Sơn thi tập, Mai Sơn hợp toản thi tập...

Trong tập thơ chữ Nôm "Hợp quần doanh sinh" (ký hiệu VN 224 - lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội) có ba bài ca "Khuyên đồng bào trong nước làm hàng cho khéo mà dùng với nhau", "Vợ khuyên chồng" và "Hợp quần ca" đến nay đọc lên vẫn thấy bừng bừng cảm xúc, kiêu hãnh về bàn tay khéo léo tài hoa của cha ông, vẫn cảm động khôn nguôi về tấm lòng tha thiết, trăn trở của tác giả với tương lai của giống nòi.

Ở bài "Khuyên đồng bào trong nước làm hàng cho khéo mà dùng với nhau", đầu tiên nhà yêu nước biểu dương các ngành nghề truyền thống của ta bằng 58 câu song thất lục bát với 64 địa danh nổi tiếng trong nước về các nghề thủ công như nghề dệt: vải, vóc, tơ, lụa, lĩnh, the, la, nhiễu, gấm, lượt, sòi...; nghề trạm khảm dùng đồ mỹ nghệ, làm giày dép thêu thùa, nghề làm nón, chiếu, quạt, mũ và vô số nghề rèn đúc tiện, cày bừa, thiếc gang đồng, gốm mộc nề...

"Nước mình còn lắm nghề tinh

So vào nước khác thì mình kém đâu"

Thế mà ông phải xót xa trước thực tại hàng Việt Nam lay lứt không được ngay cả người trong nước ưa dùng. Theo ông đó là do tâm lý của người đương thời:

"Cứ thấy gì là lạ thời mua,

Trăm ngàn người thấy cùng đua" một cách vô ý thức.

Đó là phong trào chuộng hàng hiệu thích sĩ diện dẫn đến những thiệt hại khôn lường:

Việc gì cứ đua chơi của lạ,

Khác gì là tiền thả xuống sông...

Kiếm lỗ hói, đổ lỗ hà,

Tiếng khen lịch sự của nhà sạch không.

Mặt khác ông cũng phân tích sở dĩ hàng nội không được ưa chuộng là bởi vì chất lượng chưa ổn định.

"Khéo ai chẳng chuộng, tốt ai chẳng dung"

Nhất là do thói quen buôn bán manh mún, dễ dàng làm mất đi thương hiệu của thương nhân Việt Nam.

"Thôi đừng giả dối làm chi

Thôi đừng thấy đắt tức thì làm điêu

Đừng thấy bán không tiêu mà hãi

Đừng thấy làm ít lãi mà lơ"

Cuối cùng ông kêu gọi, người tiêu dùng thì:

"Người mua phải biết yêu, biết chuộng,

Để người làm khỏi luống mất công

Yêu nhau mua giúp nhau cùng

Xảy vai xuống gánh cũng không thiệt gì".

Và nhà sản xuất thì: "Cố mà làm cho thấy tinh vi", nếu "Việc công nghệ của ta đà giỏi" thì nhất định.

"Việc bán buôn càng nổi thêm lên,

Buông ra cho khắp mọi miền,

Dần dần ta kéo lợi quyền về ta".

Có thể thừa sức cạnh tranh với hàng Tây, Tàu không ai sợ thất nghiệp, kinh tế nước nhà sẽ chấn hưng.

Sau đây là nguyên văn bài ca chữ Nôm:

Khuyên người nước làm đồ cho khéo để dùng với nhau

Cõi Âu Lạc non sông nung đúc,

Nòi Tiên Rồng gan óc ai tày.

Trí khôn sớm mở những ngày,

Xã kia đua khéo, dân đây đấu tài.

Vải Yên Thái, mực thời Kiêu Kỵ,

Bút bạch liên Tư Thế làm ra.

Gấm Mỗ, lĩnh Bưởi, the La,

Đủ đồ vóc nhiễu hàng hoa kém gì

Lụa Thanh Nghệ rồi thì lụa Nguyễn

Lụa Cổ Đô cho đến Vân Sa(1)

Sài Gòn khéo nhuộn hàng tơ

Nhiễu thời Bình Thuận, lụa là Kim Long

Sa Bình Định dụng công tinh tế

Xứ Kinh thành khéo chế tài hoa

Cơ cầu Kẻ Cót(2) chế ra

Gấm nhiễu Vạn Phúc đà là tay quen

Lượt Phùng xá tiếng khen bậc nhất

Sồi Bồng Lai mới thực bện tơ

Vải dày có tiếng từ xưa

Vải Kinh vải Gối(3) cũng vừa mắt trông

Vải vàng hẹp, vải Long mặc mát,

Vải Quần Anh, Son Cát(4) cũng bền

Vải Bùi, Vải Hiến, vải Kiên

Tây Hồ đã nổi tiếng khen rầm rầm

Sơn Đình Bảng khéo ngâm khéo chế

Thơ tỉnh nam chạm vẽ khéo tay

Phú Vinh chuốt chữ đan gai

Cày bừa Vĩnh Lộc, dép giày Trúc Lâm

Các đồ bạc Đồng Xuân(5).khéo sửa

Thợ kim hoàn thời ở Định Công

Thợ rèn, thợ thiếc lắm dòng

Thơ sang Đông Xuất, thợ đồng Cầu Nôm(7)

Lai Xá (1) kết đồ rơm khéo này

Giọt vàng quỳ Cầu Cậy(8) nghề quen

Liễu Tràng khắc chữ bản in

Nhị Khê thợ tiện làm nên đủ đồ.

Bát Tràng vẫn làm lò đúc bát

Nồi chĩnh vung Canh Cát làm ra

Kiệu(9) vò Đàm, vại Thổ Hà

Đồ sành Bố Chánh màu da cũng tàu

Nồi Thanh Hóa đẹp màu nhất hạng

Chậu cảnh hoa, Phù Lãng(10) đà xinh

Nón Than(11), nón Guột(12) cũng xinh cũng bền

Chiếu đậu Hải(13) dày miền nhỏ cói,

Chiếu Kim Sơn, Bồng Hải cài hoa

Đồ sừng Thụy Ứng(14) làm ra

Thêu thời thợ (chữ không rõ) khảm là thợ Chuyên(15)

Quạt hoa trúc tiếng đông Cam Lộ

Quạt Đại Đồng quạt liễu, quạt lau

Quạt Thanh quạt lúa cùng màu

Quạt lông Kim Động còn đâu đẹp bằng

Thợ nề khéo đồn rằng thợ Cống

Kẻ Cung Minh thợ mộc có danh

Nước mình còn lắm nghề tinh

So vào nước khác thì mình kém đâu

Vì đồ khác theo nhau kiểu cách

Lợi của mình thời lại phải tranh

Nào là đồ sứ thủy tinh

Nào là nhung lụa, sa tanh hàng Tàu

Nào lục soạn, chúc bàu, cát bố

Cứ thấy gì là lạ thời mua

Trăm ngàn người thấy cùng đua

Của mình đâu nhẽ, không thua của người.

Bây giờ phải đua tài làm tốt

Ngày khéo ra nay một mai mười

Vừa mắt ta, vừa mắt người

Khéo ai chẳng chuộng, tốt ai chẳng dùng

Kìa mũ Vẽ, nón Chuông lịch sự

Nọ đồ mây, lắm thứ hoa văn

Đồi mồi, vàng bạc, ngọc ngà

Đồ thêu đồ thảm tiếng ra nước ngoài

Nếu cả nước ai ai cũng cố

Ai dại gì tiền đổ đi đâu

Chắc rằng mua lại của nhau

Nhẽ đâu phải dụng của Tàu của Tây

Xin ai đó nghề hay cũng vậy

Cố mà làm cho thấy tinh vi

Thôi đừng giả dối làm chi

Thôi đừng thấy đắt tức thì làm điêu

Đừng thấy bán không tiêu mà hãi

Đừng thấy làm ít lãi mà lơi

Hễ là nước ít người chơi

Ngày ngày kẻ khéo người tài nảy ra

Việc công nghệ của ta đà giỏi

Việc bán buôn càng nổi thêm lên

Buông ra cho khắp mọi miền

Dần dần ta kéo lợi quyền của ta

Trước ích nhà sau là ích nước

Đà lợi riêng mà được lợi chung

Trăm nghề phát đạt đùng đùng

Lo gì thất nghiệp vô công đến nghèo

Người mua phải biết yêu biết chuộng

Để người làm khỏi luống mất công

Yêu nhau mua giúp nhau cùng

Xảy vai xuống gánh, cũng không thiệt gì

Còn hơn của đưa đi hàng khác

Để hàng mình như nhác kêu ca

Xấu xa ta dụng của ta

Tuy rằng tốt đẹp vẫn ra của người

Việc gì cứ đua chơi của lạ

Khác gì là tiền thả xuống sông

Một một ngày mất một đồng

Chén dò mãi mãi quyết không thu về

Ruồng rẫy lắm đi thuê đi mướn

Được đồng nào huyễn tướng mới ra

Kiếm lỗ hói đổ lỗ hà

Tiếng khen lịch sự của nhà sạch không

Sao bằng của ta cùng trao đổi

Anh cũng có em cùng giàn

Máu đào Hồng Lạc còn lâu còn dài

Ai công nghệ mà mua ai bán

Xin nhớ câu: nước cạn cá khô

Lợi mình chớ để người thu

Thóc mình chớ để ném cho gà người.

Chú thích:

(1) Vân Sa: làng dệt ở Ba Vì Hà Tây.

(2) Cót: tức Yên Quyết.

(3) Gối: tức Tân Hội, Đan Phượng.

(4) Son Cát: tức xã Thọ Khang thuộc Hưng Yên.

(5) Đồng Xàm: tức Tiền Hải, Thái Bình.

(6) Cầu Nôm: tức xã Đồng Mai, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương.

(7) Lai Xá: thuộc Đan Phương, Hà Tây.

(8) Cầu Cậy: tên Nôm của Kiêu Kỵ.

(9) Kiệu: một loại tiểu sành.

(10) Phù Lãng: tức Quế Võ, Bắc Ninh.

(11) Than: tức Ngọc Than, Thanh Oai.

(12) Guột: thuộc Phú Xuyên, Hà Tây.

(13) Hải: Hải Hậu.

(14) Thụy Ứng: thuộc Thường Tín.

(15) Chuyên: tức Chuyên Mỹ, Phú Xuyên./.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.461-470
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574489

Hôm nay

287

Hôm qua

2317

Tuần này

22035

Tháng này

221546

Tháng qua

130677

Tất cả

114574489