Trường hợp Phạm Quỳnh, Vấn đề Phạm Quỳnh, hay Vụ án Phạm Quỳnh, hoặc nhiều cụm từ khác dành cho Thượng Chi tiên sinh đã được bàn thảo trong khoảng co duỗi hơn nửa thế kỷ nay, vượt hẳn phạm vi trong nước để sang Tây Âu và tới cả Bắc Mỹ.
Trường hợp Phạm Quỳnh, Vấn đề Phạm Quỳnh, hay Vụ án Phạm Quỳnh, hoặc nhiều cụm từ khác dành cho Thượng Chi tiên sinh đã được bàn thảo trong khoảng co duỗi hơn nửa thế kỷ nay, vượt hẳn phạm vi trong nước để sang Tây Âu và tới cả Bắc Mỹ.
Nhân vật lịch sử Phạm Quỳnh đã tốn nhiều giấy mực của công luận và sẽ còn tốn thêm nữa trong tương lai. Trong bài viết nhỏ này, tôi chỉ muốn góp thêm tư liệu về ngày ra đi của Phạm Quỳnh năm 1945 trên cơ sở báo chí đương thời.
“CÁI CHẾT CỦA PHẠM QUỲNH” TỪ GÓC NHÌN NGƯỜI TRONG CUỘC
Báo Năng lượng mới đã dành 6 số liên tục (từ số 204 đến số 209) đăng thiên phóng sự tư liệu dài kỳ của nhà báo Xuân Ba về Nhà văn hóa Phạm Quỳnh: “Đương tỏ dần góc khuất một gia tộc”. Kỳ thứ 5 (Năng lượng mới, số 208, ra ngày Thứ Sáu, 29-3-2013) – theo tôi, đó cũng là điểm mấu chốt nhất: “Cái chết của Phạm Quỳnh”.
Tác giả Xuân Ba viết: “Có không ít tư liệu lẫn sự đồn thổi về cái chết của nhà văn hóa Phạm Quỳnh rằng, ông bị cách mạng xử án tử hình (!?). Có hẳn cả một phiên tòa! Ngay cuốn “Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX”, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: “Đến Cách mạng Tháng Tám 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình!”
Từ góc nhìn của mình, Xuân Ba ghi lại lời kể của GS Văn Tạo – nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam về cái chết của Phạm Quỳnh như sau: “Gần đây vẫn có người cho rằng, vì ông (Phạm Quỳnh – KMS) phản động nên Việt Minh đã thủ tiêu ông? Với những tài liệu mà tôi (Văn Tạo – KMS) có được thì thấy thực không hẳn là thế!”.
Vị nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam cho biết, sau khởi nghĩa Huế thì Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và con trai Ngô Đình Khôi được nhóm du kích áp tải trên một chiếc xe ọc ạch. “Chẳng may nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì ở trên đầu, tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích nên các bố du kích nhà ta hoảng quá, thần hồn nát thần tính, sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên đã tự động thủ tiêu cả 3 người mà không chờ chỉ thị của cấp trên!”.
Từ góc nhìn của mình, tôi thấy Hồi ký của các nhân chứng lịch sử ở Huế năm 1945 viết việc đi bắt Phạm Quỳnh và cái chết của ông chủ bút báo Nam Phong khác hẳn.
Về việc bắt Phạm Quỳnh, trong bài “Chiếm thành Huế” do Tố Hữu (1920-2002) – Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên Huế kể cho Tô Hoài ghi, được đăng trên Đặc san Cứu quốc (8-1946, trang 31), có đoạn: “Mười hai giờ rưỡi, một chiếc ô tô lớn đi về phía Hương Cựu đỗ trước ấp Hoa Đường. Một người thanh niên mặc áo the, khăn đóng chỉnh tề bước vào trong dinh Phạm Quỳnh. Vào khỏi ngõ, người thanh niên cởi áo dài, lộ dưới ngực một dấu hiệu sao vàng nền đỏ và một khẩu súng sáu giắt bên dây lưng.
Hai cụ và con cái đương ăn cơm. Ngó thấy cái miệng súng sáu, lão biến sắc, run đứng lên không được. Lão bị điệu ra xe, chở đi. Ngay lập tức vợ con lão được mời xuống đường cái. Bao nhiêu đồ đạc trong gia đình niêm phong hết lại. Và cách mạng quân bắt đầu gác”.
Nguyên Phó Thủ tướng Hoàng Anh (1912), Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời tỉnh Thừa Thiên (8-1945), trong Hồi ký của mình cho biết: Việc bắt Phạm Quỳnh là quyết định của tập thể đã được bàn bạc rất kỹ lưỡng trong Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế. Đồng thời, việc bắt Phạm Quỳnh và các nhân vật khác là “theo danh sách được duyệt” của tập thể gồm đoàn cán bộ của Trung ương và Ủy ban Khởi nghĩa Huế như Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Duy Trinh, Tố Hữu... : “Đoàn đi giành chính quyền trong Thành cổ Huế (riêng Đại Nội chưa động đến) lần lượt tiếp nhận hết cơ quan này đến cơ quan khác, phải làm việc liên tục từ 5 giờ sáng đến 7 giờ chiều mới tiếp nhận hết các nơi (…) Những tên Việt gian nguy hiểm đã được bắt gọn theo danh sách được duyệt trong đó có Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân… (Hoàng Anh - Hồi ký “Quê hương và Cách mạng, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1990, tr. 159).
Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Văn Ngọc (1908-1999), người từng làm Giám đốc Nha Công an Trung Bộ ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 viết trong Hồi ký: “Từ điệp viên nhảy dù đến Giám đốc Nha Công an Trung Bộ” (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1988, tr. 198), cũng nhắc đến việc sau khi khởi nghĩa, nhân dân đã bắt xử Phạm Quỳnh.
GÓP THÊM TƯ LIỆU VỀ “NGÀY RA ĐI” CỦA PHẠM QUỲNH
Trong bài “Người nặng lòng với nước” của tác giả Phạm Tôn (Tạp chí Xưa & Nay, số 267, tháng 9-2006) cho biết: Tháng 2 năm 1956, nhân gia đình Ngô Đình Diệm cho người đi tìm và cải táng cha con Ngô Đình Khôi, ông Phạm Tuân, con út và bà Phạm Thị Hảo đi theo để nhận di hài cha. Chuyến này “do gặp nhiều nhân chứng còn sống” nên đã biết thêm nhiều điều (sau 11 năm – KMS): “Theo các nhân chứng chứng kiến vụ sát hại (Phạm Quỳnh – KMS) thì sự việc diễn ra vào đêm trăng non mồng một tháng tám năm Ất Dậu, tức ngày 6-9-1945, chỉ sau ngày nước ta tuyên bố độc lập có bốn ngày”.
Ngay sau đó một tháng, cũng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 269, tháng 10, tác giả Nhật Hoa Khanh có bài: “Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông”. Trong bài, Nhật Hoa Khanh công bố tư liệu là “hai tờ báo khổ nhỏ phát hành hẹp tại Huế năm 1945. Đó là nhật báo Quyết Chiến khổ A3, mỗi số 2 trang, là “Cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân Cách mạng Huế”. Số 88, ra ngày thứ tư, 5-12-1945 có đăng bản tin: “Ba tên Việt Gian tối nguy hiểm Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân đã bị Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương kết án tử hình và bị bắn ngay trong thời kỳ thiết quân luật. Tài sản và vật dụng của ba tên phản quốc ấy đều bị tịch thu và quốc hữu hóa”... Cuối bản thông báo, chỉ ghi “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương”, mà không có ai đứng tên thay mặt ký cả”.
Có lẽ, căn cứ theo bài viết của Phạm Tôn 2 số báo trước đó (số 267), viết về ngày ra đi của Phạm Quỳnh là “mồng một tháng tám năm Ất Dậu, tức ngày 6-9-1945”mà trong lời tòa soạn in chữ đậm, cỡ lớn, Tạp chí Xưa & Naynhấn mạnh: “Ở đây vẫn còn một điểm nghi vấn. Đó là hai bài báo được viết vào tháng 12-1945, bốn tháng sau khi Phạm Quỳnh đã bị hành quyết, như vậy để nhằm mục đích gì?”
Câu trả lời của đoạn in đậm (sapo) trên Tạp chí Xưa & Nay là nội dung chính trong bài viết này của tôi. Bằng tư liệu trên Báo chí đương thời: “ngày ra đi” của Phạm Quỳnh không phải là ngày 6-9-1945.
Lật giở báo chí trong nước thời điểm 2 năm 1945-1946 hiện còn lưu trữ, tôi thấy có một số tờ báo viết về Vụ án Phạm Quỳnh và cái chết của học giả này.
Tuần báo Việt Nam hồn, do Lê Văn Trương làm Chủ nhiệm, trụ sở đóng tại số 10 Phố Huế – Hà Nội; tuần báo Tân thế kỷ, trụ sở tại 64 Hàng Trống – Hà Nội, Chủ nhiệm Trần An Cẩn, Chủ bút Nguyễn Đức Chính và tờ Hà Nội mới, tuần báo văn chương và tranh đấu, tòa soạn 15 Nhà Chung – Hà Nội, Chủ nhiệm Lê Ngọc Vũ, đều có đăng về “Vụ án Phạm Quỳnh”.
Tuần báo Tân thế kỷ, số 7, ra ngày 26-12-1945 đăng bài “Để trả lời những ai thương tiếc Phạm Quỳnh” của Thành Sơn, mở đầu, tác giả viết:
“Ủy ban Nhân dân Trung Bộ mới thông cáo cho quốc dân biết rằng Tòa án Quân sự Thuận Hóa họp ngay sau khi thành lập chính quyền nhân dân, đã khép Phạm Quỳnh vào tội phản quốc và kết án tử hình. Bản án ấy đã thi hành trong thời kỳ thiết quân luật”.
Nội dung của tuần báo Tân thế kỷ trùng với 2 tờ tuần báo Quyết Chiến (bản lưu tại Thư viện Quốc gia – 31 Tràng Thi, Hà Nội, ký hiệu: JO. 545) và Quyết Thắng (bản lưu tại Thư viện Quốc gia – 31 Tràng Thi, Hà Nội, ký hiệu: JO. 520.
Sự việc được viết rõ ràng hơn là trong bài “Vụ án Phạm Quỳnh”, tác giả Hồng Lam, mục “Trước lịch sử và dư luận”, số 6-1946, báo Hà Nội mới:
“Một buổi sáng mùa đông về tháng 11 năm 1945, giời mới tinh sương, gầm giời rất thấp, phong cảnh sông Hương núi Ngự mà Quỳnh đã dùng ngọn bút tài hoa của mình bao lâu ca ngợi cái vẻ đẹp thiên nhiên êm dịu, hôm đó dường như rất lãnh đạm nghiêm khắc với y. Quỳnh bị giải từ nhà lao ra pháp trường, một bãi cỏ trên bờ sông Hương.
Vì trong lúc còn thiết quân luật, nên hôm đó người qua lại rất thưa thớt, người xem không có mấy. Sau một loạt súng xé tan cảnh tịch mịch buổi sáng, Quỳnh đã ngã gục đầu, nhưng vẫn quỳ trên bãi cỏ, tóc rũ rượi, mắt nhắm nghiền...
Sau khi chết, Quỳnh vẫn cúi đầu chịu tội trước quốc dân trong mấy phút rồi thi thể mới được mang đi.
Đến lúc này thì nào đâu là công danh phú quý, vợ đẹp con khôn, nào đâu là mũ cánh chuồn, cân đai “bối tử”, nào đâu là phẩm phục, áo đại hồng...
Công hầu khanh tướng trăm năm trắng/ Phú quý vinh hoa một giấc vàng.
Cái đời khanh tướng của Quỳnh là một giấc mộng, giấc mộng đó đã kết liễu bằng một cái chết nhơ nhuốc, nhục nhã, cái chết mà ô danh còn để lại ngàn năm, không những cho riêng mình Quỳnh, mà cho cả họ Phạm làng Hoa Đường mà Quỳnh vẫn tự xưng là dòng giõi.
Ôi, một đời tài hoa lỗi lạc như Quỳnh, ngờ đâu đã kết liễu đến thế!”./.
2268
2317
22216
221727
130677
114574670