Xin nêu một ví dụ về tầm quan trọng của việc nghiên cứu và công bố quốc tế của các công trình khoa học của chúng ta về khảo cổ, lịch sử, địa lý, địa chất, khoáng sản, thềm lục địa, hệ sinh thái, năng lượng, kinh tế, du lịch, hải phận, luật quốc tế,... liên quan đến biển Đông, nói riêng là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vấn đề mà chúng ta cần đặc biệt lưu ý là có những nước có ý đồ chiến lược rõ ràng và dài hạn trong việc đào tạo, nghiên cứu khoa học ở trong nước, cử lưu học sinh, nghiên cứu sinh và các nhà khoa học đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài, nhất là trong những lĩnh vực khoa học, kỹ thuật hiện đại, như khoa học cơ bản mũi nhọn, công nghệ cao, năng lượng, nguyên tử, vũ trụ, hải dương học, địa chất, địa lý,... và cả trong những ngành khoa học xã hội quan trọng, như khảo cổ, lịch sử, luật quốc tế về biển đảo,... Đã từ hơn 30 năm nay các nước này liên tục cử lưu học sinh, nghiên cứu sinh và các nhà khoa học đi châu Âu và Bắc Mỹ, đến học tập và nghiên cứu ngắn hạn hoặc lâu dài tại Đại học Harvard, MIT, Oxford, Cambridge, Paris,... để nghiên cứu và tìm "tài liệu", viết các công trình công bố trên các tạp chí quốc tế, cố chứng minh "chủ quyền" của họ ở biển Đông. Như vậy, sự chuẩn bị tranh chấp của họ trên biển Đông đã được tiến hành từ lâu theo một ý đồ chiến lược và bài bản về cả "phần cứng" (vũ khí) và "phần mềm" (tài liệu, thông tin, tuyên truyền). Gần đây một số nhà khoa học
Việt Nam ở trong và ngoài nước đã phối hợp rất tốt để kiến nghị ban biên tập một vài tạp chí khoa học quốc tế đính chính những thông tin và công bố không chính xác của một vài học giả nước ngoài về chủ quyền biển đảo của nước ta. Và chúng ta đã
thành công.
Để minh hoạ, tôi xin trích một đoạn trong bài trả lời phỏng vấnvề biển Đông của Luật sư Hoàng Ngọc Giao, nguyên Phó Vụ trưởng của Ban Biên giới Chính phủ, do Phóng viên Phương Thủy thực hiện trên báo Lao động số 125, ngày 03/6/2011:
“Tôi cho rằng, trong câu chuyện biển Đông, Việt Nam cần theo đuổi hai mục tiêu chính: Đó là chủ quyền biển đảo với Trường Sa, Hoàng Sa và có thái độ kiên quyết với việc Trung Quốc coi biển Đông là “vùng nước lịch sử”. Quan điểm của tôi là chúng ta phải thể hiện rõ lập trường đến Liên hợp quốc (LHQ). Cần có những khuyến cáo, phản đối đến LHQ dù mang tính đơn phương nhưng phải để cho thế giới biết tiếng nói của Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta cần phải có những nghiên cứu học thuật, pháp lý mang tính chuyên nghiệp và có báo cáo về tư vấn pháp lý liên quan đến vấn đề biển Đông. Đó sẽ là một tài liệu pháp lý quan trọng để thể hiện rõ các yêu sách của chúng ta là lẽ phải, là đúng luật pháp. Chính phủ Việt Nam cần tạo điều kiện để các học giả, các nhà nghiên cứu có nhiều cơ hội công bố nghiên cứu, giao lưu với các học giả trong khu vực”.
Chúng ta rất cần có sự chuẩn bị chiến lược về quân sự, ngoại giao, kinh tế và khoa học trên mọi diễn đàn trong nước và quốc tế để bảo vệ và gìn giữ an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước CHXHCN Việt Nam. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của các nhà khoa học Việt Nam trong việc này để thấy nghiên cứu khoa học và các công bố quốc tế không chỉ cần thiết và quan trọng về mặt học thuật mà còn cả trong việc bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia.
Vua Lê Thánh Tông (1442-1497) là một vị vua giỏi trị nước, nhà văn hoá, nhà thơ nổi tiếng. Sinh thời vua Lê Thánh Tông luôn kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới của nhà Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và thường răn dạy quần thần: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại mà làm mồi cho giặc thì kẻ đó sẽ bị trừng trị nặng”. Cũng đã có một khảo dị, một phiên bản của lời răn dạy này đầy tính thơ như sau: “Kẻ nào để mất một tấc đất của Tổ quốc, kẻ đó có tội với non sông”. Quan điểm này cũng là ý chí của toàn dân Việt, đã được chứng minh trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước. Tiêu biểu là lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát ra vào sáng ngày 20/12/1946: “Không! Chúng ta thà hysinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. (Ý của đoạn này lấy từ http://www.baomoi.com/Mot-thuoc-nui-mot-tac-song-cung-la-To-quoc/137/3146334.epi).
Mọi công dân đều có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng “hiền tài” và “nguyên khí quốc gia” thì có trách nhiệm và nghĩa vụ lớn hơn và thường được kỳ vọng sẽ đóng góp nhiều hơn, cao cả hơn. Vả lại điều này cũng đúng ngay cả trong một gia đình theo nghĩa hẹp, bố mẹ thường kỳ vọng nhiều hơn vào những đứa con dũng cảm, giỏi giang và thành đạt của mình và cũng chính những đứa con này có trách nhiệm cao hơn và khả năng nhiều hơn để lo cho bố mẹ, anh em và gia đình. Ngay trong những năm chống Mỹ cứu nước đã có những ví dụ điển hình: Một gia đình nọ có hai con trai nhập ngũ, đứa đầu học xong cấp II rồi trở thành chiến sĩ bộ binh dũng cảm, đứa sau học xong đại học bách khoa rồi trở thành sĩ quan, chuyên gia về máy bay, ra-đa và tên lửa. Người được học nhiều hơn thì phạm vi và hiệu quả cống hiến thường cao hơn.
Mọi người đều biết sang thế kỷ XXI biển đảo là nguồn năng lượng, thực phẩm, giao thông, kinh tế, quốc phòng,...vô tận và quan trọng. Nước nào có biển rộng, nước đó có lợi thế về nhiều mặt. Đó cũng chính là lý do thường xảy ra tranh chấp và lấn chiếm biển đảo giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Tôi có đọc một tài liệu do GS. Phan Huy Lê, ĐH Quốc gia HN, Chủ tịch Hội các khoa học lịch sử Việt Nam, viết, trong đó Ông dẫn ra một khái niệm, một chỉ số I (index) rất thú vị và quan trọng do một nhà khoa học Pháp đề xuất, đó là đối với mỗi nước trên thế giới, lấy chiều dài bờ biển L chia cho diện tích S của nước đó và được chỉ số I (I =
). Với một số nước I = 0, nhưng với một số nước khác I rất lớn. Kết luận: Nhìn chung khi I càng lớn thì "vận hội" của quốc gia đó càng lớn. Thế là nhiều nước tranh chấp để cực đại hoá
chỉ số I, trong khi vẫn muốn tăng cả L lẫn S. Sau này tôi "lạm dụng" chỉ số này
đem áp dụng cho cả các tỉnh thành (và cả đến cấp huyện) ở Việt Nam để
thấy “vận hội” lớn hơn của các tỉnh/thành phố có biển và đảo so với các tỉnh/thành phố khác.
Có thể nói một cách hóm hỉnh: Ở Việt Nam nhà nào có mặt tiền nhìn ra phố từ trên 3 m đã là quý để buôn bán. Trong khi nước ta có tới 3260 km bờ biển nhìn ra biển Đông, một "mặt tiền" dài và quý như vậy do cha ông để lại, nếu con cháu không quyết giữ được toàn vẹn để sử dụng thì thật là đáng trách và thua thiệt. Mấy năm trước đây, TS. Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng Chính phủ, và gần đây TS. Trần Du Lịch, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế TP. HCM, đã nói đến khái niệm “mặt tiền” này. Trong bài “Phát triển kinh tế biển Việt Nam: Cần một tư duy đột phá” trên báo Tuổi trẻ ra ngày 09/6/2011, hai tác giả Nguyễn Triều - Văn Kỳ cho biết: Nước ta có vùng biển chủ quyền rộng khoảng 1 triệu km2, trung bình cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển, tỉ lệ 1%, gấp 6 lần mức bình quân của thế giới; có 2779 đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 1636 km2; tổng trữ lượng dầu khí toàn thềm lục địa tương đương khoảng
10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khí đồng hành 250-300 tỷ m3; trữ lượng hải sản khoảng 3-3,5 triệu tấn. TS. Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo VN, nói rất hay và khoa học rằng “Biển phải được quản lý theo không gian ba chiều, bởi tài nguyên biển phân tầng ở trên mặt nước, mặt bằng dưới đáy biển và ở tầng sâu dưới thềm lục địa” và rằng cần phải chú ý cả đến “mảng không gian biển, giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái”. Bài báo cũng đã đề cập đến tiềm năng và vai trò to lớn của biển đảo đối với giao thông vận tải, du lịch,... nhưng vẫn chưa thấy bàn về biển với tư cách nguồn năng lượng tiềm tàng trong tương lai (không chỉ kể đến dầu và khí), đó là điều chúng ta cần quan tâm nghiên cứu./.
Nguồn: Về giáo dục và đào tạo, đôi điều ghi lại. Nxb Giáo dục Việt Nam. Hà nội 2012