LTS: Đối tác chiến lược vẫn là cái đích phía trước, tuy cả hai bên còn phải vượt qua một số trở lực để đi tới, vì lợi ích mỗi nước, vì hòa bình, ổn định và phồn vinh khu vực.
LTS: Đối tác chiến lược vẫn là cái đích phía trước, tuy cả hai bên còn phải vượt qua một số trở lực để đi tới, vì lợi ích mỗi nước, vì hòa bình, ổn định và phồn vinh khu vực.
Ngày 25/7 tới, Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ tiếp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng, Washington, D.C. Đó là nội dung nổi bật trong tuyên bố của Thư ký Báo chí Nhà Trắng về chuyến thăm Hoa Kỳ cuối tháng Bảy của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tuần qua vừa phát đi tin này trên trang Web của mình. Trả lời phỏng vấn truyền thông quốc tế hôm 12/7, TS. Lê Đăng Doanh, chuyên gia cao cấp từ Viện Quản lý Kinh tế TW cho biết: “Tổng thống Obama đã đề nghị Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ và tôi hy vọng kỳ này hai bên có thể tăng cường mối quan hệ ấy và nâng cao tầm hợp tác lên đối tác chiến lược”.
Những tháng Bảy lịch sử
Đây sẽ là cuộc viếng thăm chính thức nên chắc chắn hai bên đã đồng ý về nguyên tắc những gì sẽ ký kết ở tầm quốc gia và ở những mức độ thấp hơn, kể cả các hợp đồng đầu tư và buôn bán. Các nhà quan sát không loại trừ khả năng Tổng thống Barack Obama sẽ có chuyến thăm đáp lễ tới Việt Nam trước khi ông kết thúc nhiệm kỳ. Như vậy có thể thấy quan hệ theo kiểu “có đi có lại mới toại lòng nhau” giữa Hà Nội và Washington vẫn đang ấm áp lên bất chấp những “cái gai” nhân quyền. Người đứng đầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hiện nay, ông John Kerry là cựu binh cuộc chiến cùng với một cựu binh khác và giờ là Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, được cho là thuộc nhóm “bồ câu”, thay vì “diều hâu”, trong cách nhìn của Việt Nam.
Tổng thống Obama sẽ thảo luận với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang làm thế nào để củng cố hơn nữa quan hệ đối tác giữa hai nước trong các vấn đề chiến lược ở khu vực và tăng cường hợp tác với ASEAN. Đây là chuyến thăm lần thứ hai của Chủ tịch nước Việt Nam tới Mỹ. Tháng 6/2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã có chuyến thăm Washington dưới thời Tổng thống George W. Bush. Như vậy là thêm một tháng Bảy nữa – tháng Bảy 2013 có thể được ghi vào đại sử ký như một mốc mới trong bang giao giữa hai cựu thù? Sau 20 năm “giã từ vũ khí”, hai nước lấy 12/7/1995 làm ngày bình thường hóa quan hệ. Từ đấy đến nay 18 năm nữa đã trôi qua…
Tháng 7 năm ngoái, Ngoại trưởng Hilary Clinton thăm chính thức Việt Nam. Từng là đệ nhất phu nhân và rất có thể sẽ là ứng viên tổng thống trong tranh cử năm 2016, tiếng nói của bà trong các hội nghị quốc tế có ý nghĩa quan trọng. 12/7/2012, bà Clinton đã đánh giá cao sự đóng góp của Việt Nam vào việc giải quyết tranh chấp và giảm căng thẳng trên Biển Đông một cách hoà bình. Và 12/7/2013 này, đúng 18 năm sau ngày Tổng thống Clinton và Thủ tướng Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ, tin về chuyến thăm Washington của chủ tịch nước Việt Nam thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Các báo lớn khu vực và thế giới đều có các phân tích và bình luận, đồng thời “tung ra” nhiều dự báo cả bi quan lẫn lạc quan.
Dư luận so sánh lãnh đạo Việt Nam thăm viếng Trung Quốc thường xuyên hơn và quan hệ kinh tế Việt-Trung cũng đáng kể hơn (tất nhiên là nhìn về lượng) so với Việt-Mỹ, bất chấp các căng thẳng trên Biển Đông. Nhìn xa vào lịch sử, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, 12 năm sau cuộc chiến Biên giới 1979 và chỉ ba năm sau hải chiến Trường Sa, trong đó Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma từ Việt Nam. Trong khi đó, Hà Nội và Washington chính thức nối lại quan hệ 22 năm sau khi Hoa Kỳ ngừng tham chiến ở Việt Nam (tính từ 1973). Nếu thu quan hệ của Hà Nội với Bắc Kinh và Washington về chiếc kiềng ba chân (kinh tế, quốc phòng và nhân quyền), có thể thấy các chân kiềng này luôn khập khiễng.
Theo Thư ký Báo chí Nhà Trắng, Tổng Thống Obama trông đợi thảo luận hàng loạt lĩnh vực song/đa phương như vấn đề nhân quyền, tầm quan trọng của việc hoàn tất Hiệp định TPP và các thách thức phát sinh như biến đổi khí hậu. Nhân quyền là nội dung quan trọng nhưng không thể nào là yếu tố áp đảo các quan hệ khác. Trong một trao đổi mới đây, đại sứ Mỹ tại Hà Nội David Shear thừa nhận : “Cả Việt Nam lẫn Mỹ đều đòi hỏi nhau khá nhiều nên quá trình đàm phán TPP rất thách thức…”. Ông đại sứ cũng công khai bày tỏ: “Nếu như hai bên muốn có các quan hệ chặt chẽ hơn... thì phải hiểu rằng, các nỗ lực ấy không thể giành được ủng hộ chính trị từ phía người dân Mỹ nếu không có các tiến bộ về nhân quyền ở Việt Nam”.
Lợi ích kinh tế và chiến lược
Các nhà phân tích cho rằng, Chủ tịch Trương Tấn Sang trông đợi Tổng thống Obama đồng ý để ngành công nghiệp dệt may đang nở rộ của Việt Nam tiếp cận nhiều hơn với thị trường Mỹ, vốn là điều kiện chủ yếu để Hà Nội chấp thuận với một số điều khoản khác trong TPP. Một số đối tác đang thương lượng muốn Mỹ cân nhắc kỹ lưỡng hơn về việc này vì cho rằng Việt Nam cần sắp xếp lại một số luật lệ mới và phương thức giao tiếp thương mại với các thành viên trong khối. Washington muốn Việt Nam cam kết tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ có thể cạnh tranh công bằng với các doanh nhiệp nhà nước của Việt Nam. Mỹ cũng muốn Việt Nam nỗ lực hơn nữa trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Đề tài nổi bật khác sẽ được đề cập trong các cuộc hội đàm là vấn đề biển Đông. Hai bên tán thành những nỗ lực giữa ASEAN với Trung Quốc để tiến tới bộ Quy tắc ứng xử COC mang tính ràng buộc pháp lý. Theo GS. Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc, “Hoa Kỳ nên xem xét cách thức hỗ trợ Việt Nam nâng cao công tác tuần tra biển như bán cho Việt Nam kỹ thuật radar biển, hỗ trợ công tác tuần tra biển trên không và phát huy hợp tác giữa lực lượng tuần duyên Mỹ với cảnh sát biển Việt Nam”. Tuy nhiên, các phân tích gia từ Viện nghiên cứu CSIS cho rằng, còn một vài ý kiến ngần ngại từ phía Việt Nam không muốn tăng tốc quá nhanh trong mối quan hệ với Hoa Kỳ vì e làm Trung Quốc khó chịu.
Tại chuyến thăm này, đối tác chiến lược vẫn là cái đích phía trước, tuy cả hai bên còn phải vượt qua một số trở lực để đi tới, vì lợi ích mỗi nước, vì hòa bình, ổn định và phồn vinh khu vực. Theo GS Nguyễn Mạnh Hùng từ Đại học George Mason (Hoa Kỳ), có một số nguyên tắc để hình thành lên quan hệ đối tác chiến lược. “Một trong những nguyên tắc ấy là sự tin cậy lẫn nhau. Mà muốn tin cậy lẫn nhau thì phải có những giá trị tương đồng. Trong giới quan sát, có ý kiến cho rằng Việt Nam và Mỹ chưa có cái này, giữa hai nước vẫn còn cái hố cần san bằng”. Nếu các cuộc hội đàm tại Mỹ của Chủ tịch nước lần này đưa ra được phương hướng cải thiện tình hình thì có thể mở đường cho một mối quan hệ đối tác mới.
GS. Hùng là người theo dõi quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong nhiều năm nay nói hiện giờ chưa phải là thời điểm mà Hoa Kỳ có thể giảm nhẹ tầm quan trọng của nhân quyền để tăng cường quan hệ kinh tế, quốc phòng với Hà Nội. Ông Hùng so sánh Việt Nam với những đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ như Ai Cập hay Arab Saudi và đưa ra nhận xét, Việt Nam không quan trọng bằng các đối tác Trung Đông ấy của Mỹ, kể cả về mặt địa-chính trị và khả năng chiến lược. Vì vậy, Hà Nội khó có thể mong đợi Washington lờ đi vấn đề quyền con người. Giáo sư Hùng cũng nói quyền con người trở nên quan trọng hơn nhiều sau khi Hoa Kỳ đã trở thành nước có ảnh hưởng trên thế giới (thay vì phải chia sẻ với Liên Xô như trước đây).
Còn GS Jonathan London từ đại học Hongkong thì nhận xét, chuyến thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ tăng khả năng tiếp cận thị trường và thu hút thêm đầu tư của Mỹ vào Việt Nam. “Quan hệ sâu rộng hơn với Mỹ sẽ giúp giải quyết một số khó khăn về kinh tế và giải tỏa bớt áp lực trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ”. Theo GS. Thayer, chuyến đi này là một nỗ lực mới nhằm có được thỏa thuận về hợp tác chiến lược. “Thành công đến đâu, tùy thuộc vào quyết tâm từ cả hai phía. Mỹ có quyền lợi trong chiến lược toàn cầu, Việt Nam có nhu cầu của mình”. Chuyến đi của ông Trương Tấn Sang sẽ mở sang một trang sử mới về bang giao, hay chỉ là một chuyến thăm thông thường, dư luận sẽ biết rõ hơn từ thông cáo chung ngày 25/7 này./.
Bản tác giả gửi VHNA
2268
2317
22216
221727
130677
114574670