Cuộc sống quanh ta

Hai mươi mốt ngày theo chân Bác Giáp

 

Một ngày tháng 3 lịch tây nhằm vào tháng 2 của năm 1992, Tôi theo đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Bình lên đỉnh đèo Ngang đón đại tướng Võ Nguyên Giáp và gia đình về thăm quê. 

Với miền trung, bước sang hạ tuần tháng hai là đã hây hây gió nam sớm, lúa lên đòng, ngàn lau , ngàn mai hoang dại của Hoành Sơn đang tàn. Đường lên đỉnh đèo Ngang quanh co, hoa mua nở tím ngắt báo hiệu chớm hè. Đây không phải là lần đầu tiên tôi có cơ hội gặp vị đại tướng lừng danh, lại là người “đồng hương Kiến Giang”. Ba mươi ba năm trước đó, đầu hè năm 1959, tôi đã có dịp “gặp” ông, chạy theo ông trên đôi chân trẻ  thơ. Hồi ấy, mới năm năm sau ngày ký Hiệp định Giơnevơ, khắp nơi âm vang bài ca hòa bình và âm hưởng hùng tráng của chiến thắng Điện Biên phủ, đại tướng về thăm quê.Tôi nói là “đồng hương Kiến Giang” vì nhà ba mẹ tôi cách nhà ông chỉ vài chục mét nhưng lại chính là chiều rộng con sông Kiến Giang – một nhánh thượng nguồn sông Nhật Lệ. Như bất kỳ một đưá trẻ Lệ Thủy nào, bảy tuổi tôi đã biết bơi đủ chiều rộng của con sông nhưng chưa đủ can đảm vượt qua mà chỉ ra giữa dòng lại bơi trở lại làng mình. Và hôm ấy, một ngày hè chói chang của năm 1959, cả huyện ào về hữu ngạn Kiến Giang đón Đại Tướng. Tình huống buộc lũ trẻ chúng tôi phải liều mạng vượt sông. Một lũ trẻ con trần như nhộng bị cuốn vào cơn lốc của dòng người chạy theo xe. Trong cơn hỗn loạn, tôi kịp thấy ông đứng thẳng trên xe mui trần, mặt binh phục, mũ kêpi, cánh tay gấp, bàn tay duỗi thẳng đưa ngang vành mũ chào quê hương, đồng bào. Hình ảnh ấy để lại trong tâm hồn trẻ thơ tôi một ấn tượng rất mạnh, đến nỗi mười năm sau, nhập ngũ, mỗi lần chào theo quân lệnh tôi đều chú ý gấp cánh tay đúng góc độ, duỗi thẳng các ngón tay trên vành mũ, dồn tâm tưởng vào lá quân kỳ.

 Lại nói, một ngày cuối tháng ba trên đỉnh đèo ngang, 16 giờ 30 phút nắng trải vàng như mật, đại tướng xuống xe, giáo sư Đặng Bích Hà (phu nhân), giáo sư - tiến sĩ Võ Hồng Anh (trưởng nữ) và các sĩ quan tùy tùng như đại tá Tâm, đại tá bác sĩ Huyên…..,bước xuống. Ba phút sau cả hai đoàn hòa lại cùng lặng ngắm về phía nam đèo Ngang mềm mại thân thương và gần như chưa được đánh thức. Nhìn ông lặng lẽ ngắm ánh chiều hắt xuống con đường thiên lý tôi tự hỏi liệu lịch sử có ghi được bao nhiêu dấu chân của những người mở cõi kể từ ngày Ngô Tử An làm Thiên Lý Cù vượt Hoành Sơn năm 931. Kể từ thời thời Vua Hùng dựng nước, rồi thời Thăng Long mở cõi, đây là trở lực địa lý đầu tiên mà cái vượng khí  Đại Việt tràn qua ắt mở đất thông về phương Nam, thành một dải hình chữ S thống nhất như ngày nay. Với ông ,kể từ ngày rời quê Lệ Thủy vào Huế học trường Quốc học, ra Thăng Long mở trường Tư Thục, làm thầy, làm báo, làm tướng, có biết bao lần vượt Hoành Sơn. Nhưng đây là lần về quê dài ngày của tuổi thượng thọ và như dân gian nói là chuyến đi dối già, gương mặt vị đại tướng không giấu nổi xúc động . Ở vị trí một người làm truyền hình như tôi may mắn được theo sát ông 21 ngày, thăm qua 5 huyện thị. Đến đâu cũng được quân dân nhiệt liệt chào đón và ngưỡng mộ. Có ngày ông du ngoạn trên sông Nhật Lệ, ghé thăm bậc danh sĩ Nguyễn Tú ở Bảo Ninh, đi lại rất lâu trên doi cát nơi cửa sông. Thăm động Phong Nha, trao đổi với đoàn thám hiểm Hoàng Gia Anh đang khảo sát động, làm việc với cán bộ chủ chốt các địa phương. Về thăm lại khu vườn, khu nhà xưa mới được phục dựng, ông tha thẩn bên từng cành khế, gốc mít, ngồi trầm ngâm bên sông Kiến Giang vọng qua Lòi Đá còn rì rầm âm thanh những gốc cây nguyên sinh, những khối đá thiên tạo, nghe âm âm vọng về ký ức một thời ấu thơ xa lắc. Ông đặc biệt dành tình cảm và thời gian cho trường học và các cháu học sinh. Thấp thoáng đây đó, tôi thấy lại những cậu bé khoảng chừng bảy tuổi, cởi trần tóc tai đen cháy, vượt sông ướt mèm, chạy sấp ngửa theo đoàn xe có vị Đại Tướng đầu bạc phơ đang đi vào huyền thoại, vào giấc mơ con trẻ. Ông về làng, xe chạy chầm chậm dừng lại ở bến sông ở xóm nhà ông và là “cái bến kỷ niệm” của tôi. Sau ngày vượt được sông Kiến Giang tôi thường cùng lũ bạn chăn trâu,” tay liềm tay lạt” qua làng ông cắt cỏ. Tôi đặc biệt thích thú đột nhập vào vườn nhà ông. Vườn bỏ hoang mọc nhiều thứ cỏ lùng xanh tốt, trâu rất thích. Gần đây về làng lấy tư liệu thời thơ ấu của ông, được nghe các bậc đại lão kể thuở nhỏ ông  cũng thường vượt sông sang tả ngạn bắt chim sáo, trèo cây đọc sách tối ngày. Làng An Xá của ông nằm bên hữu ngạn sông Kiến Giang kéo dài đến ven phá Hạc Hải có lịch sử trên 500 năm , đâu như từ thời Hồ Hán Thương (1402) hay Lê Thánh Tông ( 1471) xuống chiếu di dân vào các châu Bố Chính, Địa Lý. Có 12  cụ vào đây khai canh lập ấp nên Kẻ Thá, thành “thập nhị đại tộc”. Làng có hai vị đại khoa, tiến sỉ Hán học Lê Đa Năng và Phạm Đại Kháng. Cùng mạch đất, xóm trên có tiến sĩ  Triều Mạc – Dương văn An, tác giả Ô Châu Cận Lục, đại tướng Nguyễn Danh Cả chiến đấu dưới cờ Lê Lợi, thượng tướng quận công Hoàng Hối Khanh và cả ông tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau này có các ông Đào Viết Doãn, Bùi Xuân Các, Đặng Phạm Mai, Võ Tử Thức, Võ Thuần Nho, Trần Bội, Trần Sự… là những bậc thức giả, những sĩ quan tài năng. An Xá ,Tuy Lộc có nghề làm chiếu cói và làm giấy dó, giấy bản được  tiến sĩ Dương Văn An mang từ Thăng Long về từ thế kỷ XVI. Các bậc cao niên cho biết gần đây dân làng không gọi đại tướng là anh Văn hay Bác Giáp nữa mà đột ngột kêu vị đồng hương là ngài: “không khéo tới trăm tuổi Ngài hóa sẽ được tôn làm thành hoàng làng”. Thân phụ của ngài là cụ Võ Quang Nghiêm , một bậc túc nho khí khái. Tháng 3 năm 1947, pháp đổ bộ Đồng Hới đánh tràn lên Lệ Thủy. Cụ bị Pháp bắt. Chúng phóng xăng đốt nhà rồi giải cụ vào giam ở nhà lao Thừa Phủ- (Huế). Ba tháng sau, biết không lung lạc được ngày 31tháng 7 năm 1947 bọn pháp thủ tiêu cụ . ….Cơ sở cách mạng ở Huế bí mật mai táng cụ dưới chân núi Ngự Bình, tới năm 1979 thì rước di hài hồi hương . Căn nhà ấy sau khi bị đốt, lại trải 9 năm kháng chiến cùng khu vườn rộng hoang hóa. Bọn trẻ chăn trâu chúng tôi cắt được nhiều cỏ là vậy.

 Đại tướng và phu nhân thăm đài truyền hình tỉnh.Tôi trở thành chủ nhà. Ngày ấy ,đầu tháng 4 năm 1992, đài còn đóng trên đồi Hải Thành. Vị trí này chính là dấu tích một đoạn trong chuyến lũy Nhật Lệ của Đào Duy Từ thời Trịnh- Nguyễn. Giai đoạn này đài phát sóng bằng máy công suất 100w, chỉ đủ cho  dân nội thị. Đang có kế hoạch mua máy mới, vấn đề là mua máy công suất bao nhiêu .. Một ký (1000w) hay nữa ký (500w). Đã có một cuộc hội thảo bất thành vì một số cán bộ sợ tốn kém cứ đòi mua rẻ  máy công suất nhỏ. Đêm trước tôi báo cáo toàn bộ tình hình với bác “đồng hương” rồi thở vào tai ông : “ở các nơi khác, đài cấp huyện mà cũng đã được trang bị máy hai ký”, với dụng ý nhờ uy tín của ông gây sức ép để tỉnh mua máy công suất lớn ngõ hầu cho dân các huyện cũng bắt được sóng truyền hình. Y như rằng, mới nghe người trưởng đài báo cáo hoạt động và dự định thay máy 100w bằng máy 500w, đại tướng đã có vẻ rất bực bội. Chiều hôm ấy, một buổi chiều chớm hè trên đỉnh đồi lộng gió, những cơn gió đầu mùa cường lực từ cửa Nhật Lệ thổi ào ạt. Chúng tôi  thấy Đại tướng rẽ đám đông bước ra triền đồi đứng đối diện với ngọn gió. Không một ai dám theo. Riêng tôi, trong tư thế cầm Camera buộc phải tiếp cận với ông. Và, trên màng hình phi-dơ hiện lên cận cảnh một vị tướng kỳ lạ: Mái tóc bạc phơ, cúc áo ngực phanh ra, gương mặt đầy những nét căng thẳng. Ông nói rất lớn vào ngọn gió những điều đang khiến ông giận giữ, những điều mà ngoài những bụi sim đang nỡ hoa tím trên chiến lũy Đào Duy Từ, chỉ có tôi với ngọn gió thẩm thính được. Cũng từ giờ phút ấy, tôi bỗng cảm thấy ông gần gũi lạ thường. Ông lớn hơn thân phụ tôi bốn tuổi. Ông nội tôi với cụ thân sinh của ông có giao hảo, cũng qua đường Nho học. Riêng tôi là một người lính cầm súng chiến đấu nhiều năm dưới trướng ông, lần đầu tiên tôi bất ngờ cảm nhận được con người đời thường và tình yêu quê hương sâu nặng cuồng nhiệt của một ông già uống nước Kiến Giang, chơi bi đọc sách trên cánh đồng Lệ Thủy mà thành trí thức, thành tướng tài của đất nước, của thế giới. Sâu trong giọng nói, cử chỉ tôi vẫn nhận ra con người của ba mươi ba năm trước trên đỉnh vinh quang của võ công  đã trân trọng đứng nghiêm giơ tay lên vành mũ chào quê hương , đồng bào đồng hương….

 Chia tay, ngày thứ 21,vào một  buổi chiều có mưa rào nhẹ se lạnh. Trước đó, khi ông đang nói chuyện với cán bộ, nhân dân huyện Quảng Trạch, tôi ngồi uống la đà với nhóm sĩ quan tùy tùng và đã hơi chuếnh choáng. Trên đỉnh đèo Ngang, mũi xe hướng ra Bắc. Đại tá Tâm mở dù che cho ông. Mọi người nhường chỗ cho dân truyền hình làm việc.

-          Thưa bác nơi đây là thước đất cuối cùng của quê hương Quảng Bình xin bác nói đôi lời với cán bộ, nhân dân.

 Rất may mắn là tôi mở đầu được một câu khá chuẩn. Đại tướng trả lời, căn dặn nhiều điều thân ái chào bà con, và…

-          Thưa bác, xin bác một lời hò hẹn ngày tái ngộ !

  Câu này tôi bất ngờ bật ra như một cái máy. Trong đàm đông có tiếng cười khẽ. Tâm trạng mọi người như chờ đợi, chênh vênh… Đại tướng trả lời ngay:

-          Tôi có phải trai gái yêu nhau gì đâu mà hẹn hò (đám đông phá lên cười vang trời Hoành Sơn). Quảng Bình là nhà tôi, khi nào rảnh việc nước thì tôi vế nhà.

  Đám đông lập tức yên lặng lắng nghe từng lời gọn, ngắn, bình dị mà sâu sắc, đầy đặn chất giọng Lệ Thủy của ông. Rồi cũng bị thúc đẩy bởi hơi men tôi bật ra câu thứ ba:

-          Thưa Đại tướng ! bác có thể cho cháu …ôm…!

 Dứt lời tôi đã thả micro lao tới. Không một vệ sĩ, một sĩ quan tùy nào kịp phản ứng. Trong cơn cao trào phấn khích tôi cứ ôm lấy cụ mà lắc lư, lắc lư, cảm nhận từ cụ toát ra một nội lực còn rất mạnh, và, tôi thầm mong với niềm kính yêu tha thiết rằng: Xin linh khí trời đất phù hộ cho ông sống đủ 100 tuổi – một trăm thôi không dám xin hơn.

                                                            *

  Hơn hai mươi năm đã trôi qua. Đại tướng theo lời hẹn, cứ rảnh rang việc nước là về nhà. Còn tôi, không làm báo hình nữa nên không có được may mắn lần nữa, chỉ kính nhi viễn chi, ngưỡng vọng cụ từ xa. Thời gian gần đây, đến tuổi nghỉ chế độ, tôi hay về làng, và qua sông thăm nhà lưu niệm cụ. Trong hàng hàng trang lưu bút, tôi đọc thấy từ những năm chín mươi của thế kỷ trươc nhiều người đã ước mong như tôi. Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Trúc ở Hoài Nhơn - Bình Định viết:”Từ miền nam ra thăm (Quê) Bác Giáp kính yêu chúc Bác mạnh, sống lâu hơn nữa, đem hạnh phúc cho nước nhà và xã hội phồn vinh”. Ước mong của tôi, của chúng ta đã được đền đáp: Ở tuổi Bách niên đại thượng thọ, đại tướng đã rảnh rang việc nước hoàn toàn và đang trên đường về nhà, về hẳn.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574878

Hôm nay

2191

Hôm qua

2285

Tuần này

2191

Tháng này

221935

Tháng qua

130677

Tất cả

114574878