Không nhiều người thực sự hiểu các chiến lược mà Võ Nguyên Giáp hoạch định cho quân đội của ông kể từ đầu những năm 1940. Nhưng một khi hiểu được chúng, người ta cũng nhận thức được chắc chắn, rằng Võ Nguyên Giáp thực sự là một thiên tài quân sự. Tôi biết được điều này do nghiên cứu chiến lược của Võ Nguyên Giáp trong 10 năm trở lại đây, và từng được hân hạnh diện kiến ông Giáp.
Đối đầu không cân sức
Tôi rất kinh ngạc khi gặp tướng Giáp lần đầu. Khi đó, đã ở tuổi 90 nhưng ông còn dồi dào sức khỏe, trí tuệ cực kỳ minh mẫn, như ông đã từng như thế trong suốt cuộc đời cầm quân của mình. Chúng tôi nói chuyện cả giờ đồng hồ, và ông kể cho tôi về Đường Hồ Chí Minh. Tôi rất cảm kích. Trước đó chồng tôi và tôi đã đi 500 dặm dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh ở bên Lào, và vì thế ông Giáp đồng ý cho chúng tôi tới thăm ông. Tôi hỏi ông: “Phải chăng Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh là thành tố quan trọng nhất cho chiến thắng?” Tướng Giáp trả lời: “Đó là một trong nhiều thành tố quan trọng”. Phải mất một thập kỷ để tôi hiều Tướng Giáp muốn nói lên điều gì. Đã có nhiều những thành tố tựa như Đường Hồ Chí Minh, đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng chiến ở Việt Nam.
Những gì tôi học hỏi được ở Tướng Giáp, và các tướng lĩnh Việt Nam khác tôi được gặp, là để đánh Pháp (1945 - 1954) và đánh Mỹ (1959 – 1975), những người cách mạng đã sáng tạo ra hình thái chiến tranh mới: “chiến tranh toàn dân’. Hình thái chiến tranh nhân dân này đã trở thành một bản thiết kế mẫu (blueprint) để tiến hành cái được phương Tây gọi là “cuộc chiến tranh không cân sức” (asymmetricwar). Thuật ngữ “không cân sức” thể hiện thực tiễn cuộc đối đầu giữa hai phe sử dụng hai chiến lược đối lập: Hồ Chí Minh dùng chiến tranh toàn dân chống lại Pháp, Mỹ - hai thế lực chủ yếu dùng các lực lượng và phương tiện chiến tranh quy ước (conversational militaries)
Mục tiêu của chiến tranh toàn dân là động viên cả nước chống kẻ địch. Cuộc kháng chiến toàn dân vận hành bởi nguyên tắc hoạt động là cho dù từng người trong nhân dân yếu hơn sức mạnh của quân đội nhà nghề của đối phương, lực lượng nhân dân sẽ làm mất sức chiến đấu của quân đội viễn chinh hùng mạnh, và cuối cùng làm chúng kiệt sức. Hồ Chí Minh nói: “Có dân là có tất cả”. Điều then chốt để hiểu chiến tranh toàn dân là những người kháng chiến không thể đánh bại kẻ thù mà chỉ đơn thuần dùng sức mạnh quân sự.
Có 4 yếu tố hợp thành chiến tranh toàn dân: ba mặt trận tầm chiến lược (chính trị, tuyên truyền đặc biệt, quân sự), trên nền của Hạ tầng cơ sở cách mạng (Revolutionary Infrastructure, Mỹ gọi là VCI – Hạ tầng cơ sở Việt Cộng) – nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, chi phối tất cả các mặt trận trên. Hồ Chí Minh rõ ràng là nhân vật chính trên mặt trận đấu tranh chính trị tầm chiến lược. Động lực của mặt trận này chính là việc Hồ Chí Minh dành vai trò kiểm soát cao nhất cho Đảng, mà không dành riêng cho mình. Mặt trận tuyên truyền là nỗ lực của nhiều nhà cách mạng, bao gồm cả đóng góp của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo chuyên trách của mặt trận quân sự, vừa hoạch định chiến lược vừa tổ chức thực hiện.
‘Hạ tầng cơ sở Việt cộng”
Hồ Chí Minh đi đến quyết định chọn Võ Nguyên Giáp tổ chức lực lượng vũ trang chính quy là do, từ 1941, Võ Nguyên Giáp đã phát triển phần hệ trọng của Hạ tầng cơ sở cách mạng (“con đường Nam tiến” từ miền núi xuống đồng bằng Bắc Bộ), buổi đầu “bám rễ” vào những cơ sở còn thưa thớt. Hệ thống cơ sở cách mạng được Hồ Chí Minh khởi động từ giữa những năm 1920 – đó là một mạng lưới hoạt động bí mật của những người cách mạng, kết nối chủ yếu nhờ các giao thông viên. Tới đầu những năm đầu 1940 ấy, nó thăng hoa thành Hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam, một hệ thống ngày một tiến hóa phức tạp, tinh vi hơn. Hệ thống này gồm (1) các chi bộ Đảng hoạt động bí mật, liên kết bởi (2) các giao thông viên ngày một trở nên chuyên nghiệp vụ hơn, sử dụng các “hành lang” giao liên chằng chịt phức tạp, dựa vào (3) - các quần chúng cảm tình với cách mạng, đảm nhiệm cả nhiệm vụ bảo vệ các hành lang, khi cần. Trên các địa bàn mà hành lang ‘Nam tiến’ đi qua, đã hình thành một hình thái chính quyền ngầm (shadow government) có đủ các cơ cấu hành chính liên đới trực thuộc, làm cơ sở để phát triển thành nhà nước độc lập, một khi điều kiện cho phép.Khi Võ Nguyên Giáp huấn luyện và tìm cách vũ trang cho những “người bảo vệ” hành lang chiến lược, Hồ Chí Minh nhận thấy trong con người tầm thước Võ Nguyên Giáp triển vọng to lớn của nền quân sự Việt Nam. Ngày 22 -12 -1944, Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang chính quy, với đơn vị đầu tiên là Đội Tuyên truyền Giải phóng quân, giao cho Võ Nguyên Giáp toàn quyền chỉ huy.
Chiến tranh không chiến tuyến
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất ((1945 – 1954), Giáp đã định hình những phương thức đấu tranh vũ trang mới, được phương Tây gọi là “chiến tranh không chiến tuyến” (war without boundaries). Hình thái kháng chiến mới này xuất phát từ một lần Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cho Võ Nguyên Giáp. 18 – 1 – 1946, phái Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp vào miền Nam, Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chú vào trong đó, nhiệm vụ trọng yếu là nghiên cứu, xem xét chiến trường, giúp các đồng chí Bộ chỉ huy mặt trận Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ giữ vững tinh thần kháng chiến, phát động chiến tranh du kích, kìm chân quân Pháp, động viên đồng bào và chiến sĩ hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước”...
Có ba vấn đề quan trọng trong cuộc họp với Hồ Chí Minh khi Giáp từ miền Nam trở về: thứ nhẩt, các lực lượng cách mạng miền Nam dùng phương thức trận địa chiến (static warfare)để chặn quân Pháp, và đã thất bại. Võ Nguyên Giáp nhất trí với Hồ Chí Minh là cần phát động chiến tranh du kích ở miền Nam. Thứ hai, để tiếp tế cho cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên, và Nam Bộ, một hành lang chiến lược mới cần được mở (trong vai trò tương đương như Đường Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Mỹ).
Mâu thuẫn của chiến tranh xâm lược
Điểm thứ ba có ý nghĩa then chốt ngay từ đầu kháng chiến. Võ Nguyên Giáp cả quyết với Hồ Chí Minh là, với một lực lượng nhất định quân viễn chinh có mặt ở Việt Nam, rõ ràng Bộ Tổng chỉ huy Pháp đang đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Quân Pháp sẽ bị dàn mỏng để dồn sức chiếm đóng và bình định các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, bằng cách thiết lập các vành đai đồn bốt và trại lính ở mọi nơi; hoặc ngược lại, tập trung binh lực thành các quả đấm thép để đánh tan quân chủ lực của Giáp. Trên thực tế, quân viễn chinh bị căng ra giữa hai nhiệm vụ này. Nếu không lập ra được một quân đội chiếm đóng cực kỳ đông đảo, đối phương sẽ sa lầy vào hình thái chiến tranh “không chiến tuyến”. Chiến lược này của Giáp được đúc kết thành phương châm: “Biến hậu phương địch thành tiền phương của ta”, cho cả hai cuộc chiến tranh Đông Dương.
Để triển khai hình thái chiến tranh không giới tuyến, Võ Nguyên Giáp hoạch định những chiến lược quan trọng khác. Như phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Mục tiêu của các đại đội độc lập của tướng Giáp là gây dựng phong trào chiến tranh du kích trên cả nước. Mỗi đại đội chỉ được phiên chế khoảng 100 người, để có thể đóng quân trong phạm vi một làng - một đơn vị dân cư chỉ đủ sức nuôi quân số như vậy (đồng thời bộ đội còn phải tự túc một phần và làm đồng áng giúp dân). Một quân số lớn hơn dễ làm bộc lộ lực lượng hơn, và có thể trở thành gánh nặng quá sức cho dân làng. Các đại đội có thể được phái vào sâu sau lưng địch còn có nhiệm vụ: vận động quần chúng (dân vận), bảo vệ “hành lang” trong địch hậu và hoạt động sản xuất của dân, địch vận, tiễu trừ gián điệp, phỉ, và phá bộ máy chính quyền địa phương của đối phương, hoặc biến chúng thành hình thái chính quyền hai mặt – tức là xây dựng Hạ tầng cơ sở cách mạng.
Pháo đài du kích chiến
Một trong những nhiệm vụ trung tâm của các tiểu đoàn độc lập là xây dựng các làng chiến đấu theo phương châm của tướng Giáp: “Mỗi thôn làng là một pháo đài”. Có nghĩa là mỗi làng trở thành một căn cứ du kích của chính dân làng. Với phong trào chiến tranh du kích lan rộng, việc dân làng bám đất của tổ tiên, vừa sản xuất, vừa đánh địch giữ làng đã thành một truyền thống kháng chiến. Chiến tranh du kích bằng các làng chiến đấu – pháo đài phản bác quan điểm (phương tây), cho rằng du kích chỉ thuần túy là cách đánh của một nhóm vũ trang, liên tục vận động tránh địch, và chỉ giao chiến khi gặp thuận lợi. Một làng chiến đấu bao gồm một khu vực tác chiến kết nối bằng các địa đạo, giao thông hào, hầm ngầm, các ụ chiến đấu, các bãi mìn, chông, cạm bẫy. Một đội dân quân bản địa được lập ra để cảnh giới nghiêm ngặt việc ra vào làng của người lạ. Các làng chiến đấu là nơi trú quân cho các đơn vị chủ lực kẹt trong gọng kìm càn quét lớn của đối phương. Nhờ sử dụng các hầm ngầm và giao thông hào kiên cố xây dựng sẵn, các thứ quân có thể ẩn núp tránh phi pháo của địch, và dù sử dụng một lượng hạn hẹp vũ khí, đạn dược, vẫn ngăn chặn bước tiến của bất cứ mũi tiến công nào.
Du kích vận động chiến
Phát triển phong trào chiến tranh du kích, các đại đội độc lập có thể tuyển mộ các chiến sĩ mới, vừa hoàn thành tốt quá trình huấn luyện, để tạo nên các đơn vị chủ lực mới, hoặc bộ đội địa phương. Về phương pháp luận, khi nhiều thứ quân được xây dựng trên cùng một địa bàn, sẽ dễ áp dụng nhiều cách đánh hơn. Các đại đội độc lập thường cơ động nhanh, và luôn sẵn sàng đánh những trận nhỏ ở những địa hình thuận lợi, nhất là khi được du kích địa phương hỗ trợ. Khi triển khai các trận đánh lớn, các đại đội độc lập cụm lại thành các đơn vị cỡ tiểu đoàn. Sau trận đánh, họ lại nhanh chóng phân tán thành các đại đội, như cũ. Các đại đội độc lập này lại tản vào rừng núi, hoặc hòa vào dân, khiến quân Pháp khó có cách bao vây, tiêu diệt cả một tiểu đoàn Việt Minh. Còn có các đơn vị cơ động cấp tiểu đoàn, hoạt động theo phương thức du kích vận động chiến được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh, và Bộ tư lệnh các quân khu, sử dụng vào các chiến dịch quy mô ngày càng tăng.
Phương thức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” phát huy hiệu quả đến mức tướng Giáp lại áp dụng nó trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, để gây dựng lại phong trào chiến tranh du kích, sau khi cơ sở hạ tầng cách mạng bị triệt phá nặng nề sau các đợt Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân.
Đây là hiện thân cho mong muốn quân đội cách mạng sẽ “lai vô ảnh, khứ vô hình” trong chỉ thị thành lập quân đội 22 -12 – 1944 của Hồ Chí Minh. Còn với phương Tây, là khái niệm kẻ thù không thể xác định (the undetected enemy).
“Quả đấm thép” Đại đoàn
Ngưỡng cửa những năm 1950 là lúc Võ Nguyên Giáp nhận thấy ông có thể thành lập các đơn vị cỡ sư đoàn. Lực lượng vũ trang Việt Nam hình thành ba thứ quân rõ rệt, trong đó có dân quân, du kích hoạt động ở các làng xã; bộ đội địa phương trực thuộc các bộ chỉ huy quân sự tỉnh, huyện; và bộ đội chủ lực – tiếp cận khái niệm các lực lượng tác chiến quy ước của phương Tây. Tới lúc này, Giáp đã sẵn sàng mở rộng mặt trận cho các chiến dịch tiến công quy mô, để đánh bại quân Pháp.
Binh chủng hợp thành
Tuy các thành tố của chiến tranh toàn dân đều quan trọng, Võ Nguyên Giáp hiểu rằng chỉ có sức mạnh quân đội tác chiến hiệp đồng mới buộc được quân đội chiến tranh quy ước của đối phương đầu hàng. Vì thế, để giành toàn thắng cho chiến tranh toàn dân, phải tạo dựng được các điều kiện làm suy giảm sức mạnh của quân đội đối phương, cho đến khi cán cân lực lượng ngả dần về phía quân đội chính quy của cách mạng. Cuộc chiến tranh dần dần mang tính cân sức (symmetry - cán cân lực lượng trên chiến trường giao động quanh điểm cân bằng), khi cả hai bên đều dùng các phương thức tác chiến quy ước. Đây chính là lúc Giáp tìm cách giáng đòn quyết định chiến trường (deathblow/đòn chí tử) vào quân đối phương, nhanh chóng giành thắng lợi cuối cùng.
Về phương pháp luận, đòn quyết định chiến trường cần được phối hợp với tầm vóc mới, ngày một trưởng thành của cuộc chiến tranh toàn dân. Trong trường hợp đòn quyết định chiến trường được tiến hành sai hướng và quá sớm, quân đội đối phương còn đủ sức phản công, đánh bại quân đội của phe cách mạng. Trong trường hợp này phần còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng phải cố xây dựng lại các đơn vị tác chiến quy ước, nếu không, phe cộng sản sẽ lâm vào một thế trận vô cùng bất lợi. Còn nếu đòn quyết định được tung ra đúng thời cơ, thì quân đội đối phương sẽ bị tiêu diệt; các thành tố còn lại của hạ tầng cơ sở cách mạng Việt Nam dốc toàn lực để thống nhất nước nhà, và Đảng trở thành lực lượng chính trị cầm quyền duy nhất.
Đã có hai đòn chí tử giành được thắng lợi quyết định: một ở Điện Biên Phủ năm 1954, một ở miền Nam Việt Nam năm 1975, đánh đổ chế độ Sài Gòn. Trong trường hợp thứ hai, đã truyền vào tâm thức của thế giới một biểu tượng kết thúc chiến tranh: các xe tăng đâm đổ cánh cổng Dinh Độc lập – lực lượng chiến tranh quy ước của phe cách mạng đánh quỵ lực lượng tác chiến quy ước là Quân đội Sài Gòn. Trên thực tế, phần còn lại (dân – chính - đảng) của mạng lưới hoạt động bí mật đã bộc lộ lực lượng khi Quân đội Sài Gòn vừa bị đánh tan, chiếm các công sở của bộ máy hành chính cũ, và tiếp quản chính quyền trên toàn miền Nam. “Chính phủ ngầm” đã công khai ra mắt thế giới, cùng toàn dân của một Việt Nam thống nhất.
Thừa kế không mong muốn
Chiến lược chiến tranh toàn dân có thể xem là “bản thiết kế mẫu” để đảm bảo tiến hành cuộc chiến không cân sức chống một siêu cường. Nó từng được soạn thảo chỉ dành cho Việt Nam. Tuy nhiên, thiết kế mẫu này, do những lắt léo của lịch sử, đã định dạng một loại hình chiến tranh mới bị chiếm dụng bởi những thể lực khác,. Lực lượng Mujahidin (phiến quân Afganistan) từng tạo lập cơ chế tương tự như “Hạ tầng cơ sở Việt cộng” (VCI) trong thời kỳ Liên Xô chiếm đóng Afganistan ở thập kỷ 80. Lý do là lúc đó Mỹ ủng hộ Mujahidin, cung cấp thông tin về mạng lưới hoạt động bí mật VCI cho (Mujahidin). Và trớ trêu thay, vì Liên Xô huấn luyện các binh lính của chính phủ Afganistan thân Liên Xô thời đó, và một số trong họ khi đào ngũ sang với Mujahidin đã mang theo các chiến thuật của ‘Việt cộng”. Một bộ phận của Mujahidin đã trở thành lực lượng Taliban hiện nay ở Afganistan. Taliban hiện dùng sơ đồ “chính phủ ngầm” (shadow government) để cai quản dân cư, và làm chỗ dựa cho các chiến lược đối đầu khác của họ. Tới nay, bản thiết kế mẫu “Hạ tầng cơ sở Việt Cộng” (VCI) đang bị chiếm dụng bởi một số nhóm cực đoan khác, trong số đó có cả Al-Qaeda…
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”
Tôi không bao giờ còn có đặc quyền ngồi bên con người tài đức vẹn toàn ấy - con người từng thay đổi thế giới. Với phương Tây, thật là khó chia sẻ điều này vì phần lớn cuộc đời Giáp gắn với một hệ tư tưởng mà người phương Tây chúng ta coi là lập dị. Nhưng tôi rất đỗi tự hào là đã được gặp tướng Giáp, và vô cùng vinh dự vì từng được “phụ đạo”, để nhận thức được vai trò vô cùng to lớn (crucial role) của Đại tướng trong sự nghiệp thống nhất Việt Nam, và trong xây dựng và triển khai Học thuyết chiến tranh toàn dân. Tôi chắc chắn rằng với một nhà tư tưởng vĩ đại như thế, dù thể xác đã không thể giúp ông vượt ngưỡng tuổi 102, trí não ông vào thời khắc từ trần vẫn hoàn toàn mẫn tiệp.
Lê Đỗ Huy (dịch)