Cuộc sống quanh ta

Những vấn đề cấp bách về chính sách an sinh xã hội hiện nay ở nước ta

Trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, vấn đề an sinh xã hội ngày càng có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống các thành viên trong xã hội trước những biến động khó lường, như những rủi ro trong kinh tế thị trường, những rủi ro về xã hội, những tác động xấu của môi trường thiên nhiên.

Chính sách an sinh xã hội nhằm chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng, hướng tới công bằng xã hội. Vì vậy, hiệu quả của chính sách an sinh xã hội đang trở thành một thước đo của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, nước ta cũng đã hình thành hệ thống an sinh xã hội, bao gồm các chương trình mục tiêu (chương trình việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ các nơi đặc biệt khó khăn, phòng chống tệ nạn xã hội, nước sạch nông thôn) và các quỹ (tình thương, việc làm, xoá đói giảm nghèo...). Đồng thời, thể chế hoá vấn đề an sinh xã hội như ra đời bộ Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội, Luật giáo dục, Luật bình đẳng giới, Pháp lệnh về ưu đãi người có công, về người cao tuổi, về người tàn tật... Hệ thống an sinh xã hội đã góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển đất nước. Theo số liệu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm, theo chuẩn nghèo của Ngân hàng thế giới tính cho Việt Nam: Tỷ lệ hộ nghèo năm 1993 là 58,1% đã giảm xuống 18% năm 2007; số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã tăng từ 3 triệu người năm 1996 lên 8,15 triệu người năm 2007; số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội đã tăng nhanh, từ 36,35% (năm 2000) tăng lên 52% (năm 2006).

Tuy vậy, khi phân tích số liệu thực tế, thì hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội nước ta còn rất thấp: mới có 17,6% trong tổng số lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, ngay trong diện bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng còn hơn 30% chưa tham gia; kết quả xoá đói giảm nghèo kém vững chắc, vì tỷ lệ hộ thoát nghèo nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70 - 80%), tỷ lệ tái nghèo còn cao; khoảng cách về phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng (4,43 lần vào năm 1991 - 1992 tăng lên 8,38 lần vào năm 2005 - 2006; còn 48% trong số 1,3 triệu đối tượng cần được trợ cấp vẫn chưa được hưởng trợ cấp.

Xem xét cả hai mặt (kết quả và hạn chế) của chính sách an sinh xã hội nước ta và đối chiếu với thực trạng kinh tế - xã hội trong thời gian chịu tác động của nạn lạm phát vừa qua có thể nhận rõ những vấn đề cấp bách về lý luận và thực tiễn của chính sách an sinh xã hội hiện nay.

1. Đường lối phát triển kinh tế chưa gắn liền với chính sách an sinh xã hội

Lịch sử phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhìn từ vấn đề an sinh xã hội có thể nhận thấy: sau giai đoạn đầu bóc lột tàn nhẫn người lao động thì do tác động của khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhà nước tư sản đã đề ra chính sách an sinh xã hội thể hiện ở chính sách phúc lợi, bảo hiểm... nhằm bảo đảm ổn định cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế. Những biến đổi đó phổ biến ở tất cả các nước phát triển kinh tế thị trường đã chỉ ra một vấn đề mang tính quy luật: trong thời hiện đại, chính sách an sinh xã hội là một nội dung quan trọng của đường lối phát triển kinh tế, hoàn toàn khác với các hoạt động xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ người lao động mỗi khi gặp rủi ro, và cũng khác với cách làm có tính chất ban ơn của nhà nước.

Nhìn vào thực trạng xã hội nước ta cho thấy trong đường lối phát triển kinh tế nước ta chưa biết vận dụng tính quy luật nói trên. Cứ nhìn vào mức lương bình quân khoảng 1,5 triệu trong các khu công nghiệp thì biết người lao động sẽ sinh sống ra sao, biết vì sao số lượng các cuộc đình công cứ tăng lên, chỉ riêng mấy tháng trong năm 2008 đã tăng vọt 400 - 500 cuộc. Có khu công nghiệp còn sử dụng lao động trẻ em một cách tàn nhẫn như báo chí đã nêu. Cuộc sống vật chất tối thiểu chưa đạt được, nói gì đến đời sống tinh thần. Theo báo cáo khảo sát về đời sống văn hoá tinh thần của công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất của Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch thành phố Hồ Chí Minh thì 75,2% chưa từng xem phim; 97% công nhân hiếm khi tham gia các câu lạc bộ, hơn 80% không bao giờ hoặc hiếm khi chơi thể thao. Các tổ chức công đoàn hầu như ít có tác dụng gì để cải thiện thực trạng nói trên.

Ngoài khu vực công nghiệp thì vấn đề an sinh xã hội ở khu vực nông thôn đang tích tụ nhiều vấn nạn về đời sống, việc làm, vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em, học sinh, sinh viên. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam rất cao so với các nước khác, sự suy yếu về thể chất trong giới sinh viên, học sinh đã lên đến mức báo động.

Nguyên nhân của thực trạng trên là tư duy kinh tế chính trị không phù hợp khi soạn thảo và thực hiện đường lối phát triển kinh tế, thể hiện ở quan điểm chạy theo tăng trưởng số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả về xã hội và môi trường trong phát triển kinh tế thị trường, rơi vào cám dỗ của "bệnh thành tích". Ngoài ra còn thể hiện thiếu quan điểm về phương pháp hệ thống trong triển khai các dự án.

2. Chưa nhận thức được tầm quan trọng của an sinh xã hội quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

Kinh nghiệm thành công của một số nước cho thấy: giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nhà quản lý nước ta chưa nhận biết được kinh nghiệm thành công này, đặc biệt vấn đề an sinh xã hội đối với nông thôn nước ta, sau 30 năm chiến tranh và 10 năm (1975 - 1985) thực hiện chiến lược sai lầm.

Vấn đề an sinh xã hội đối với nông thôn nước ta chịu tác động từ hai phía: từ phía chính sách phát triển kinh tế thị trường ở nông thôn, từ quá trình đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng với nhiều hạn chế và sai lầm. Do không nhận thức được tầm quan trọng của an sinh xã hội trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nên mặc dù đã chi nhiều kinh phí cho xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ rủi ro mà thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay có nhiều biểu hiện giống thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản như: nông dân mất đất, không việc làm, nghèo đói, nhiều trẻ em phải lao động và bị bóc lột nặng nề ở xí nghiệp, cửa hàng... đến mức mà Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt phải nói: "nông dân đã bị gạt ra bên lề sự phát triển" (báo Tuổi trẻ ngày 7/6/2008).

Một khía cạnh khác về an sinh xã hội trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là cách thu mua, phân phối tiêu thụ lương thực, xuất khẩu gạo đã không coi trọng lợi ích nông dân (hiện còn chiếm 70% dân số). Đặc biệt trong cuộc khủng hoảng lương thực thế giới vừa qua, khi giá gạo lên đến 1.000 - 1.200 USD/tấn, nhà nước không cho xuất khẩu. Vấn đề coi trọng lợi ích nông dân hay lợi ích của các công ty quốc doanh, lợi ích của tư thương hoặc làm thế nào để nông dân và công ty cùng có lợi, là vấn đề nóng trong chính sách kinh tế và chính sách an sinh xã hội. Vấn đề nhà nước bị các tập đoàn và tư thương chi phối và lợi dụng đang là một thách thức ở nhiều nước. Đây còn là vấn đề kinh tế chính trị cơ bản của đảng cầm quyền.

3. Tồn tại khoảng cách lớn giữa định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường với yêu cầu an sinh xã hội

Nhìn từ khía cạnh an sinh xã hội thì định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường chưa thể hiện trong thực tế cuộc sống nhân dân. Khoảng cách này dễ nhận biết từ hai mặt: ở bộ máy nhà nước thì tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nặng nề, còn ở phía nhân dân thì tính tự phát, tranh giành lợi ích khá phổ biến. Về mặt lý luận, người ta không hiểu rằng: trong thời đại hiện nay,phát triển bền vững đang trở thành xu thế chủ đạo có tính chất phi tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, phát triển bền vững (với ý nghĩa tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường) là nội hàm của xu thế kinh tế chính trị hậu tư bản. Nước ta phát triển theo con đường rút ngắn thì định hướng xã hội chủ nghĩa phải được hiểu là phát triển bền vững, vừa phù hợp với xu thế thời đại, vừa phát huy và kết hợp được phát triển kinh tế với an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Kiểu tăng trưởng số lượng chạy theo thành tích, coi nhẹ vấn đề xã hội và tàn phá môi trường (hiện 50% tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ sa mạc hoá, mỗi năm hàng vạn ha rừng bị phá trụi, môi trường đô thị, nông thôn bị ô nhiễm nặng nề) là hoàn toàn đi ngược với định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một vấn đề lý luận và đường lối chính sách chưa giải quyết được.

4. Tính chất phổ biến và tính chất đặc  thù của vấn đề an sinh xã hội ở nước ta - một vấn đề lý luận làm cơ sở cho chính sách an sinh xã hội  Việt Nam nhưng chưa giải quyết

Từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì dù muốn hay không, tự giác hay tự phát đều phải tuân theo các quy luật kinh tế thị trường, trong đó có vấn đề an sinh xã hội. Tính chất xã hộitính chất cạnh tranh của kinh tế thị trường tự nó đặt ra những vấn đề về xã hội và an sinh xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, chính sách xã hội và an sinh xã hội không phải là sự ban ơn của nhà nước đối với dân, mà trước hết là xuất phát từ chính nhu cầu phát triển kinh tế. Đó là tính chất phổ biến của vấn đề an sinh xã hội mà ngay chủ nghĩa tư bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải tuân theo. Tính chất phổ biến này càng được coi trọng với ý nghĩa là mục đích tự thân của định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong xu hướng chung phát triển kinh tế thị trường, mỗi nước đều có con đường riêng với trình độ phát triển khác nhau. Thực tế đó làm cho chính sách xã hội và an sinh xã hội có tính đặc thù ở mỗi nước, mà các tiêu chí quốc tế cũng phải tính đến.

Nước ta chuyển sang kinh tế thị trường với điểm xuất phát từ thể chế kinh tế tập trung, bao cấp trong một thời gian, nên nhận thức về an sinh xã hội trong kinh tế thị trường chưa đầy đủ về tính chất phổ biến cũng như tính chất đặc thù của chính sách an sinh xã hội ở nước ta. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thị trường cần phải coi trọng tính chất đặc thù của chính sách an sinh xã hội, nhờ đó phát hiện nhu cầu an sinh xã hội cùng với nguồn lực đáp ứng nhu cầu ấy.

Trong thời gian tới, tính chất phổ biến của an sinh xã hội sẽ gắn liền với trình độ phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy, trong tương lai, an sinh xã hội ở nước ta phải hướng tới trình độ ấy, trong khi phải nhận rõ tính chất đặc thù của giai đoạn hiện nay: khi 70% dân số còn là nông dân thì an sinh xã hội trong nông nghiệp và nông thôn có tầm quan trọng hàng đầu về ổn định xã hội; an sinh xã hội trong công nghiệp và các ngành đối với người lao động là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế; an sinh xã hội đối với trí thức (về giáo dục, y tế, điều kiện và môi trường làm việc...) là nhân tố quyết định cho phát triển bền vững. Ngoài ra, an sinh xã hội đối với người cao tuổi, người có công, người tàn tật là biểu hiện của một xã hội mới. Do xuất phát từ xã hội nghèo, trải qua chiến tranh lâu dài, nên quy mô vấn đề an sinh xã hội rất lớn. Vì vậy, cần có kết hợp chặt chẽ các nguồn lực nhà nước với nguồn lực các tổ chức xã hội và doanh nghiệp. Khai thác đầy đủ tiềm năng to lớn của các nguồn lực hỗ trợ quốc tế - một nhiệm vụ cần thiết, thường xuyên của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan ngoại giao, trong đó có vấn đề người Việt Nam lao động ở nước ngoài.

*
*    *

Trên đây là 4 vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong công cuộc đổi mới. Giải quyết các vấn đề nói trên sẽ đem lại một chính sách an sinh xã hội  có ý nghĩa động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới trong ổn định - phát triển.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574956

Hôm nay

2269

Hôm qua

2285

Tuần này

2269

Tháng này

222013

Tháng qua

130677

Tất cả

114574956