Dân tin Đảng, Đảng tin dân
Niềm tin là điểm tựa tinh thần của mỗi người. Hồ Chí Minh khẳng định rằng nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.
Như vậy, qua sự trải nghiệm bằng sự hy sinh, mất mát hàng ngàn năm dưới chế độ phong kiến, gần trăm năm dưới chế độ thực dân, từ khi Đảng ra đời, nhân dân ta đã có niềm tin vào Đảng. Niềm tin đó ngày cảng được củng cố, tỷ lệ thuận với đạo đức, văn minh của Đảng. Đảng lãnh đạo, giành độc lập cho dân tộc, tiến hành hai cuộc kháng chiến thắng lợi và bước đầu mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân. Niềm tin của nhân dân vào Đảng càng được nhân lên. Niềm tin đó giúp Đảng tăng thêm sức mạnh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng rất tin tưởng vào dân. Tại Đại hôi II của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Người còn chỉ rõ “lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.. Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.
Đảng tin dân vì dân là lực lượng đông đảo nhất, mạnh nhất, họ nhiều mắt nhiều tai, cái gì cũng nghe cũng thấy. Sức dân như nước, chở thuyền và lật thuyền. Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong. Dân trí tuệ, sáng tạo nhất, họ biết giải quyết nhiều việc mà những cá nhân, đoàn thể tài giỏi, to lớn nghĩ mãi không ra. Đảng tin dân vì dân rất tốt. Trong kháng chiến, có bao nhiêu tiền đóng góp cho cách mạng hết. Niềm tin của dân vào Đảng là sức mạnh vô địch đối với Đảng. Đó cũng là một cơ sở vững chắc cho niềm tin của Đảng vào dân.
Sức mạnh niềm tin của nhân với Đảng
Có dân là có tất cả. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân. Theo Hồ Chí Minh, “ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Dân là bức tường thành vững chắc nhất, bền vững nhất, lâu dài nhất bảo vệ Đảng, chế độ và thành quả sự nghiệp cách mạng, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.
Niềm tin của dân không phải tự nhiên mà có được, không phải trên trời rơi xuống. Nó được hình thành, phát triển, củng cố và biến thành sức mạnh vô địch khi chính trị của Đảng cầm quyền, nhà nước pháp quyền và chính trị gia phải là chính trị có văn hóa. Ngược lại, nếu là một thứ chính trị áp đặt, dựa vào quyền lực, quan liêu mệnh lệnh xa dân, nói một đường làm một nẻo thì dân oán. “Dân oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, H, 1995, t.5, tr.293). “Cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr.286).
Văn hóa chính trị của Đảng cầm quyền, nhà nước pháp quyền và chính khách là gì? Một cách hiểu đơn giản về văn hóa chính trị là cái đẹp, cái giá trị của chính trị (Đảng cầm quyền, của nhà nước pháp quyền và của những tư tưởng, hoạt động chính trị của chính khách); là lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính phủ và những người lãnh đạo chủ chốt. Về phương diện Đảng và Nhà nước pháp quyền, không thể mang tư duy cai trị, độc trị theo kiểu “đè đầu cưỡi cổ dân như dưới thời thực dân phong kiến” mà Bác Hồ đã nói đến. Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, nghĩa là ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đảng ta là Đảng lãnh đạo. Nhưng lãnh đạo là gì? Là “làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.222). Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.323). Đảng lãnh đạo nhưng không có nghĩa áp đặt sự lãnh đạo lên người dân. Văn hóa lãnh đạo không có chỗ cho việc dùng quyền lực buộc người dân phục tùng mà phải bằng sự cảm hóa, thuyết phục qua hành động và phong cách của Đảng (đảng phong) thể hiện một đảng đạo đức, văn minh. Theo Hồ Chí Minh, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.139). Văn hóa chính trị của đảng cầm quyền không những xa lạ mà còn phải chống lại cái thói quan liêu: “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.293).
Hai phần ba thế kỷ trôi qua, trong công cuộc đổi mới hôm nay, tệ quan liêu đó đang trở lại với nhiều biểu hiện khác nhau, phá hoại đội ngũ của ta. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân. Lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước đang giảm sút. Lý do là chính trị thiếu văn hóa. Rốt cuộc, “dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị là thất bại” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.293). Chính trị ở đây là lòng tin của dân với Đảng.
Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đến nay, văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền và Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân phải được thể hiện ở thái độ công bộc, đày tớ của Đảng và Chính phủ. Giá trị văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất trong chế độ Dân chủ Cộng hòa là người dân bước lên địa vị là chủ và làm chủ, còn Đảng, Chính phủ và cán bộ được phục vụ dân, “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.185), đem lại hạnh phúc cho dân. Văn hóa chính trị của Đảng không phải ở chỗ Đảng ra Nghị quyết mặc dù điều đó là cần thiết với ý nghĩa hàng đầu, nhưng cuối cùng và bền vững phải là hành động của Đảng, là làm, nói thì phải làm một cách thật sự, triệt để, quyết liệt có chất lượng khoa học và cách mạng. Bởi vì, “nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực. Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông”. Chúng ta thật sự đau lòng khi nghe những người lãnh đạo có trách nhiệm nói đến có nghị quyết, chỉ thị “không này, không kia” (03, 04, 05, 06) nhưng sợ nhất là “không làm”.
Văn hóa chính trị của Đảng ta là phải biết tin dân, trọng dân, yêu dân, gần dân, hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Phải biết rằng “tiếng dân là truyền lại ý trời” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.79). Vì vậy, “đối với dân, ta đừng có làm điều gì trái ý dân. Dân muốn gì ta phải làm nấy” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.148). Vì ý dân là ý trời nên “nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.297).
Văn hóa chính trị của Đảng và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm tính tối thượng, tối ưu, khoa học và nghiêm minh của luật pháp theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh. Phải xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên theo đúng kỷ luật của Đảng và pháp luật nhà nước. Nếu không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Hồ Chí Minh dạy: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa nào và làm nghề nghiệp gì” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.641). Và Người đã nghiêm túc trong việc y án tử hình Trần Dụ Châu và tỏ thái độ nghiêm khắc đối với những đồng chí phạm sai lầm trong cải cách ruộng đất. Sau việc thi hành kỷ luật một số cán bộ cao cấp của Đảng[1]liên quan đến trách nhiệm trong sai lầm cải cách ruộng đất, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) khóa II, ngày 15-9-1956, Người nói: “Vấn đề kỷ luật của Đảng là chung cho Đảng từ trên xuống dưới. Việc thi hành kỷ luật đối với các đồng chí Trung ương nói trên chứng tỏ với nhân dân là kỷ luật của Đảng nghiêm minh, điều đó giáo dục cho cán bộ, đảng viên ta biết tôn trọng kỷ luật” (Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H, 1995, t.6, tr.341). Tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh cho thấy văn hóa chính trị của Đảng không được giấu giếm khuyết điểm, có khuyết điểm thì phải xử lý nghiêm minh, bất kể người mắc khuyết điểm giữ chức vụ gì. Văn hóa chính trị của Đảng không thể chấp nhận cách làm việc mà Hồ Chí Minh đã phê phán: “Nhiều nơi các đồng chí phạm lỗi, nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ tầng công tác nơi này, đi nơi khác lại ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công tác theo hình thức nhưng vẫn ở cấp bộ cũ làm việc” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.73). Văn hóa chính trị của nhà nước pháp quyền không thể chấp nhận 70 % vụ án tham nhũng được hưởng án treo, trong khi đó một người dân phạm tội trộm con gà lại phải ở tù. Không thể chấp nhận những quy định chủ trương, chính sách, thông tư khi đưa ra, do không “từ trong quần chúng ra” (mà ở trong phòng lạnh, ở trên trời) nên khi “trở lại nơi quần chúng” không được nhân dân chấp nhận, không thể đi vào cuộc sống, phải hủy bỏ. Trong nhà nước pháp quyền, không thể có tình trạng 90% người dân không hài lòng khi được hỏi về dịch vụ công. Tiêu chí cao nhất của cải cách hành chính là gì? Là sự hài lòng của người dân. Điều đó còn xa lạ ở Việt Nam.
Văn hóa chính trị đối với chính khách, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt, đầu tiên và xuyên suốt là phục vụ dân bằng cách nêu gương, là đạo làm gương. Bởi vì “thượng bất chính thì hạ tắc loạn”. Muốn giáo dục đạo đức cho lớp trẻ thì người lớn phải là tấm gương sáng ngời về đạo đức. Muốn giáo dục văn hóa chính trị cho quần chúng và cấp dưới thì cấp trên và chính khách phải có văn hóa chính trị. Nếu không thế thì chỉ là lời nói suông, hô hào suông. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, không phải những người nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, thậm chí nghĩ một đường, nói một đường, làm một một đường. Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Văn hóa chính trị của chính trị gia qua việc nêu gương có ảnh hưởng rất lớn đến quần chúng. Gương sáng nhân dân theo. Gương mờ nhân dân quay lưng. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chạy, mua ghế chính khách nhưng lại không có một chút hiểu biết về văn hóa chính khách. Thật ra, họ cố tình không hiểu văn hóa chính khách để hành động theo kiểu một chính khách vô văn hóa. Bác Hồ từng nói, “văn hóa phục vụ dân của nhà chính trị là điều sơ đẳng a, b, c, ai cũng phải biết, phải làm”, nhưng quả thật “không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”.
Một điều quan trọng của văn hóa chính trị người lãnh đạo là không dùng quyền lực buộc người khác phục tùng. Tấm gương sáng chói của Hồ Chí Minh là đứng ở đỉnh cao quyền lực 24 năm liền nhưng không bao giờ dùng quyền lực với nhân dân. Nhận mình suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân, nhưng quyền uy và uy tín của Người rất lớn bởi đó là sức mạnh của văn hóa phong cách, đạo làm người, văn hóa làm người Hồ Chí Minh. Đáng buồn là hiện nay, một bộ phận cán bộ chúng ta vẫn nặng tư duy cai trị, say sưa và thích dùng quyền lực. Khi họ nắm được một chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng. Uy tín của người lãnh đạo, văn hóa chính khách không phải ở chỗ họ có quyền gì, giữ chức vụ gì, ở cương vị nào mà quan trọng nhất là phương thức sử dụng quyền lực của họ như thế nào và phục vụ nhân dân ra sao. Cán bộ không thể đòi hỏi nhân dân phục vụ họ mà phải luôn tự hỏi mình đã phục vụ nhân dân như thế nào. Thước đo lòng cao thượng của một con người, một chính khách là ở văn hóa làm người, ở đạo đức chứ không phải ở chức vụ, quyền lực.
Thước đo văn hóa chính khách là sự hài lòng của người dân. Muốn vậy, người lãnh đạo phải thật sự thực hành dân chủ với dân, biết học hỏi dân và làm học trò dân. Phải thấm nhuần lời dạy của Bác “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”. Một khía cạnh khác của văn hóa lãnh đạo là bản lĩnh chính trị. Bản lĩnh không chỉ là tư tưởng chính trị vững vàng, sự trung thành, giữ chủ nghĩa cho vững, mà còn biết phân biệt tốt xấu, thật giả, đúng sai và có chính kiến của mình. Thấy tốt nói tốt, thấy xấu nói xấu và phải kiên quyết bảo vệ cái tốt, cái thật, chống lại cái xấu, cái giả dối, cái lừa lọc là phẩm chất văn hóa của người lãnh đạo. Người lãnh đạo không thể là hạng người “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”, “theo gió bẻ buồm”. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo còn thể hiện ở chỗ có khuyết điểm thì dám nhận khuyết điểm về mình và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, phụ trách trước nhân dân, không tranh công đổ lỗi, nhận khuyết điểm tập thể hoặc là chỉ phụ trách trước Đảng. Mạnh dạn từ chức, có bản lĩnh từ bỏ quyền lực khi không còn được nhân dân tín nhiệm là một điểm sáng giá của văn hóa chính trị người lãnh đạo.
Trong hoàn cảnh hiện nay, đất nước ta khó phát triển vì những cản lực từ tư duy và hành động của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp không chứa đựng giá trị văn hóa. Họ thích làm chính trị mà thiếu văn hóa chính khách. Họ say mê quyền lực mà không có văn hóa lãnh đạo. Họ làm quản lý mà thiếu văn hóa quản lý. Tóm lại họ thiếu văn hóa chính trị. Mà thiếu văn hóa chính trị là nguy cơ mất lòng dân. Mà mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng là mất tất cả. Vai trò lãnh đạo của Đảng và sự mất còn của chế độ nằm ở văn hóa chính trị, nội dung quan trọng bậc nhất mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII chưa đề cập đến.
.............................................................
[1]Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 (mở rộng) khóa II, ngày 15-9-1956, đồng chí Trường Chinh không giữ nhiệm vụ Tổng Bí thư nữa vì trách nhiệm trong sai lầm cải cách ruộng đất, các đồng chí Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt ra khỏi Bộ Chính trị, đồng chí Hồ Việt Thắng ra khỏi Trung ương Đảng.