Trong ký ức của tôi, Nguyễn Hải Kế hiện lên rõ ràng một cốt cách trí thức kiểu nhà nho, trung hậu, cương cường pha lẫn một cốt cách thiền sư vô chấp. Khi ngồi giữa mọi người, Kế giống như một nông dân bình dị, chân tình, hồn hậu, biết quan tâm chia sẻ với mọi người theo phong cách văn hoá Hồ Chí Minh. Khi đứng trên bục giảng bài hay diễn thuyết, Kế luôn cháy bỏng nhiệt tình văn hoá, trên gương mặt đôn hậu thấp thoáng vẻ khinh bạc luôn luôn ẩn hiện một nụ cười gần gũi mà kiêu hãnh, phảng phất phong thái hùng biện của Obama.
Và mặc dù đôi chân Kế lúc nào cũng cắm sâu trong bùn đất của nhân quần đau khổ, tấm lòng Kế, nhân cách Kế lại như luôn ở cõi thanh cao như thể bị giam trong một tầng văn hoá mặc định từ tiền kiếp, khiến cho Kế nhiều khi không thể sà xuống chính nơi bùn đất ấy để tận hưởng hết những nhuỵ hoa hạnh phúc của đời thường.
Một thi sỹ, một người anh trong đời sống hàng ngày
Chúng tôi thân nhau từ thâp kỷ 70, khi Kế học khoa Sử, tôi học khoa Văn của trường Tổng hợp và cùng tham gia hoạt động Đoàn trường. Cái nhà bé tý 16m2 luôn dột và ngập nước của tôi, nơi tuổi hai mươi tôi nằm bò trên giường viết hàng kg thơ, cũng là nơi Nguyễn Hải Kế và Trần Ngọc Vương hay đến như những đứa con nuôi của bố mẹ tôi. Cùng là những người em, kém tôi hai ba tuổi, đều ở tuổi 20, nhưng Kế thì luôn cư xử chững chạc như một người anh lớn tuổi, còn Vương thì hồn nhiên thật thà như một cậu thiếu niên. Tôi thì chỉ biết làm thơ chia sẻ nỗi âu lo và những gian nan trong cuộc đời bố mẹ, nhưng Kế biết nói những câu nói mà bố mẹ tôi cần nghe, những câu nói, những câu đùa, những an ủi và cả phê bình nữa làm bố mẹ tôi vui trong phút giây gặp gỡ. Những câu nói những cử chỉ của Kế mà tôi chẳng thể nào bắt chước đã góp phần thắp sáng những niềm vui và hy vọng trong cảnh đời tận cùng cơ cực. Chính vì thế, khi bố tôi qua đời, tôi đã nhờ Kế đọc điếu văn trong tư cách một người con trong gia đình, người mà tôi tin sẽ có những tiếng nói làm bố tôi ấm lòng nới chín suối.
Cuôi thập kỷ 70, khi tôi đã về Viện Triết làm công tác nghiên cứu tư tưởng phương Đông, quanh năm xách cặp lồng cơm vào đọc sách và làm thơ trong thư viện, chính Kế đã lôi tôi về chất thơ của đời thường. Kế hay rủ tôi về Hải Phòng quê anh, đến nhà cô bé Khánh Chi làm thơ nổi tiếng lúc ấy, chơi với cả gia đình anh Trúc Chi và chị Xuân Lan. Khánh Chi có cô chị là Ban Mai, lúc ấy 15 tuổi, chị Lan quý Kế lắm cứ nửa đùa nửa thật gán cho chú Kế. Kế cũng tâm sự để lộ những rung động thầm kín với Ban Mai, một cô bé mười lăm tuổi mà đã có cái tần tảo của một người mẹ. Bây giờ nhớ lại, tôi thấy Kế rung động với những phẩm chất của tuổi già trong cô bé ấy. Rung động, nhưng vẫn không chịu xưng anh, vẫn giữ cốt cách nghiêm nghị hài hước của một ông chú. Và cuộc ú tim của ông chú có cặp mắt tình tứ với cô bé trong sáng nhạy cảm và ý tứ lúc ấy hiện ra trước mắt tôi giống như một người bị “bó xương văn hoá” đang diễn trò “uốn dẻo thi ca”.
Nhưng trong dáng vẻ bề trên thích xoa đầu người đẹp, dường như không bao giờ chịu đánh mất tư cách người trên trước bất kỳ mỹ nhân nào là một tâm hồn trẻ trung lãng mạn, với những ý tưởng và hành động rất xi-nê. Mỗi lần Kế rủ tôi đi tàu đêm xuống Hải Phòng, xuống tàu lúc trời cũng tờ mờ sáng, hai anh em theo ý tưởng của Kế lại ra vườn hoa leo lên hái hoa phượng vĩ, rồi ngồi trên ghế đá chờ khi tia nắng đầu tiên hửng lên mới ôm hoa vào gõ cửa nhà Ban Mai. Lần nào cũng thế, như một điệp khúc, như một mô-tif, nhưng tư thế và ứng xử của Kế thì không lặp lại, luôn bất ngờ, chủ động, sinh động và biến ảo khôn lường.
Kế đúng là một thi sỹ trong đời sống, biết làm cho chất thơ toả sáng trong những cuộc tiếp xúc dù ngắn ngủi, đem đến cho người khác một niềm vui nho nhỏ, một tia sáng văn hoá lung linh, bàng bạc trong những cử chỉ dung dị đời thường. Có cái gì đó thật hấp dẫn như một thứ hào quang toả ra từ cốt cách thiền sư hồn hậu cởi mở và thanh cao của Kế. Còn tôi, một thi sỹ làm thơ trong phòng họp, làm thơ trên tàu điện, làm thơ giữa căn nhà ngập nước, nhưng chẳng thể có một ý tưởng trẻ trung đầy chất thơ như những kịch bản mà Kế đã nghĩ ra và làm luôn diễn viên một cách tự tin và hồn nhiên như thế. Kế luôn đem đến cho mọi người - dù là người bình thường nhất Kế vừa mới gặp - những niềm vui gần gũi, giản dị, qua những lời nói và cử chỉ chân thật, luôn phảng phất một cái gì như trách nhiệm, nhưng lúc nào cũng lạc quan và đằm thắm tình đời. Và chị Lan, không giấu ước mong được có một chàng rể đáng yêu như thế, đã mấy lần lên Hà Nội thăm Kế, rồi cùng Kế đến nhà tôi. Và lần nào gặp gỡ ở nhà tôi mấy chị em cũng xắn tay vào làm cơm với món rán tôm băm trộn trứng...
Nhân cách sỹ phu Bắc Hà và tầm nhìn xa của nhà sử học
Nguyễn Hải Kế có phong thái của một nhà chính trị, nhưng cốt cách lại là một sỹ phu. Kế chia sẻ với tôi con người trẻ thơ, con người của đời thường, nhưng có một con người khác của tôi đang quẫy lộn dữ dội trong chính thời điểm ấy, là con người dấn thân vào môi trường chính trị để đấu tranh quyết liệt, thì Kế lại tỏ ra “ kính nhi viễn chi”, không ngăn cản cũng không tham dự.
Khi ra trường về viện Triết cuối thập kỷ 70, tôi và Vĩnh Quang Lê đã bị lôi vào cuộc đụng độ quan điểm chính trị và tổ chức trong giai đoạn cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc diễn ra. Chúng tôi chủ động bắt quan hệ với các uỷ viên Bộ chính trị như các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Vũ Oanh, Đào Duy Tùng…để kiến nghị và cảnh báo nhiều vấn đề lớn về tư tưởng và nhân sự như vấn đề chống Maoist nửa vời, cần tổ chức chống Maoist trong Đảng thật mạnh mẽ, quyết liệt để tránh hậu hoạ cho dân tộc sau này; vấn đề cải cách ruộng đất và nhân văn giai phẩm cần giải quyết hậu quả một cách cụ thể và triệt để; vấn đề tư tưởng làm chủ tập thể như một phương cách cải tạo Đảng từ ngoài Đảng cần phải có sự hỗ trợ về tổ chức từ trong Đảng để tránh trở thành bi kịch của nhân dân .v.v. Những ý kiến trong kiến nghị của chúng tôi đều được lắng nghe và xử lý. Ông Lê Đức Thọ cho biết đã lấy từ kiến nghị của tôi 5 điểm đưa vào Nghị quyết TƯ 5 năm 1986 về đổi mới văn hoá văn nghệ và đã thông báo cho Bộ văn hoá biết. Khi tôi giới thiệu GS Nguyễn Hồng Phong cho ông Vũ Oanh, ông đánh ô tô đến tận nhà GS ở số 6 Lý Thường Kiệt mời GS đến nói chuyện với Bộ Chính trị 6 buổi về đổi mới kinh tế. Đề án thành lập Uỷ ban Bảo vệ trí thức của tôi gửi lên Thủ tướng Phạm Văn Đồng không được chấp thuận, nhưng Thủ tướng cũng mời tôi và Vĩnh Quang Lê lên ăn cơm cùng hai bố con ông và giải thích chân tình lý do vì sao ông không thể đưa ra Bộ chính trị đề án của tôi. Sau này, song song với các đơn từ kiến nghị, chúng tôi còn giới thiệu nhiều nhân sự cấp cao cho Đảng. Các ông Đình Quang, Nguyễn Hải Thoại, Bùi Danh Lưu, Hữu Thỉnh, Nguyễn Thị Ngọc Tú và sau này là Nguyễn Trọng Nhân, Nguyễn Duy Quý, Trần Đức Lương…mà chúng tôi giới thiệu và kết nối đều được Đảng tín nhiệm đưa vào guồng máy lãnh đạo cấp cao.
Nguyễn Hải Kế, với những phẩm chất và bản lĩnh của mình chắc chắn sẽ được đưa vào những vị trí lãnh đạo cao cấp nếu như Kế chịu đi cùng chúng tôi đến gặp các Uỷ viên Bộ chính trị để trao đổi, đối thoại và tư vấn từ góc độ của người trí thức. Song, Kế có thể cùng chúng tôi đi thăm một người bình thường nào đó, một người thầy nào đó, hay đi đọc thơ cho sinh viên, giao lưu với công nhân…nhưng Kế không chịu đi cùng chúng tôi đến gặp các lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước, mặc dù tôi và Vĩnh Quang Lê đã gợi ý. Có lẽ, một niềm kiêu hãnh văn hoá của sỹ phu Bắc Hà, một quan niệm về nhân cách kiểu nhà Nho truyền thống thấm sâu trong thâm thức đã khiến Kế không đi theo chúng tôi dấn thân trên con đường “thuyết khách”. Hay trong tâm khảm, Kế tự tin hơn và có nhiều cảm hứng hơn trong những hoạt động gắn với các tổ chức cơ sở cụ thể, đúng với cương vị của mình?
Kế không theo chúng tôi tư vấn cho Đảng chuyện vĩ mô, nhưng khi chúng tôi khởi xướng những ý tưởng hợp với suy nghĩ và tình cảm của Kế, Kế đã tham gia chủ động, hết mình. Cuối năm 1983 đầu năm 1984, sau cuộc chiến đấu chống Trung Quốc xâm lược các điểm tựa biên giới được hình thành như một biểu tượng của ý chí Việt Nam trong giai đoạn mới. Ông Lê Đức Thọ đã trực tiếp lên biên giới Việt Trung thăm điểm tựa và viết bài thơ Điểm tựa rất cảm động, chia sẻ những khó khăn gian khổ với các chiến sỹ đang ngày đêm bảo vệ biên cương. Nhân dịp đó, tôi và Vĩnh Quang Lê gợi ý cho ông Vũ Mão lúc ấy là Bí thư thứ nhất TW Đoàn TNCSHCM phát động một phong trào “Vì điểm tựa tiền tiêu Tổ Quốc” trong Đoàn thanh niên cả nước. Ông Vũ Mão hưởng ứng ngay. Chúng tôi đề xuất việc để cho Đoàn TNCSHCM trường Đại học Tổng hợp tổ chức Lễ phát động phong trào, châm ngòi cho phong trào lan rộng trong cả nước. Lúc ấy, Nguyễn Hải Kế là Bí thư Đoàn trường Đại học Tổng hợp. Kế đã hào hứng, nhiệt tình tổ chức hội thảo về Điểm tựa và tổ chức Lễ phát động phong trào Vì điểm tựa tiền tiêu Tổ Quốc một cách sôi động và hiệu quả. Sự phối hợp trong hoạt động chính trị xã hội của anh em tôi thật ít ỏi, nhưng đó là một điểm son trong ký ức của tuổi trẻ một thời.
PGS-TS Nguyễn Hải Kế là một nhà nghiên cứu sử học và văn hoá học có tầm nhìn xa và có nhiều phát hiện độc đáo. Vào khoảng cuối thập kỷ 80, khi hầu như chưa ai nói gì đến cột mốc 1000 năm Thăng Long - Hà Nội thì Kế đã bàn với tôi về một bộ phim chào đón sự kiện trọng đại này. Lúc ấy chưa có máy photocopy, Kế chép cho tôi mấy chục trang tư liệu lịch sử lọc từ Đại Việt sử ký và các tài liệu khác, toàn những nhân vật và chi tiết hết sức độc đáo, thú vị, giàu chất điện ảnh để làm chất liệu cho tôi tư duy. Đến giờ tôi vẫn giữ những trang chép tay của Kế, với những nét chữ đẹp chân phương, biểu hiện một tâm hồn trong sáng, trân trọng cuộc đời, nâng niu từng con chữ nhỏ. Hơn chục năm sau vấn đề kỷ niệm 1000 năm Thăng Long mới được đề cập đến một cách chính thức trong xã hội. Sau này, Kế còn kể cho tôi những tư liệu dã sử thú vị về Thánh Gióng, gợi cảm hứng cho tôi viết kịch bản để làm một bộ phim huyền thoại “bom tấn” về chuyện Thánh Gióng từ trời cao quay trở về cứu mẹ thoát khỏi đám người hành hạ bà vì “tội” đã đẻ ra đứa con anh hùng làm bọn thuồng luồng tức giận quấy nhiễu dân làng.
*
Dạo ấy tôi viết nhiều kịch bản sân khấu kiểu kịch phi lý. Vở Người Việt Nam kỳ lạ kể chuyện một anh chàng Antonio ước mơ sau một đêm tỉnh dậy trở thành người Việt Nam. Và bi kịch đã đến khi giấc mộng trở thành hiện thực. Anh ta đến Việt Nam với một lý tưởng trần trụi trong một thân xác không tên, không hộ khẩu, không địa chỉ, không có mẹ cha. Và bi kịch của cái tốt thoát ly những ràng buộc cụ thể của đời sống Việt Nam đã ập đến với kết cục đầy chua xót. Vở kịch Kẻ cướp kể chuyện một giáo sư chế tạo ra loại thuốc tiêm vào người tốt thì sẽ hoá vàng. Ông ta trở thành một kẻ cướp đặc biệt, đào sẵn cái huyệt và rình đập chết những người được xã hội coi là tốt đi qua con đường ấy, chôn xống để mong đào lên lấy được bức tượng vàng. Những xác những người mà xã hội ca ngợi là tốt ấy đều lần lượt thối rữa. Cuối cùng, trong cơn tức giận, ông ta đập chết một cô gái mà xã hội nguyền rủa thì sau khi đào huyệt xác cô ta lại hoá bức tượng vàng.
Kế giới thiệu cho gia đình Ban Mai, Khánh Chi. Dạo ấy chưa có photocopy, tôi mang bản chính mấy vở kịch viết vào vở học sinh đưa cả cho nhà chị Lan, anh Trúc Chi mượn, rồi sau đó gia đình anh chị chuyển vào Nam. Không biết bây giờ anh chị và các cháu còn giữ những vở kịch ấy không. Nhưng trong lần cuối cùng gặp Kế ở Chùa Võng Thị, trong ngày làm lễ ngũ tuần cho bố tôi, Kế vẫn say sưa kể về những vở kịch ấy. Kế bảo đi đâu nói chuyện hay giảng bài Kế cũng kể về vở kịch người tốt hoá vàng, những quan chức bới lên đều thối hoắc. Và Kế cười vang hồn hậu như vẫn còn nguyên sự khoái chí với hình tượng ấy.
Có ngờ đâu đó là nụ cười cuối cùng kết nối chúng tôi với những kỷ niệm tuổi thanh xuân thơ mộng ở Hải Phòng quê hương Kế với vở kịch phi lý trào vọt hồn nhiên từ tuổi thanh niên ngập chìm trong suy tưởng của tôi. Trong sự bừng sáng ngẫu nhiên của ký ức định mệnh ấy, Kế trở thanh nhân vật cuối cùng trong vở kịch của tôi, một người tốt chưa hoá vàng mà kẻ cướp vô hình đang rình mò đâu đó để bảy tháng sau bất ngờ vùi xuống mộ. Nhưng, khác với nhân vật người tốt trong vở kịch phi lý của tôi, Kế không trở thành tượng vàng để thoả mãn lòng tham của bọn kẻ cướp, mà vẫn sống mãi trong ký ức của học sinh, bè bạn và đồng nghiệp như một sỹ phu Bắc Hà thanh cao, kiêu hãnh nhưng nhân hậu, bình dị và gần gũi. Và tôi tin, ở cõi khác Kế vẫn sống như một nghệ sỹ của đời sống luôn đem đến mọi người những cảm hứng lạc quan, những cái nhìn trìu mến và những lo toan chăm sóc ân cần, tinh tế, tự nhiên./.