Góc nhìn văn hóa
Hình ảnh các thầy cô giáo trong thơ ca
Ảnh minh họa
Mấy chục năm qua, mảng thơ viết về các thầy giáo, cô giáo đã gây được xúc động mãnh liệt trong lòng người đọc, để lại những ấn tượng sâu sắc. Bài viết sau đây sẽ điểm lại một số bài trong đó.
Trước hết, các nhà thơ đã khắc họa hình ảnh các thầy giáo, cô giáo với những phẩm chất cao đẹp. Qua các bài thơ, người đọc thấy rằng các thầy giáo, cô giáo luôn xác định rằng mình là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa - giáo dục, là một chiến sĩ trong sự nghiệp trồng người: “Mặt trận hôm nay mở dưới mái trường/Người thầy giáo mang tâm hồn chiến sĩ/Có ngọn bút trong tay làm vũ khí/Có ngọn đèn thao thức bao đêm” (Lê Nam - Người thầy giáo).
Nhờ xác định được ngay từ đầu như vậy nên trong suốt cuộc đời mình, người thầy tự nguyện làm người đưa đò, năm tháng trôi đi bất chấp mọi gian nan, vất vả, người thầy giáo vẫn mải miết đưa những chuyến đò sang sông. Dòng sông ấy, hình ảnh người đưa đò trên dòng sông ấy đã trở thành những kỷ niệm sống mãi trong trái tim nhiều thế hệ học trò: “Tháng năm dầu dãi nắng mưa/Con đò trí thức thầy đưa bao người/Qua sông giữ lại nụ cười/Đời thầy đưa biết bao người sang sông/Con đò mộc, mái đầu sương/Mãi theo em khắp muôn phương vạn ngày/Khúc sông ấy vẫn còn đây/Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông” (Thảo Nguyên - Người lái đò).
Những câu thơ chân thành, tha thiết nói lên lòng biết ơn của người học trò đối với thầy giáo, cô giáo: “Làm sao quên được ơn thầy/Công người dạy dỗ có ngày hôm nay/Nét đầu thầy phải cầm tay/Rèn con chữ viết mới ngay thẳng hàng/Nhớ thầy, nhớ chiếc đò ngang/Tay thầy chèo chống đưa sang bao người/Nhọc nhằn gian khổ vẫn vui/Vì đàn em nhỏ, vì đời mai sau/Từng đoàn kết nối kế nhau Dựng xây đất nước sớm mau bằng người” (Văn Chiểu - Nhớ công ơn thầy).
Ngoài dùng hình ảnh “người đưa đò” để viết về người thầy giáo, cô giáo các nhà thơ còn dùng hình ảnh “bụi phấn” để khắc ghi công ơn của người thầy: “Khi thầy viết bảng/Bụi phấn rơi rơi/Có hạt bụi nào/Vương trên bục giảng Có hạt bụi nào/Vương trên tóc thầy/Em yêu phút giây này/Thầy em tóc như bạc thêm/Bạc thêm vì bụi phấn/Cho em bài học hay/Mai sau lớn khôn rồi/Đời em có thể nào quên/Ngày xưa thầy dạy dỗ/Khi em tuổi còn thơ" (Lê Văn Lộc - Bụi phấn). Ở đây sự hy sinh của người thầy đã được miêu tả qua những hình ảnh đầy ấn tượng, qua những câu thơ mộc mạc, đầy chân thực.
Trong thơ viết về các nhà giáo, ta thấy có sự cảm thông chia sẻ với những khó khăn gian khổ, những vui buồn của các thầy cô ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà thơ Lê Đình Cánh đã nói lên nỗi vất vả, cực nhọc của các thầy, cô giáo trẻ tình nguyện xung phong mang ánh sáng văn hóa, mang con chữ đến với học trò vùng núi cao Tây Bắc: “Cô mang con chữ lên rừng/Đã qua mặn ngọt, đã từng cay chua/Đất nghèo, chữ ít người theo/Mà cô vẫn cứ miệt mài ngày đêm” (Cô giáo lên bản). Các cô giáo đã thầm lặng hy sinh tuổi xuân của mình, có khi ước ao có gia đình nhỏ, có chồng, có con mà mong ước đó vẫn chưa thành. Những câu thơ thật là cảm động: “Ở rừng tự hát ru nhau/Lá trầu chị héo, quả cau em già/Ước ao có một gian nhà/Có trưa đưa võng đón bà lên chơi” (Lê Đình Cánh - Cô giáo lên bản).
Tác giả Hà Trọng Bằng đã khắc họa một cách đậm nét chân dung nhà giáo, tình thương bao la đối với các học trò đã thúc giục các nhà giáo vượt qua mọi khó khăn đem kiến thức đến với các em để nuôi lớn những tâm hồn: “Ngày lại ngày cô đứng trên bục giảng/Mấy chục trò thương chăm chú nghe lời/Mắt sâu xuống, trán hằn bao suy nghĩ/Chỉ cho học trò vẻ đẹp những bài thơ/Như mẹ hiền chắt chiu từng dòng sữa/Lọc máu tim mình dành để nuôi con/Cô trăn trở chọn từng lời, từng chữ/Lọc từng tinh hoa nuôi lớn những tâm hồn/Như người trồng cây vui nhìn hạt giống/Có công mình góp chăm dồi dào sức sống/Trở thành rừng khắp đất nước thân yêu/Cô giáo tự hào hạnh phúc biết bao nhiêu!” (Niềm vui trên trang giáo án).
Lòng kính yêu, nhớ thương ngưỡng mộ thầy cô được thể hiện trong nhiều bài thơ. Đây là những câu thơ lục bát nặng ân tình: “Lời cô giản dị đơn sơ/Ngẫm sâu lại thấy vô bờ yêu thương/Nghĩ về cô dạ vấn vương/Em như lại được đến trường năm xưa/Xa cô đã mấy năm qua/Tình cô vẫn đẹp như hoa đời thường/Cô ơi sợi nhớ, sợi thương/Khi vui vương vấn, khi buồn vấn vương/Lời cô tình cảm yêu thương/Muốn làm én nhỏ về trường thăm cô/Để nghe cô giảng bài thơ/Lời cô nhỏ nhẹ bao dung dịu hiền” (Trần Thị Lập - Nghĩ về cô).
Tình cảm của học trò với cô giáo thật là đậm đà, thắm thiết. Và đây là vẻ đẹp của nhà giáo qua những câu thơ lục bát mượt mà, giàu hình tượng: “Dịu dàng tà áo thướt tha/Xinh tươi đằm thắm mặn mà nét duyên/Đoan trang thục nữ dịu hiền/Bảng đen, phấn trắng trinh nguyên một thời/Bền lòng nhiệt huyết chẳng vơi/Ươm mầm tri thức gieo đời tiếng thơm/Đâu cần đáp nghĩa trả ơn/ Mà bao năm vẫn sớm hôm miệt mài/Để trò vững bước ngày mai/Là nguồn hạnh phúc tương lai cô trồng/Tấm lòng luôn rộng mênh mông/Biết bao vất vả mà lòng vẫn vui” (Phan Lê - Cô giáo của em).
Trong thơ viết về đề tài nhà giáo, có nhiều bài viết về người thầy giáo thương binh khiến cho người đọc xúc động, như các bài: “Thầy giáo thương binh” của Vũ Mạnh Khởi; “Gặp lại thầy giáo thương binh” của Chu Huy; “Người thầy của chúng em” của Lê Khánh. Riêng nhà thơ Trần Đăng Khoa có 5 bài: “Bàn chân thầy giáo”, “Thầy đi bộ đội”, “Nghe thầy đọc bài thơ”, v.v... Tiêu biểu nhất là bài: “Bàn chân thầy giáo”, sau khi thầy đi bộ đội về thầy chỉ còn một chân, thầy vẫn tiếp tục nghề dạy học: “Thầy ngồi trên ghế giảng bài/Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ/Một bàn chân thầy không còn nữa”. Từ cái khiếm khuyết trên một phần cơ thể của người thầy, tác giả liên hệ đến cái chưa hoàn hảo của đời mình. Đây cũng chính là tấm lòng của nhà thơ cúi mình trước sự hy sinh và cống hiến của những người thầy giáo đã từng khoác áo lính. Tấm lòng, tâm hồn người thầy chính là tấm gương sáng cho mỗi chúng ta soi mình vào đó, nhìn nhận lại mình, tự thanh lọc tâm hồn mình để sống tốt hơn, hoàn hảo hơn: “Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo/Như nhận ra cái chưa hoàn hảo của cuộc đời mình” và những câu thơ làm hiện lên sống động trước mắt người đọc hình ảnh chiến trường đầy bom đạn, khói lửa và hình ảnh hiên ngang, dũng cảm của người thầy với bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc, bàn chân xông pha trận mạc góp phần cùng đồng đội làm nên chiến thắng: “Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh hay Tây Ninh, Đồng Tháp?/Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc/Cho em lẽ sống làm người/Em lắng nghe thầy giảng từng lời/Nghe thầm lặng bàn chân đi đánh Mỹ Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường/Em sẽ đi suốt chiều dài đất nước/Theo dấu chân người thầy năm trước”. Và Trần Đăng khoa đã kết thúc bài thơ bằng hai câu thơ: “Và bàn chân thầy bàn chân đã mất/Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời”. Bàn chân người thầy giáo thương binh tuy không còn hiện hữu trên đời nhưng đem lại cho các em học sinh bài học làm người, bài học về lòng dũng cảm, về đức hi sinh. Trong hai câu kết này sự đối lập giữa cái đã mất và cái trọn vẹn đã làm đọng lại những cảm xúc nồng ấm và tạo nên sức ám ảnh của bài thơ. Bàn chân của thầy đã mất nhưng vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời, kỳ diệu thay!
Và có những thầy giáo đi bộ đội ra chiến trường, hy sinh, trở thành liệt sỹ. Người học trò cũ sau 13 năm cách xa đến thăm thầy đã viết nên những câu thơ cảm động: “Tiếp đón tôi là một người thiếu phụ/Không còn khăn tang nhưng tóc trắng nửa mái đầu/Tôi nhìn lên tấm ảnh bạc màu/Thầy giáo của tôi không hề đổi khác/Hiện lại trong tôi những lời thầy giảng/Tự dưng tôi buột miệng: “thầy ơi!” (Ngọc Bái - Về một người thầy đã nằm lại chiến trường). Câu thơ đó như tiếng nấc nghẹn ngào, trào dâng, tiếng kêu như thấu cõi tâm linh, tiếng kêu của người học trò thành kính trước khói hương nghi ngút trên bàn thờ thầy.
Trong một bài viết nhỏ, chúng tôi không thể nói hết thơ về đề tài nhà giáo. Xin được chọn những câu thơ sau đây thay lời kết luận: “Trọn đời chèo chống đò ngang/Sông sâu, sóng cả mênh mang đôi bờ/Vẹn lòng chẳng chút đắn đo/Trọn niềm tin trước chuyến đò thế gian/Mặc ai mải kiếm giàu sang/Thầy tôi sau trước chẳng màng điều chi/Mặc ai tính toán suy bì/Thầy tôi một dạ lo vì mai sau/Lời thầy con tạc ghi sâu/Nghĩa nhân, nhân nghĩa là câu soi mình. (Vương Thị Xoan - Thầy tôi).
tin tức liên quan
Videos
Các di sản văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế
Khu di tích Kim Liên hành trình đến với trẻ em miền núi
Quê hương Nghệ Tĩnh trong lòng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Người Amish ở Mỹ
Đền Hồng Sơn
Thống kê truy cập
114511576
2239
2336
21950
218449
121356
114511576