Góc nhìn văn hóa

Liễu Nghị và câu chuyện tiếp biến từ văn học sang tín ngưỡng dân gian

Trong kho tàng văn học và tín ngưỡng dân gian, không ít nhân vật văn học đã bước ra khỏi trang sách để hiện diện trong đời sống tinh thần như những biểu tượng thiêng liêng. Một trường hợp tiêu biểu là Liễu Nghị, nhân vật chính trong Liễu Nghị truyện. Từ một hình tượng văn học của Trung Hoa cổ đại, Liễu Nghị đã được tiếp nhận, bản địa hóa và trở thành đối tượng thờ phụng tại nhiều nơi ở Việt Nam. Ở Nghệ An, đền Nghĩa Sơn (xã Hưng Nguyên Nam, tỉnh Nghệ An) là nơi Nhân dân tôn thờ Liễu Nghị như vị Thành hoàng làng. Bài viết này nhằm phân tích tiến trình tiếp biến văn hóa ấy từ phương diện văn học sang phương diện tín ngưỡng và di sản, qua đó khẳng định giá trị của Liễu Nghị truyện vẫn được bảo tồn và phát triển trong đời sống đương đại.

Đền Nghĩa Sơn

Hình tượng Liễu Nghị trong văn học cổ điển

Liễu Nghị truyện ra đời vào đời Đường (Trung Hoa) và nhanh chóng có ảnh hưởng sâu rộng trong kho tàng truyện truyền kỳ. Cốt truyện kể về chàng sĩ tử Liễu Nghị thi hỏng trở về quê, tình cờ gặp công chúa Thủy Tinh, con gái Long Vương Động Đình đang bị chồng là Kinh Xuyên bạc đãi, bắt đi chăn dê. Thủy Tinh nhờ Liễu Nghị gửi thư về Long cung cầu cứu. Chàng hoàn thành việc nghĩa, được ban thưởng nhưng từ chối vinh hoa, trở về nhân gian. Về sau, Thủy Tinh báo đáp, hai người kết duyên và hóa tiên.

Câu chuyện giàu tính biểu tượng: hành trình vượt khó, tinh thần trọng nghĩa khí, lòng chính trực và cái kết có hậu. Nhờ vậy, Liễu Nghị trở thành mẫu hình lý tưởng của tầng lớp sĩ phu phong kiến học rộng, giàu lòng chính nghĩa và biết hành động vì công lý.

Quá trình bản địa hóa: Liễu Nghị tại đền Nghĩa Sơn

Ở Việt Nam, đặc biệt tại Nghệ An, Liễu Nghị không chỉ là nhân vật văn học mà đã được Nhân dân tôn vinh thành Bản cảnh Thành hoàng. Thần phả đền Nghĩa Sơn ghi: “Liễu Nghị đậu Tiến sĩ, trên đường vinh quy gặp công chúa Thủy Tinh đang bị hắt hủi. Chàng nhận lời giúp đưa thư về Long cung. Nhờ bức thư, Thủy Tinh được minh oan và gả cho Liễu Nghị. Từ đó, Liễu Nghị trở thành vị thần phù trợ, che chở cho dân làng”.

Bài trí cung thờ Liễu Nghị Đại Vương tại đền Nghĩa Sơn

Tại đền Nghĩa Sơn thờ phụng cả hai nhân vật là Liễn Nghị và Thủy Tinh phu nhân. Thần Liễu Nghị có vị hiệu là: “Bản cảnh đệ tam Liễu Nghị Đại vương, gia tặng Dực bảo Trung hưng tối linh tôn thần”. Hai nhân vật này không chỉ là vị thần bảo quốc hộ dân mà còn là chỗ dựa tâm linh của cư dân vùng sông nước. Tại di tích hiện còn lưu giữ 2 sắc phong cho thần Liễu Nghị, nội dung sắc phong của triều đình ban tặng chứng tỏ sự hiện diện của Liễu Nghị trong tín ngưỡng Việt Nam không chỉ mang tính truyền miệng mà còn được thể chế hóa, ghi nhận bởi nhà nước phong kiến.

Bài vị và vị hiệu của thần Liễu Nghị

Nội dung sắc thứ nhất, ngày 25 tháng 9 năm Thành Thái thứ 6 (1894) có nội dung:

Sắc cho làng Nghĩa Sơn, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An phụng thờ thần Liễu Nghị. Trước nay, thần chưa được ban tặng sắc phong. Cho nên nay, trẫm cả vâng mệnh sáng, xa nghĩ ơn thần, trứ phong thần là Dực bảo Trung hưng Linh phù. Chuẩn cho thờ phụng như cũ. Thần hãy giúp đỡ, che chở bảo vệ cho dân ta.

Kính thay!

Nội dung sắc phong thứ 2, ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924) có nội dung:

Sắc cho làng Nghĩa Sơn, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An theo như trước thờ phụng tôn thần Linh phù Dực bảo trung hưng Liễu Nghị Đại Vương. Thần giúp đỡ đất nước, che chở Nhân dân, linh ứng đã lâu. Cho nên, nay đúng dịp tứ tuần đại khánh của trẫm [mừng thọ 40 tuổi của vua], đã ban chiếu báu tỏ rõ ân sâu, lễ lớn tăng thêm phẩm trật, trứ tặng thêm cho thần là Đoan Túc tôn thần, đặc chuẩn cho thờ phụng, dùng để ghi nhớ ngày mừng của đất nước mà tỏ rõ điển thờ.

Kính thay!

Giá trị văn hóa - tín ngưỡng

Việc tôn thờ Liễu Nghị tại đền Nghĩa Sơn là minh chứng điển hình cho quá trình tiếp biến văn hóa: một nhân vật từ văn học Trung Hoa được người dân địa phương tiếp nhận, gắn bó với đời sống văn hóa tâm linh tín ngưỡng trở thành vị thần hộ mệnh của nhân dân bản địa. Đây chính là quá trình bản địa hóa, làm giàu thêm hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Giá trị của hiện tượng này có thể khái quát ở ba phương diện: Thể hiện khát vọng hướng thiện, niềm tin vào công lý và đạo lý chính nghĩa; Tạo dựng mối quan hệ đoàn kết và ý thức bảo vệ quê hương, làng xóm đồng thời là chỗ dựa tinh thần trong đời sống tâm linh của cư dân vùng sông nước; Đền Nghĩa Sơn với tín ngưỡng thờ Liễu Nghị gắn với lễ hội của cư dân vùng sông nước có tiềm năng trở thành điểm đến du lịch văn hóa, tâm linh, góp phần phát triển kinh tế địa phương. Việc nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học và từng bước đưa tín ngưỡng thờ Liễu Nghị và lễ hội đền Nghĩa Sơn ghi danh vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là định hướng cần thiết, vừa để bảo tồn vừa để phát huy giá trị di tích.

Nhân vật Liễu Nghị là một ví dụ điển hình của sự chuyển hóa từ hình tượng văn học thành đối tượng thờ phụng dân gian. Quá trình bản địa hóa ấy phản ánh sức sống bền bỉ của văn học, sự sáng tạo trong tín ngưỡng và nhu cầu duy trì hệ giá trị đạo lý trong đời sống cộng đồng. Đền Nghĩa Sơn, nơi tôn thờ Liễu Nghị, không chỉ là một địa chỉ văn hóa tâm linh đặc sắc của Nghệ An mà còn xứng đáng được quan tâm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy như một phần của kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.

 

Tài liệu tham khảo

·       Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Hưng Nguyên (2023), Di sản Hán Nôm ở huyện Hưng Nguyên, NXB Nghệ An.

·       Ninh Viết Giao (2015), Tục thờ thần và Thần tích Nghệ An, NXB Khoa học Xã hội.

·       Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB Giáo dục.

·       Trần Nghĩa (chủ biên) (1996), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.

·       Đinh Gia Khánh - Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục.

·       Tư liệu điền dã tại xã Long Xá, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (2024–2025).

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114618389

Hôm nay

247

Hôm qua

2415

Tuần này

2697

Tháng này

221403

Tháng qua

133594

Tất cả

114618389