Góc nhìn văn hóa

Lý Thị Châu Nương: Từ Bà Chúa Kho ở Hà Nội đến Thần Khai cơ ở Diễn Châu - Một hiện tượng đa nghĩa trong tín ngưỡng thờ nữ thần

Vai trò của phụ nữ trong tiến trình lịch sử Việt Nam là một dòng chảy liên tục và phong phú. Chính sử ghi nhận những tấm gương nghĩa liệt như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bùi Thị Xuân… những người có nhiều công lao đóng góp cho dân tộc. Không chỉ dừng lại ở những nhân vật được sử sách lưu danh, kho tàng văn hóa dân gian còn tôn vinh vô số phụ nữ bình dị nhưng có công lao khai cơ mở đất, cứu dân, dựng làng, truyền nghề... Sự tồn tại của họ làm nên bức tranh đa sắc màu về vai trò của người phụ nữ trong lịch sử.

Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, hình tượng nữ thần xuất hiện đa dạng: từ hệ thống thờ Mẫu, thờ các nữ thần, đến các bà chúa, bà cô,… Nghệ An là một địa phương có nhiều di tích thờ nữ thần với nhiều nhân vật gắn liền lịch sử khai hoang lập làng, trong đó có trường hợp Lý Thị Châu Nương. Bà được thờ phụng ở nhiều địa phương với ý nghĩa khác nhau. Tại Hà Nội, bà được biết đến như Bà Chúa Kho, người quản khố trung liệt bảo vệ tài sản quốc gia; còn ở Diễn Châu, Nghệ An, bà trở thành Thần Khai cơ, người khai hoang lập ấp, mở mang ruộng đất và bảo trợ sự hưng thịnh của cộng đồng làng xã. Việc nghiên cứu trường hợp này góp phần nhận diện sự đa dạng, linh hoạt trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và khẳng định vị thế của phụ nữ trong lịch sử dân tộc.

Từ Bà Chúa Kho ở Hà Nội

Theo thần phả và sắc phong tại đình Giảng Võ (Hà Nội), Lý Thị Châu Nương là con gái quan Điện hộ binh lương thời Trần, quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Từ nhỏ bà đã nổi tiếng thông minh, giỏi văn võ, tinh thông binh thư, lại có nhan sắc, khí chất cương trực. Khi đến tuổi trưởng thành, bà kết duyên cùng Trần Thái Bảo và theo chồng vào trấn giữ châu Hoan.

Đình Giảng Võ (Hà Nội) thờ Lý Thị Châu Nương

Khi giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta, trong lúc thành châu Hoan bị vây hãm, bà không hề nao núng mà buộc tóc giả trai, khoác áo giáp ra trận, đích thân chỉ huy 2.000 gia binh chiến đấu kiên cường, bảo vệ thành trì và kho lương. Bà không chỉ tổ chức phòng thủ, mà còn bày mưu lập kế, điều phối lương thực, củng cố tinh thần quân sĩ, nhờ đó thành trì trụ vững cho đến khi quân triều đình kéo về giải vây.

Được tin quan Thái Bảo thắng trận, nhà vua triệu hai vợ chồng về kinh khen thưởng. Trần Thái Bảo được giao giữ chức Tiền quân Thánh Dực, chỉ huy một đạo quân hộ vệ nhà vua. Châu Nương được giao nhiệm vụ trông coi kho tàng ở kinh đô Thăng Long. Sau khi chồng tử trận ở Thao Giang, bà nén đau thương tiếp tục gánh vác trọng trách, trông coi và bảo vệ an toàn kho tàng quân lương của triều đình. Sự mưu trí và quả cảm của bà được triều đình và Nhân dân ngợi ca, coi là tấm gương trung liệt của nữ giới. Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm, vua Trần đã sắc phong cho bà “Quản chưởng Quốc khố Công chúa” và giao cho vùng Võ Trại lập đền thờ phụng, hiện nay đình Giảng Võ là nơi thờ phụng Quản chưởng Quốc khố Lý Thị Châu Nương. Hình tượng Lý Thị Châu Nương trong tâm thức người dân Thăng Long gắn liền với hình ảnh một nữ quản khố tận trung, tận hiếu, bảo vệ tài sản quốc gia, là chỗ dựa tinh thần cho quân dân trong kháng chiến.

Đến Thần Khai cơ ở Diễn Châu, Nghệ An

Đình Phượng Lịch, Diễn Châu, Nghệ An thờ bà Hồng Thị Châu Nương

Theo “Diễn Châu Địa chí Văn hóa và Làng xã”, “Tục thờ thần và thần tích Nghệ An”, “Địa chí xã Diễn Hạnh” cho biết: Năm 1266, triều đình nhà Trần xuống chiếu cho Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải vào làm quản hạt Nghệ An với nhiệm vụ củng cố, xây dựng lực lượng ở phương Nam để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông.

 Công chúa Hồng Thị Châu Nương([1])vợ ba của Thượng tướng Trần Quang Khải([2]) cũng vào theo. Vào đây, bà chiêu dân lập ấp, mở ra trang trại lớn gọi là Giang Lâm bao gồm hai xã Diễn Quảng và Diễn Hoa nay là xã Diễn Châu. Bà xây dựng vùng đất này thành nơi sản xuất và tích trữ lương thực, đặt kho vũ khí, dựng trại tuyển quân và luyện tập binh sĩ để chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài chống quân Nguyễn Mông của nhà Trần. Tại trang trại này có cánh đồng quân là trại quân lính đóng và luyện tập hàng ngày, có chuồng voi, chuồng ngựa, có cồn Tiền…Hiện nay, Nhân dân mỗi khi làm thủy lợi hay đào giếng, còn bắt gặp những khí như gương, giáo, bạt xà mâu và hàng đống tiền cũ.

Không chỉ lo việc quân, bà còn chăm lo đời sống dân sinh: cho đào ba giếng lớn (giếng Chuỗi, giếng Thống và giếng Ráng) để cung cấp nước ngọt, bày dân cách cày cấy theo mùa vụ, dạy nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt vải, mở mang nghề thủ công, góp phần làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế - xã hội của cư dân địa phương.

Để tri ân công lao của bà, Nhân dân nhiều thôn xã trong vùng đã lập đền thờ phụng như đền Tứ Phái, đền Voi Mẹp,...Tại đình Phượng Lịch, bà được thờ với tư cách là vị thành hoàng Khai cơ lập làng, có công phù hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhân khang vật thịnh.

Như vậy, ở Diễn Châu, hình tượng bà Châu Nương đã vượt khỏi phạm vi một vị phu nhân của danh tướng Trần Quang Khải để trở thành biểu tượng khai cơ lập làng, bảo trợ cho sự hưng thịnh làng xã.

Sự chuyển dịch ý nghĩa từ Bà Chúa Kho đến Thần Khai cơ

Ở Hà Nội, hình tượng Lý Thị Châu Nương gắn với vai trò bảo vệ kho tàng quốc khố, phản ánh quy mô, tính chất quốc gia, dân tộc. Trong khi đó, ở Diễn Châu, bà gắn liền với công lao khai hoang, lập làng, mang ý nghĩa cộng đồng, địa phương. Sự khác biệt này thể hiện tính linh hoạt và địa phương hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, khi một nhân vật lịch sử được gắn với nhiều chức năng khác nhau theo nhu cầu tâm linh của từng cộng đồng.

Trường hợp Lý Thị Châu Nương cũng cho thấy vai trò quan trọng của phụ nữ trong lịch sử: không chỉ trong gia đình mà còn trực tiếp tham gia quân sự, kinh tế, xã hội. Bà vừa là một nữ tướng, vừa là người khai mở đất đai, lập làng, trở thành chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng làng xã.

Trường hợp Lý Thị Châu Nương là minh chứng đặc sắc cho hiện tượng một nhân vật - nhiều tầng ý nghĩa trong tín ngưỡng Việt Nam. Ở Hà Nội, bà là Bà Chúa Kho - người giữ gìn tài sản quốc gia; còn tại Diễn Châu, bà là Thần Khai cơ - người khai cơ, lập làng. Hai hình tượng này vừa khác biệt vừa bổ sung cho nhau, phản ánh sự phong phú, linh hoạt trong tín ngưỡng dân gian, đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của phụ nữ trong lịch sử dân tộc.

Việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ bà Châu Nương - đặc biệt là Đình Giảng Võ, đình Phượng Lịch, đền Tứ Phái, đền Voi Mẹp, không chỉ góp phần khẳng định giá trị di sản văn hóa mà còn làm phong phú thêm bức tranh tín ngưỡng Việt Nam, gắn kết ký ức quốc gia với ký ức cộng đồng làng xã.

 

Tài liệu tham khảo

1.     Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học.

2.     Ninh Viết Giao, Trần Hữu Thung (1995), Diễn Châu Địa chí Văn hóa và Làng xã, Nxb Nghệ An.

3.     Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Nxb Nghệ An.

4.     Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ xã Diễn Hành (2005), Lịch sử Đảng bộ xã Diễn Hạnh, Nxb Nghệ An.



[1] Thần tích ở đình Giảng Võ cho biết bà là Lý Thị Châu Nương, còn thần tích ở Nghệ An ghi nhận bà Là Hồng Thị Châu Nương

[2] Thần tích ở đình Giảng Võ ghi lại chồng của Lý Thị Châu Nương là Thái Bảo họ Trần không có tên tuổi đầy đủ, còn thần tích ở Nghệ An ghi rõ là Thượng tướng quân Trần Quang Khải.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114627700

Hôm nay

2367

Hôm qua

2447

Tuần này

2814

Tháng này

230714

Tháng qua

133594

Tất cả

114627700