Những góc nhìn Văn hoá

Điển tín văn hóa giới của người Nghệ Tĩnh qua hát Giặm Nghệ Tĩnh và ảnh hưởng của chúng trong thời kỳ hiện đại

1. Sức lan tỏa của Ví, giặm Nghệ-Tĩnh

Có lần đi du lịch ở Nha Trang, tôi và chồng tôi cùng đi đến Jang-bay, một vùng du lịch trên núi có suối ồn ào chảy qua như mời mọc. Trong cuộc đi chơi đó, Ban tổ chức nói: xin mời bà con ai xung phong thi “Đầu bếp giỏi”. Bất ngờ, ông Thuỵ chồng tôi lại xung phong tham gia trò vui thi nấu ăn giỏi (nấu xong phải trình bày về tên gọi các món nấu, giá trị, ý nghĩa…). Nhà tôi là người đàn ông duy nhất thi nấu ăn trong buổi sáng hôm đó cùng với 9 người phụ nữ khác. Sau khi 9 người phụ nữ trình bày các món ăn, đặt tên, ý nghĩa theo yêu cầu xong thì đến lượt ông Thụy cuối cùng.

Tôi nhớ, sau khi ông Thụy trình bày xong, Ban giám khảo có câu hỏi: Đề nghị bác cho biết bác từ đâu tới? Nhà tôi trả lời: Từ Nghệ Tĩnh. Vậy đề nghị bác hát bài đặc sắc nói về nơi bác đang sống “Giận mà thương” (Thực tình ông Thụy nhà tôi là người Ninh Bình). Tôi tự nghĩ, ông Thụy đã 65 tuổi rồi, hát bài này làm sao được. Không ngờ, nhà tôi hát ngay: “Ơ.., Anh ơi khoan vội (mà) bực mình, Em xin kể lại (mà) phân minh cho anh tỏ tường, anh cứ nhủ rằng em không thương, Em đo lường thì rất cặn kẽ, Chính thương anh nên em bàn với mẹ, Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường, Giận thì giận mà thương thì thương, Giận thì giận mà thương thì thương, Anh đi sai đường, em không chịu nổi, Anh yêu ơi, xin anh đừng có giận vội, mà trước tiên anh phải tự trách mình…” Hát xong, mọi người đứng xung quanh vỗ tay rào rào, và BGK hỏi: Bây giờ cho bà con thống nhất chọn ai được giải nhất. Mọi người liền hô to lên: Bầu ông này, ông vừa hát xong. Thế là ông Thụy được giải nhất. Tôi (chỉ là người quan sát chứ không hề làm gì cả) bỗng bật cười khá to, vui quá. Quà chẳng có gì đắt tiền, chỉ có chiếc đĩa bằng đá có in chữ: “Giải nhất - đầu bếp jangbay”. Điều làm tôi ngạc nhiên vô cùng là ở một xứ nói tiếng Nam Bộ, chứ không phải tiếng miền Trung (như tôi) hay tiếng miền Bắc (như ông Thụy), những con người đến đây du lịch là dân tứ chiếng: miền Nam, miền Bắc, và cả người nước ngoài, vậy mà ai cũng thích bài Ví giặm Giận mà thương. Ban tổ chức là những người ở ngay Nha Trang mà lại yêu cầu hát bài Ví giặm“Giận mà thương” (của Nghệ Tĩnh). Thế mới biết sức sống trường tồn, sự lan tỏa của lời ca cũng như nhạc điệu mang âm hưởng của Ví giặm Nghệ Tĩnh cho đến hôm nay thật kì diệu. Bài hát lấy lời của người phụ nữ - người vợ bộc lộ tình cảm với người chồng, hay người yêu nói với người yêu một cách có lý có tình Giận thì giận mà thương thì thương.

2. Về khái niệm điển tín và điển tín giới

2.1. Về khái niệm điển tín, trong đề tài Điển tín và điển tín về giới của tác giả Nguyễn Thị Hương, tác giả trình bày khái niệm điển tín được hiểu theo từng lĩnh vực khoa học như sau: “Đối với lĩnh vực tâm lý học xã hội và xã hội học, stereotype (tiếng Anh)/ stéréotype (Tiếng Pháp) là những niềm tin, biểu tượng tinh thần có thể đúng hoặc sai hợp thành những hiểu biết của chúng ta mà chúng ta dựa vào đó để phân loại, đánh giá người khác hoặc nhóm người khác. Đây là những niềm tin, biểu tượng mang tính tập thể, được các cá nhân trong cùng một cộng đồng người chia sẻ và có một tác dụng chi phối nhất định đối với nhận thức của chúng ta về thế giới và cung cách ứng xử của người khác cũng như những nhóm người khác. Ví dụ, quan niệm cho rằng người Nghệ Tĩnh ki bo, người miền Nam bộc trực, người Pháp lịch sự, người Anh lạnh lùng, con gái miền Tây chiều chồng nhưng sống dựa dẫm, phụ nữ thích hoa, đàn ông gia trưởng...là những stereotype/ stéréotype [5, tr.5].

Còn đối với lĩnh vực ngôn ngữ học, khái niệm stereotype/ stéréotype được sử dụng trong các chuyên ngành hẹp khác nhau với những nghĩa khác nhau. Với chuyên ngành ngữ nghĩa học, thì stereotype/ stéréotype là nét nghĩa tiêu biểu mang tính chất bách khoa hợp thành cấu trúc ngữ nghĩa của từ và dùng để miêu tả sở chỉ của từ. Ví dụ khi nghĩ đến từ hổ người ta nghĩ ngay đến nét nghĩa đường vằn. Đối với chuyên ngành phong cách học, stereotype/ stéréotype là những cách diễn đạt tầm thường, không độc đáo, không mang tính sáng tạo, kiểu như khi miêu tả mùa thu thì dùng biểu thức  ‘những tấm thảm lá vàng’, mùa xuân thì ‘trăm hoa đua nở’, cô gái đẹp thì ‘đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu’, chàng thanh niên thì ‘to khỏe, vạm vỡ’, đôi mắt em bé thì ‘đen tròn như hạt nhãn’, hội nghị thì ‘thành công tốt đẹp’. Đối với chuyên ngành phân tích diễn ngôn, stereotype/ stéréotype là những yếutố có sẵn, tồn tại từ trước, làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển của diễn ngôn, cho phép giao tiếp bằng ngôn từ diễn ra một cách suôn sẻ. Đó là những yếu tố liên diễn ngôn được người phát đưa vào diễn ngôn và được người nhận giải mã. Những người tham gia giao tiếp chỉ có thể giao tiếp với nhau và tác động lẫn nhau bằng việc dựa vào các biểu tượng tập thể cố định, vào những niềm tin được chia sẻ và chấp nhận. Ví dụ người đọc sẽ không cảm nhận được hoặc không thể cảm nhận hết vẻ đẹp tinh tế của hình tượng đôi bàn tay trong mấy câu thơ: Trời mưa lạnh tay em khép cửa/ Em phơi mền vá áo cho anh/ Tay cắm hoa tay để treo tranh/ Tay thắp sáng ngọn đèn đêm em đọc/ Năm tháng qua đi mái đầu cực nhọc/ Tay em dừng trên vầng trán âu lo… (Bàn tay em, Xuân Quỳnh) nếu không có những hiểu biết về hình mẫu truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dịu dàng, nhân hậu, vị tha, hi sinh tất cả cho chồng con, khao khát yêu thương và che chở, lấy sự tồn tại của những người mình yêu làm lẽ tồn tại của mình [5, tr. 6].

Từ những điều vừa trình bày trên có thể thấy, mặc dầu có những sự khác nhau trong quan niệm về stereotype/ stéréotype nhưng các ngành lại gặp nhau ở một điểm chung sau: stereotype/ stéréotype không phải là một sự sản sinh đặc biệt của một cá nhân cụ thể mà ngược lại, nó ra đời từ sự lưu hành và lặp đi lặp lại trong lòng một cộng đồng ngôn ngữ, văn hóa và tư tưởng. Như vậy, điều chúng tôi kế thừa cách sử dụng khái niệm điển tín ở đây là dưới góc nhìn xã hội học, là những niềm tin, biểu tượng mang tính tập thể, được các cá nhân trong cùng một cộng đồng người chia sẻ và có một tác dụng chi phối nhất định đối với nhận thức của chúng ta về thế giới và cung cách ứng xử của người khác cũng như những nhóm người khác.

2.2. Về khái niệm điển tín giới (nam hay nữ), cũng theo Nguyễn Thị Hương: điển tín giới là những biểu tượng về giới, những niềm tin về giới tồn tại trong cộng đồng người Việt do đặc điểm xã hội, văn hóa, tư tưởng của người Việt quy định và đến lượt nó, điển tín giới lại có tác dụng chi phối đến nhận thức, hành động, ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng cũng như những quan niệm, đánh giá về người khác hoặc giới khác[5, tr.24].

Trên thực tế, hiện nay có những điển tín giới tốt, xấu lẫn những điển tín không còn phù hợp, không còn tính thuyết phục trong cộng đồng, chẳng hạn, câu tục ngữ: Đàn bà đái không qua ngọn cỏ ngày nay không còn phù hợp. Phụ nữ đã có sự học hành, phát triển về trí tuệ, hoàn thành những công việc có thể nói, ngang với nam giới, tuy vậy, sự kì thị giới tính vẫn còn khá nặng nề trong cộng đồng nói chung, nhất là trong gia đình. Với quan niệm điển tín giới như trên, sau đây, chúng tôi đi sâu tìm hiểu những điển tín về giới nữ, thể hiện qua Hát giặm Nghệ Tĩnh để thấy rõ cơ sở của những niềm tin, những mặt tích cực đáng trân trọng của nữ giới Nghệ Tĩnh,và cũng qua đó, chúng ta hiểu thêm lý do tại sao ngày nay, thể Hát giặm Nghệ Tĩnh này cần được duy trì, phát triển, được yêu thích trong xã hội hiện đại một cách có ý thức.

3.Một số điển tín-nét độc đáo về đặc trưng văn hóa-xã hội - của nữ giới Nghệ Tĩnh qua Hát giặm Nghệ Tĩnh

Đọc hai tập Hát giặm Nghệ Tĩnh, chúng tôi nhận thấy có những nét riêng về văn hóa vùng miền-văn hóa xứ Nghệ, nhưng trong đó nét nổi bật, tạo thành điển tín là đặc trưng văn hóa- xã hội của người phụ nữ Nghệ Tĩnh. Trong Hát giặm Nghệ Tĩnh, tập 1, có 95 bài, bên cạnh những bài có nhắc đến người phụ nữ Nghệ Tĩnh thì có đến 28 bài với chủ đề nói đến người phụ nữ, chiếm 29,47%, như: (1) Chăn tằm; (2) Đi củi; (3) Đôi ta bứt củi dốc dài; (4) Nghề làm nón; (5) Hàng xáo Thung Lương; (6) Buôn bán gánh gồng; (7) Buôn gạo chợ Vinh; (8) Buôn dâu; (9) Các o xóm ta; (10) Đi chợ ăn quà; (11) Con dâu Bá Hộ; (12) Bõ công em lấy chồng buôn bán miền Thanh; (13) Nuôi chồng ăn học; (14) Lấy chồng nho sỹ (Bài thứ nhất); (15) Lấy chồng nho sỹ (Bài thứ hai); (16) Chàng đi dặn thiếp ở nhà; (17) Vợ lính thăm chồng; (18) Phận đàn bà con gái; (19) Thân em như hạt mưa sa; (20) Con đi lấy chồng mẹ đã dặn hết lời; (21) Cảnh làm lẽ (Bài thứ nhất); (22) Cảnh làm lẽ (Bài thứ hai); (23) O Tần về Mạc; (24) Xin trả lại cho người; (25) Mẹ dòng than thở cùng con; (26) Khuyên mẹ dòng tái giá; (27) Người phụ nữ thành Vinh; (28) Đối thoại giữa ông Bếp với bà Thiên Đài. Trong tập 2 có 76 bài, trong đó có 67 chủ yếu nói đến vua, phong trào cách mạng, chỉ có 9 bài nói về phụ nữ: Chàng ơi vị quốc vong thân, Em khuyên chị, Khuyến tín nữ, Vận động phụ nữ cứu nước, Kể chuyện năm châu (Em ngồi kể chuyện năm châu, tr.133), Khuyên anh anh phải lo lường, Khuyên chàng xuất dương du học, Khuyên chàng đua đuổi kịp người, Vợ khuyên chồng bầu nghị viên. Như vậy, trong tổng số bài của cả hai tập là 171 bài thì có 37 bài lấy vai là phụ nữ, chiếm 21,6%, cứ khoảng 10 bài thì có 1 bài là lời nữ giới.

Trong những bài này, chúng tôi nhận thấy nổi lên những điển tín thể hiện: đặc trưng xã hội, đặc trưng văn hóa của phụ nữ Nghệ Tĩnh như sau:

3.1.Điển tín về đặc trưng xã hội của nữ giới biểu hiện qua Hát giặm Nghệ Tĩnh

Điển tín về đặc trưng xã hội của nữ giới trong Hát giặm Nghệ Tĩnh được thể hiện:

a) Thứ nhất là điển tín về nghề nghiệp. Phụ nữ Nghệ Tĩnh phần đa là làm nghề nông (tức làm ruộng), ngoài ra còn có những nghề phụ như chăn tằm, đi củi, làm nón, hàng xay hàng xáo, buôn bán gánh gồng, buôn gạo, buôn dâu, dệt vải. Ví dụ: Cức chi bấm chí làm giàu, Hàng xay hàng xáo là đầu đi buôn [Hàng xáo Trung Lương, tr.108]; Nghề bán buôn không hạn, Chỉ rày đó mai đây, Giừ thiếp nắm lấy tay, Dặn việc nhà sau trước [Buôn bán gánh gồng, tr.119]; Quả cau non đưa bửa, Ngọn trầu quế đưa têm, Nào chị chị em em, Đi cùng nhau vui vẻ, Đi một phường vui vẻ (Buôn gạo chợ Vinh, tr.125]; Giừ (giờ) người khôn của khó, Sinh ra kế buôn dâu [Buôn dâu, tr.130]; Kẻ trèo non vượt bể, Người đi học, đi cày, Kẻ bông vải vá may, Người cắt tranh bán cỏ [Buôn dâu, tr.131]; Kẻ đi buôn đi bán, Kẻ đi cuốc đi cày, Người thuyền thợ vá may, Khắp trên rừng dưới bể; Kẻ buôn tơ bán giấy, Người buôn rượu bán dầu, Kẻ buôn thuốc, bán trầu [tr.232].

  b) Thứ hai, điển tín về vị thế xã hội của những người phụ nữ Nghệ Tĩnh, thể hiện qua lời hát, chủ yếu xét từ quan hệ gia đình để đánh giá, nhìn nhận vai xã hội của người phụ nữ. Một số ít bài, vai xã hội đề cập đến phụ nữ thì cũng là vai người láng giềng gần gũi, như bài: Các o xóm ta. Ngay cả  trong bài Người phụ nữ thành Vinh, các chị là những người phụ nữ được tả hết sức có khí thế, oai phong, đáng nể phục nhưng vẫn được nhìn từ góc nhìn của gia đình: Mẹ mi mô (ở đâu) ngồi lại, Tau (tao) đi tỉnh mới về, Chộ những cái thật ghê ! Ngồi đây ta nói chuyện: Trước vườn hoa bưu điện, người phụ nữ thành Vinh, Cùng nhau họp mít-tinh, thề hy sinh chiến đấu.

Như vậy, qua sáng tác dân gian của người dân ở đây, phần lớn người phụ nữ chủ yếu được đặt trong quan hệ gia đình để đề cập đến những vấn đề xã hội. Trong Hát giặm Nghệ Tĩnh, người phụ nữ có các vai xã hội để phát biểu, được thể hiện qua: lời mẹ dặn con, lời vợ nói với chồng, lời em nói với chị, lời người phụ nữ nói với bạn, lời của người láng giềng miêu tả chị em. Các chị được thể hiện qua các vai: b1) Gái chưa chồng (Thân em như hạt mưa sa, biết đâu êm thấm để mà dựa thân) nên các chị được gọi là o, như: O Nga có kẻ đi trầu; O Đoan trong nhà giàu có, lắm kẻ vô ra; O Hoe Tiệp 19 đôi mươi, chưa thành gia thất; O Chiên ở cửa nhà bà, hai ba nơi tấp tểnh; O Niêm hiền lành, chạm cột cầu sơ ý); b2) Gái chuẩn bị lấy chồng (Mẹ dặn đêm dặn ngày, dặn từ khi chưa đi hỏi; hoặc người mẹ dạy sự rèn giữ cho con gái: Con giữ lấy nết na, Con ở cho hiền hậu; Mẹ dặn con đi chợ, thì chớ ăn quà; Khi đò đầy chớ qua, giữ con người thanh lịch [tr.278]; b3) Gái đã được đi ăn hỏi nhưng trả giá (Trầu người đi dạm, tôi xin trả cho người, để tôi về kiếm lứa tìm đôi); b4) Gái đã lấy chồng với sự vừa ý: Trăm giống gì tươi tốt, Mua thăm cha mẹ mới giành, Bỏ công em lấy chồng buôn bán xứ Thanh), hoặc bị diễu cợt: Mừng cho ông bà ta đây, được nàng dâu không ai có; b5) Gái đi làm lẽ (Chồng chung khổ lắm ai ơi, Ai bước chân vô đó, không ăn ngồi được mô); b6) gái trở thành mẹ dòng (Duyên vì ai dang dở, phận tơ tình dang dở), hoặc : mẹ dòng nên đi lấy chồng (Dòng lại gặp lấy dòng, Cân tạo hóa mới xong)…

  c) Thứ ba, điển tín vai xã hội thể hiện về tuổi tác của những người phụ nữ Nghệ Tĩnh. Trong các bài Hát giặm Nghệ Tĩnh, người phụ nữ được nhắc đến chủ yếu ở ba giai đoạn ứng với ba độ tuổi khác nhau, đó là: c1) Tuổi còn trẻ, chỉ độ 19 đôi mươi, thể hiện qua bài Các o xóm ta: O Nhu lật đật, Lấy quách chồng đi, Trai trên làng vân vi, Bạn dưới làng tiếc mãi; c2) Tuổi trung niên, độ 30 đến 40 thể hiện qua bài Người phụ nữ thànhVinh thì: Tóc đều cắt ngắn hết, Chân đi giày xăng đan, Giống in vệ quốc đoàn, Cũng nhung phong gọn ghẽ, hoặc trong bài Khuyên mẹ dòng tái giá thì: Giừ tuổi đã ba mươi, Còn nói năng chi nữa; c3) Tuổi đã già thể hiện qua bài Con đi lấy chồng mẹ đã dặn hết lời: Mẹ dặn đêm dặn ngày, Dặn từ khi chồng chưa đi hỏi, hoặc qua bàiĐối thoại giữa ông Bếp với bà Thiên Đài: Già không lo thân già, Già còn đeo thói nguyệt hoa, Bụng thì ranh như ma, Da thì đen như mọi, Nghe ba hột khói, con mắt nhảo choèn.

3.2. Điển tín về đặc trưng văn hóa nữ giới biểu hiện qua Hát giặm Nghệ Tĩnh

Qua các bài Hát giặm Nghệ Tĩnh đã thống kê trên, chúng tôi thấy những đặc trưng văn hóa tiêu biểu nổi lên khá rõ, đó là:

a. Thứ nhất là điển tín về người phụ nữ chịu thương chịu khó lao động. Có thể nói phụ nữ ở những vùng miền khác nhau thì sống bằng những nghề khác nhau. Người phụ nữ Nam Bộ, khi lao động thì thường gắn với sông nước, người phụ nữ Bắc Bộ thì khi lao động thường gắn với những cánh đồng thẳng cánh cò bay, còn người phụ nữ Nghệ Tĩnh thì do đồng ruộng không rộng, không nhiều, lại chịu sự khắc nghiệt của thiên nhiên, gió lào khô, rát bỏng cho nên mỗi vụ mùa, họ thu hoạch không cao lại có năm mất mùa. Chính vì vậy, không chịu khó, chịu khổ thì không sống nổi, và trong lao động, người phụ nữ thường kèm thêm các ngành phụ (đi củi, buôn bán đường xa, như: gạo, dâu, vải), dệt vải, chằm nón. Trong những những nghề mà người phụ nữ Nghệ Tĩnh tham gia từ rất sớm, luôn sánh cùng nam giới lao động là đi củi trên rừng để kiếm sống. Họ luôn cùng bàn bạc, cùng trao đổi, và có ý kiến với người chồng, hoặc với bạn nam khá bình đẳng. Tác giả Nguyễn Mạnh Hà trong cuốn Văn hóa-văn học-một góc nhìn đã đưa ra nhận xét về người phụ nữ nói chung là chịu sự lép vế so với đàn ông, tác giả viết: “Lịch sử đấu tranh của nữ giới đã trải qua một trình dài từ năm 1857 khi các công nhân ngành dệt tại thành phố New York đấu tranh đòi một số quyền lợi về lao động, đặc biệt là sự kiện Hội nghị Phụ nữ do quốc tế thứ II (Quốc tế xã  hội chủ nghĩa) tổ chức ngày 8 tháng 3 năm 1910 quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ. Điều đó cho thấy sự bất công đối với phụ nữ vẫn còn đeo đẳng và phổ biến trong xã hội, kể cả đến ngày hôm nay. Nguyên nhân của tình trạng này, theo chúng tôi (NMH) là vì trật tự nam quyền vốn có một lịch sử huy hoàng được bảo trợ bởi kiến trúc thượng tầng, đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, hằn sâu trong tiềm thức, quy định trí não, khiến mọi người hành xử theo đó như là đương nhiên. Xét ở một khía cạnh nào đó, nó đã trở thành một thứ vô thức tập thể [4, tr.62]. Còn trong Hát giặm Nghệ Tĩnh, chúng tôi nhận thấy hình ảnh người phụ nữ hiện lên bao giờ cũng lao động hết sức vất vả nhưng chị em luôn luôn chủ động, vui vẻ, có ý thức về công việc từ rất sớm, không kêu ca phàn nàn về sự lao động vất vả đó. Cuối mỗi đoạn của lời hát thường có cặp Giặm (được chúng chúng tối đánh nghiêng, xem 6) tạo nên đặc trưng riêng của Hát giặm. Ví dụ:

Đêm thức già ba trống,

Dậy sàng sảy đâm xay,

Lo công việc liền tay,

Để dựng nên cơ nghiệp

Để lập lường cơ nghiệp.

Đầu giờ Dần dọn dẹp

Em gánh gạo xuống đò.

Gạo giã trắng cánh cò

Xuống đò chung với bạn

Chung một đò với bạn. [ tr.110]

Ở bài Một đêm là năm trống canh (bài này có giả định là sáng tác khá xưa) thì người phụ nữ sánh bên người chồng dệt cửi rất khuya để kiếm tiền nuôi chồng ăn học, giống cảnh “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”: Chim về rừng thánh thót, Gà sầu nguyệt tưng bừng, Trai nho sỹ hành văn, Gái nữ phòng canh cửi [tr.243].

Trong bài Thân phận người đi ở, dù cảnh ngộ phải đi ở khổ cực, nhưng đối với người chủ thuê người ở là đàn bà thì người đi ở đã suy nghĩ về sự chịu khổ của mình như sau: “Rằng: “Có thần có thánh, Sao không có hoàng thiên?”; rằng: “Đời cha ăn mặn cho liền, Sang đời con khát nước”; rằng “Sách thánh hiền dạy trước: Đa ngôn tôn trụy, Ba lạy bảy tùy; Hết đường kia nỗi nọ”…[Thân phận người đi ở (bài thứ nhất), tr.194]. Như vậy, việc đi ở đầy khổ cực của bản thân mình là do từ đời ông cha mình làm điều gì đó chưa tốt, đây là cách giải thích về nguyên nhân từ phía chính gia đình mình (tác giả Ninh Viết Giao chú thích: Mình hiện tại khổ là do đời cha đã làm những gì không phải để lại cho mình), chứ không như Từ điển giải thích nghĩa một cách khách quan, bên ngoài: “Cha mẹ làm điều ác, đời con chịu quả báo”[9; tr.560].

b. Thứ hai là điển tín về người phụ nữ Nghệ Tĩnh luôn đặt mình trong quan hệ văn hóa cộng đồng làng xã. Qua các bài cụ thể, chúng tôi nhận thấy quan hệ văn hóa cộng đồng làng xã của người phụ nữ Nghệ Tĩnh thể hiện hết sức đậm nét, đó là giàu lòng yêu thương lẫn nhau, lo lắng cho sự tiến bộ của nhau trong cuộc sống, tỉnh táo để nhận ra con đường đi đúng đắn chung cho mọi thành viên trong gia đình, dòng họ, cả làng. Phụ nữ Nghệ Tĩnh khác với phụ nữ vùng miền khác là luôn nhắc nhủ, khuyên răn nam giới sự tỉnh táo, khôn ngoan trong công việc với thái độ hết sức mềm dẻo, thấu lý đạt tình. Nếu nam giới hành động sai, chưa đúng với “đạo lý” thì người phụ nữ luôn có một thái độ khá tỉnh táo, giống như người cầm cân nẩy mực. Trong ca dao vùng miền khác, như ca dao Nam Bộ, chúng ta gặp những câu ca dao nặng về tình yêu trai gái (như: Nước mắm ngon dành ăn bánh hỏi, Qua thương nàng mòn mỏi mấy năm [2, t.1, tr.359] chứ không nặng về khuyên nhủ. Những lời khuyên nhủ dưới vai của người phụ nữ như những bài học dạy con người sự khôn ngoan, điều hơn lẽ thiệt. Qua từng bài viết về người phụ nữ, điển tín nặng về thái độ khuyện nhủ (đặt trong quan hệ với người thân: chồng, con, cha, mẹ, mẹ góa, nạ dòng khá rõ. Có thể nhận thấy điều này qua các bài cụ thể, đó là:

Đối với chồng đang ăn học, người vợ khuyên: Viết dăm hàng chữ, Nhủ (bảo) học lấy cho chuyên, Khi hết gạo hết tiền, Viết thư về cho mẹ, Gửi lời về cho mẹ [Nuôi chồng ăn học, 242]; đối với người chồng đi lính thì nàng không chỉ khuyên chồng mà còn tự dặn mình, khuyên mình: Thiếp đã đành một lẽ, Ngồi chực tiết buông hương, Chàng gánh việc nhà vương, Hội nam nhi phỉ chí, Hội ‘tang bồng’ phỉ chí; Thiếp ngồi thiếp nghĩ cho trọn hai chữ ‘cù lao’, Chàng ‘hải khoái sơn cao’, Thiếp thần hôn định tỉnh. Như vậy, đối với người chồng đi lính, có khi, người vợ không chỉ thương xót cho mình và bao gia đình khác: “Ai ngờ cơn dâu bể, Giặc giã nổi lung tung, Bao vợ góa mất chồng, Bao con thơ vắng bố” mà còn tìm ra nguyên nhân đi lính cực khổ của chồng nên đã cất lên câu hỏi đầy trách móc: Chồng em rồi đây đó, Biết sống chết ra sao, Nắm xương gởi nơi nào, Hỡi vua quan độc ác? [tr.266].

 Trường hợp người chồng ở nhà, chỉ vui chơi sáo diều đến quên tất cả thì người vợ khuyên: Em ngồi em nghĩ, Tốn của rồi thiệt công, Bao công việc ngoài đồng, anh nỏ lo chi hết…, Xin anh hãy bằng lòng, Kẻo nay diều mai sáo mất công [tr.158].

Nội dung lời Hát Giặm Nghệ Tĩnh không chỉ là lời hát vui vẻ, giảm bớt sự mệt nhọc trong lao động hàng ngày như một số bài trong ca dao người Việt mà còn là những bài học răn dạy, khuyên nhủ, khích lệ những người dân cộng đồng xứ Nghệ (vùng cư trú). Những nội dung về người phụ nữ trong Hát giặm Nghệ Tĩnh khác với những vùng miền khác: thường nói đến tính chăm chỉ chịu khó lao động đến tận cùng, chịu đựng gian khổ, buôn bán một số nghề phải đi xa (buôn gạo, buôn vải) của chị em cũng như nói đến nghĩa tình vợ chồng, lòng yêu thương con cái, cha mẹ.

Đặc biệt là trong quan hệ nam và nữ, những lời hát có giá trị rất đáng coi trọng như những bài học dạy sự mực thước không dẫn đến lang chạ, sa ngã, lỡ làng: Đừng lòng chim dạ cá, Đừng đắm nguyệt say hoa, Lòng cứ vững như đê, Giấy rách giữ lấy lề, Ai vong ân ăn ở, Ai phụ tình ăn ở [Buôn gạo chợ Vinh, tr.128].

            Người xứ Nghệ, dù chỉ là những người nông dân lao động trồng lúa, kèm nghề phụ chăn tằm, dệt vải, đi buôn nhưng không phải chỉ biết có lao động mà luôn hướng đến tri thức, trí tuệ được truyền khẩu trong dân gian (phương thức truyền bá tri thức trước đây đối với những người không được đến trường), thể hiện qua tâm sự của người phụ nữ ở ngay vùng đất quê hương với cái tên được nhắc đến, được gọi lên hết sức gần gũi, thân thiết: Núi Hồng Sơn cao vọi, Sóng Ninh Thủy đầy vơi, Chàng với thiếp trao lời, Lúc canh khuya trò chuyện, Hội canh trường trò chuyện; Bến Do Nha chưa đến, Đồn Chợ Củi còn xa, Tình với nghĩa đôi ta, Kể còn lâu chưa hết, Kể còn dài chưa hết”. Họ ngồi nói chuyện với nhau đến khuya, tình cảm phát triển sâu nặng, nhưng chỉ có như vậy: Lòng đinh ninh chực tiết, Dạ gắn bó một niềm, Trò chuyện đến nửa đêm, Đi qua làng Chợ Rạng, Đã qua làng Chợ Rạng (129); Thiếp quảy gánh ra đi, Tới Đô Lương buôn bán, Tới chợ Ghềnh, chợ Rạng, Em ở lại chợ Tràng [Buôn bán gánh gồng, tr.120].

Ngoài ra, trong lời hát, ta còn bắt gặp lời khuyên nhủ của người phụ nữ đối với người chồng (đi lính, học trò, đi làm ăn xa ở vùng khác) hết sức thấm thía, sâu tận đáy lòng là không nên làm những việc bị coi là thói hư tật xấu. Một trong những thói hư tật xấu đó là cờ bạc, rượu chè: Làm trai cờ bạc thì chừa, Rượu làng thì uống, rượu mua thì đừng; Trách những người thiên hạ, Ai những kẻ không nghe lời, Rủ chắc đi đánh bài mười, Không biết chi điều khun (khôn), điều dại; Suy ra điều lợi hại, Kể cho hết mà nghe, Ai biết thì dè, Ai không nghe cũng mặc [Làm trai cờ bạc thì chừa, tr.161]. Lời khuyên không hề khô khan mà dưới hình thức lặp lai vừa để nhấn mạnh, giúp ghi nhớ và cũng tạo thành nét văn hóa đặc trưng xứ Nghệ: Thôi thôi! Đừng cờ cờ bạc bạc, Đừng rượu rượu chè chè, Đừng rủ bạn rủ bè, Đừng nghe mồm thiên hạ, Chớ có nghe lời thiên hạ [tr.107].

Trong lời hát, ta còn gặp lời khuyên không nên ham thái quá. Lời khuyên này cũng không xuất hiện trong ca dao của những vùng miền khác. Có thể nói, thả diều là một trò vui, trò tiêu khiển giàu chất đồng quê mênh mang thi vị, lối cuốn, nhất là những ngày nắng ráo, diều kèm tiếng sáo như bay bổng lên tận trời xanh, nuôi những mơ ước chất chứa trong lòng (Thơ ca đã từng kể về những cảnh thả diều này). Tuy vậy, chúng ta hãy nghe lời khuyên răn của người phụ nữ về sự ham mê thái quá: Kẻ dư tiền dư ló, Kẻ dài áo rộng quần, Ra chơi diều không ai phân vân, Ra chơi diều không ái nói, Nhà anh thì đói, Tiền hết gạo không, Thấy đồng nợ đồng công Mà ngao mà ngán [Công anh làm một con diều, tr.159].

Không chỉ thói hư tật xấu mà cả hành động theo giặc, bán nước (xét trách nhiệm đối với tổ quốc) thì người phụ nữ Nghệ Tĩnh cũng đầy trách nhiệm, và có lời khuyên rất thấu đáo. Trong bài Chàng ơi vị quốc vong thân, người phụ nữ đã tỏ thái độ của mình đối với người đàn ông qua lời nhắn nhủ: Chàng hỡi chàng, Xin chàng ngồi lại, Thiếp phân giải đôi lời:  Hơn bốn chục năm trời, Đem thân làm nô lệ, Cúi đầu làm nô lệ. Với tư cách là người vợ, người bạn, các chị giải trình hết sức chí lý: Chàng nam tử tu mi (tu mi nam tử), Tại làm sao không biết, Chỉ nguyệt hoa hoa nguyệt, Chịu làm thân mất nước, Thử nhìm xem sau trước, Kìa các nước lân bang, Bọn nam tử đường đường, Làm cho nước thịnh cường, Sử xanh còn tác để, Bia vàng còn tạc để [3, tập 2, tr.131]. Và chính người phụ nữ hiện lên dưới con mắt của đấng nam nhi: Họ sung vào tự vệ, Họ trinh sát giao thông, Không thua kém đàn ông, Họ quyết giành phần thắng [tr.304]. Chính vì vậy, chúng ta bắt gặp những bài có chủ đề trực tiếp nói về lời khuyên của vợ đối với chồng để gián tiếp khích lệ sự ứng xử, sự lựa chọn con đường đi đúng trong cuộc sống của mọi người trong làng hết sức chân tình, như: Khuyên anh anh phải lo lường, Vợ khuyên chồng bầu nghị viên, Khuyên chàng xuất dương du học, Khuyên chàng đua đuổi kịp người.

   c. Thứ ba - điển tín về thái độ tự tin, mạnh mẽ của người phụ nữ trong lao động, trong cuộc sống. Như chúng tôi đã trình bày trên, người phụ nữ Nghệ Tĩnh không chỉ cần cù, chịu khó lao động mà điều đáng nói ở đây là lao động với thái độ tự tin, mạnh mẽ. Có thể nói, chăn tằm là một nghề phụ của người Nghệ Tĩnh, có cả bàn tay của nam giới, nhưng trong đó, người phụ nữ Nghệ Tĩnh được nhắc đến với thái độ hết sức rắn rỏi, đầy tự tin. Ví dụ trong bài “Chăn tằm”, sau khi kể về cảnh đẹp của quê hương: “Nhìn xem phong cảnh làng ta, Có sơn có thủy bao la hữu tình” thì hình ảnh người phụ nữ chăn tằm hiện lên khá chủ động, không có gì là buồn rầu, kêu ca về công việc: Thân em con gấy (gái), Giữ việc tơ tằm, Tơ trắng kén vàng, Mặc lòng mua bán,Thân em con gái, Giữ việc tằm tơ, hời hời. [tr.89]

Tính chủ động trong công việc còn thể hiện cả trong việc đi củi. Trong nghề này, ta nhận thấy sự vui vẻ, bình đẳng của chị em đối với nam giới, không quá giữ ý (sợ gần nam như một số vùng miền khác). Qua bài Đi củi, chúng ta nhận thấy đặc điểm này của phụ nữ bộc lộ khá rõ: Về rủ nhau trai bạn, Rủ thục nữ vài dì, Độ rày nỏ làm chi, Lên rừng xanh bứt củi, Trước đua ăn đua nói, Sau đua sắc đua tài, Giừ (giờ) ai cũng như ai, Nghe đều trong cả xóm [tr.90].

Tính chủ động của người phụ nữ Nghệ Tĩnh còn được thể hiện qua hành động tham gia cùng nam giới đánh giặc. Trong bài “Người phụ nữ thành Vinh”, chúng ta nhận thấy một đặc điểm văn hóa của phụ nữ ở Nghệ Tĩnh là sự chủ động, tiên phong, nhận thức về trách nhiệm cá nhân trong xã hội khi có giặc ngoại xâm. Lời của người chồng kể cho vợ nghe với thái độ thán phục những người phụ nữ thành Vinh: Họ đứng ra diễn thuyết, Nói thật giỏi thật giang; Họ vào ban tác chiến, Lưng nai nịt gọn gàng; Họ sung vào tự vệ, Họ trinh sát giao thông; Bình quyền và bình đẳng, họ hiểu nghĩa hơn mình, Nên họ nguyện tòng binh, Đánh xâm lăng cứu nước [tr.298].

Tính chủ động, tiên phong của phụ nữ còn được thể hiện qua cách nhìn nhận của người phụ nữ không chỉ giới hạn trong phạm vi nước mình mà vượt ra cả nước ngoài, thể hiện qua những bài bài ở tập 2: Em khuyên chị, Chàng ơi, vị quốc vong thân, Khuyên chàng xuất dương du học, Khuyên chàng đua đuổi kịp người: Chàng ơi chàng, xin chàng ngồi lại, Để cho thiếp bàn giả đôi lời, Sinh ra kiếp làm người, Thua người ta cũng thẹn, Kém người ta cũng thẹn, Kẻ trèo non vượt biển, Người lên bắc sang đông, Cho nhất tâm trung ái, Cho vẹn bề trung ái, Người thắng ưu mà mình liệt bại, Bằng sao anh chịu đươc, Sao mà chàng chịu được [Khuyên chàng xuất dương du học, tập 2, tr.141].

4.Kết luận

Tìm hiểu nội dung lời hát trong Hát giặm Nghệ Tĩnh, chúng ta nhận thấy những điển tín nói về vị thế xã hội, văn hóa của người phụ nữ Nghệ Tĩnh đều thiên về chiều hướng tốt đẹp, dương tính, đó là sự chịu thương chịu khó, tự tin, vui vẻ trong lao động, thái độ quan tâm đến người khác: như chồng, con, bố mẹ, bạn bè nam, nữ, làng xã. Những đặc trưng văn hóa này có cội nguồn từ nền kinh tế sản xuất lúa nước lâu đời của người Việt. Trong khi đó, đối với nam giới, chúng ta có thể gặp những điển tín tốt lẫn những điển tín theo chiều hướng xấu, âm tính, về những thói hư tật xấu, như: đánh cờ đánh đánh bạc, ham chơi diều thái quá, có một số người biểu hiện lười nhác trong thi cử, trong học hành với mục đích đi thi, hy vọng được phong chức tước, làm vinh quy bái tổ. Chính vì thế, trong sự nghiệp xây dựng đất nước hướng đến sự giàu mạnh hôm nay, cần quan tâm và phát huy nhiều hơn đến vị thế của người phụ nữ xứ Nghệ. Trong công trình của mình, tác giả Phan Ngọc đã viết: Nền văn hóa làng xã mới là nền tảng của tâm thức Việt Nam, không phải là Nho giáo”[7, tr.238]. Người Việt lấy giá trị gốc làm nền mô hình xã hội của Việt Nam là gia đình - làng - quốc gia (4, tr.39) thì kết luận này phù hợp với biểu hiện điển tín văn hóa của người Nghệ Tĩnh. Dù đi học ở xa xôi tận nước ngoài, hay đi làm ăn, kiếm sống ở tỉnh khác thuộc các tỉnh phía nam thì người Nghệ Tĩnh vẫn tìm đến nhau, bàn bạc cùng nhau để thống nhất hành động (có khi cả hành động tốt, có khi chưa tốt). Tuy vậy, với người phụ nữ Nghệ Tĩnh, tuy không đứng ra trực tiếp nhưng luôn cân nhắc, suy nghĩ, trăn trở rồi đi đến bàn luận, thống nhất nhằm tác động tốt, đúng hướng đến người nam giới. Đó là ưu điểm của ngưỡi phụ nữ Nghệ Tĩnh cả trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ hiện nay, đất nước bước sang thời kỳ hội nhập quốc tế, nhưng người Việt Nam, trong đó có phụ nữ xứ Nghệ vẫn giữ bản sắc văn hóa của mình./.

Đ.T.K.L

Tài liệu tham khảo

  • BOURDIEU. P, Sự thống trị của nam giới (Lê Hồng Sâm dịch), Hà Nội, Nxb Tri thức, 2010.
  • Việt Chương, Từ điển thành ngữ-Tục ngữ- Ca dao, Nxb Đồng Nai, quyển hạ, 1998
  • Ninh Viết Giao, Nguyễn Đổng Chi, Hát giặm Nghệ Tĩnh, tập 1, Nxb Sử học, Hà Nội, 1963; tập 2, Nxb Khoa học, 1963.
  • Nguyễn Mạnh Hà, Văn hóa-văn học, một góc nhìn, Nxb Đại học Vinh, 2013
  • Nguyễn Thị Hương, Điển tín và điển tín về giới, Đề tài NCKH cấp trường, Trường Đại học sư phạm Ngoại ngữ, Hà Nội, năm 2013.
  • Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục, 2012.
  • Đỗ Thị Kim Liên, “Đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa của câu Giặm trong Hát giặm Nghệ Tĩnh”, Kỷ yếu Ngữ học toàn quốc, 2011, tr.741-750.
  • Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1998.
  • Như Ý (Chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2007.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114577451

Hôm nay

2315

Hôm qua

2335

Tuần này

2650

Tháng này

224508

Tháng qua

130677

Tất cả

114577451