Nhìn chung nội dung chương trình nêu trong đề án có cơ sở khoa học, toàn diện hơn trước, tiếp thu được kinh nghiệm thế giới, rút kinh nghiệm nước nhà trong đợt biên soạn chương trình SGK trước, việc thể hiện yêu cầu tích hợp và phân hóa rõ ràng, dứt khoát hơn trước. Việc đề xuất hệ thống 10 + 2 có tính khả thi, nhưng nay đã thôi, vì sợ xáo trộn nhiều. Tôi cũng tán thành phương hướng đổi mới giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của xã hội, nắm vững phẩm chất, năng lực đầu ra. Tôi cũng tán thành phương châm tăng cường tích hợp ở THCS và phân hóa cao ở THPT. Tôi cũng tán thành giảm tải hợp lí. Tôi cũng yêu cầu khắc phục bệnh dạy học đọc chép, phản đối dạy học thụ động, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo phương châm phát huy năng lực tự học của học sinh, chú trọng đào tạo năng lực, không dạy học tri thức chết. Các vấn đề này trong chương trình lần trước chúng tôi đã đặt ra đối với môn ngữ văn. Tuy nhiên, đọc Dự thảo đề án lần này, tôi thấy cần thẳng thắn nêu ra một số vấn đề để các chuyên gia thẩm định lại.
Vấn đề thứ nhất là đánh giá thực trạng giáo dục. Tôi thấy việc đánh giá thực trạng giáo dục trong Báo cáo về thực hiện Nghị quyết 40/Quốc hội không hoàn toàn giống như sự đánh giá thực trạng giáo dục trong Nghị quyết TW8. Trong Nghị quyết việc đánh giá sự yếu kém sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn, còn đánh giá trong báo cáo thì nương nhẹ hơn. Nghị quyết nói rất rõ về sự lạc hậu về phương pháp dạy, phương pháp học, về bất cập của đội ngũ giáo viện và đào tạo giáo viên. Trong báo cáo thì cho rằng các vấn đề đó đã có chuyển biến, để tập trung vào chương trình và SGK. Sự đánh giá như thế sẽ ảnh hưởng đến phương hướng xây dựng đề án giáo dục lần này, tức là không đặt vấn đề tổng thể mà chỉ nêu vấn đề chương trình và SGK, và về cơ bản, cách làm này không khác trước. Theo ý tôi, nên quán triệt sự đánh giá của Nghị quyết số 29, từ đó xây dựng hệ thống các đề án đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới đào tạo giáo viên, đổi mới chương trình và SGK một cách đồng bộ, mới mong có thay đổi.
Vấn đề thứ hai, là mối quan hệ giữa hệ thống năng lực và tri thức. Trong dự thảo chương trình, việc dựa trên nhận thức đối lập dạy kiến thức với đào tạo năng lực, đối lập dạy chữ (kiến thức) với dạy người (năng lực, đạo đưc), dẫn đến yêu cầu sự hài hòa hai mặt ấy, về một mặt nào đó là đúng. Song trong bản thân sự đối lập ấy đã có cái sai là không xem đào tạo tri thức là đào tạo người, đối lập dạy chữ với dạy người siêu hình, dẫn đến coi nhẹ đào tạo kiến thức cơ bản lại là rất không đúng. Trong hệ thống các năng lực dự thảo chỉ thấy các năng lực gắn với đạo đức, hành vi xã hội, mà không thấy rõ vị trí của kiến thức trong việc tạo thành các năng lực đó như thế nào. Sự đối lập dạy chữ với dạy người có vẻ như muốn gợi cho người ta thấy dạy người quan trọng hơn, mà không cho thấy chữ chính là một phẩm chất, năng lực cơ bản của con người. Phân biệt, đối lập dạy chữ và người ở đây không đúng, chẳng những thế, sẽ gây những ngộ nhận theo lối thô thiển, cốt dạy người, dạy năng lực, còn kiến thức thế nào cũng được nếu không có các nguyên tắc quy định nó. Ví dụ, về kiến thức có còn theo nguyên tắc cơ bản, hiện đại nữa không? Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như ngày nay, không có chữ (kiến thức) là không có gì hết, không làm được gì hết. Ý thức coi nhẹ kiến thức thể hiện rõ nhất khi thuyết minh về nguyên tắc cấu tạo môn tiếng Việt, ngữ văn trong phần phụ lục. Tại trang 40 ghi “Chương trình môn học được tổ chức theo bốn mạch tương ứng với bốn kĩ năng giao tiếp đọc viết nói và nghe. Kiến thức tiếng Việt và văn học không được biên soạn thành bài học riêng, mà chỉ được dạy học như là công cụ bổ trợ” cho mạch kĩ năng. Vậy ở đây tiếng Việt và văn học không còn có mạch kiến thức riêng nữa, mà chỉ có mạch kĩ năng thôi. Đây là một sự đảo lộn 180 độ. Kĩ năng là hệ thống, còn tri thức chỉ là công cụ. Nếu thế thì học sinh lấy đâu ra “học vấn phổ thông nền tảng” như mục tiêu đào đề ra? Trong hoạt động thực tiễn của con người, tri thức là công cụ, còn trong đào tạo con người không thể nói chung chung tri thức là công cụ được. Nêu ví dụ này dể thấy việc xử lí mối quan hệ giữa hệ thống tri thức và hệ thống năng lực cần có nhận thức thấu đáo, cụ thể hơn, để chỉ đạo việc biên soạn chương trình môn học.
Vấn đề thứ ba là hệ thống các năng lực. Trong hệ thống các năng lực đã cung cấp một hệ thống các năng lực cần phải có. Nhưng còn thấy thiếu hẳn năng lực tự nhận thức về mình, biết yêu quý bản thân mình. Thiếu năng lực này thì không thể nói đến năng lực tự trọng, tự chủ bản thân được. Có thể nghĩ rằng quan niệm đạo đức làm cơ sở cho việc xác lập các năng lực này là rất cũ, đạo đức nghĩa là biết vâng lời, làm theo các lời khuyên, các chuẩn mực định sẵn. Trong các năng lực này cũng còn thiếu năng lực thẩm mĩ. Vấn đề này, nay tôi xin nói lại rằng nhận thức đó là không đúng, bởi vì năng lực thẩm mĩ, theo quan điểm mác xít là năng lực người phổ quát nhất. Con người làm mọi việc đều theo nguyên tắc của cái đẹp, từ ăn mặc cá nhân đến lời ăn tiếng nói, phép ứng xử với mọi người, từ giữ vệ sinh cá nhân cho đến vệ sinh chung, làng xóm, môi trường…đều theo nguyên tắc cái đẹp cả, tại sao lại hiểu là năng lực chuyên biệt chỉ nằm trong phạm vi hội họa, âm nhạc? Không có năng lực thẩm mĩ không thể có năng lực sáng tạo trong mọi mặt. Hệ thống năng lực cần được bổ sung, tu chỉnh cho hợp lí.
Vấn đề thứ tư là phương pháp dạy học, không chỉ phương pháp sư phạm nói chung, mà còn là phương pháp dạy học bộ môn. Chúng tôi xin nêu lại nhận thức của chúng tôi ở đây. Chương trình và sách giáo khoa tốt, có chất lượng là một chuyện, mà năng lực quản lí, năng lực dạy học của giáo viên không thực hiện được, việc tổ chức, thi, kiểm tra trong thực tế không đánh giá được, không khích lệ học sinh học tập là một chuyện khác. Thời gian qua chính do sự quản lí yếu kém cũng như lúng túng trong phương pháp dạy học đã không chỉ hạn chế ưu thế của SGK, mà còn gây nhiều bức xúc cho xã hội như học thêm dạy thêm, đề thi theo lối học tủ, bài học ghi theo lối đọc chép. Đó là yếu kém về phương pháp dạy học mà đến nay vẫn chưa khắc phục được. Theo chương trình mới, lại phải tích hợp các môn khoa học xã hội (sử, địa) và tự nhiên (lí, hóa, sinh) thì phương pháp dạy tích hợp này là mới hoàn toàn. Lại thêm giáo viên trước nay vẫn đào tạo theo từng môn sử, địa, hóa, sinh tách biệt, chưa đào tạo các môn tích hợp, vậy lấy đâu ra đội ngũ này. Cho nên vấn đề phương pháp dạy học vẫn phải được coi trọng, đó là điều mà tôi thấy trong đề án, được xây dựng, coi như đã giải quyết xong rồi, không quan tâm nữa. Ngay bộ môn ngữ văn, phương pháp dạy tiếng Việt, dạy đọc hiểu cũng chưa có tiến triển gì nhiều. Bởi nếu có phương pháp tốt thì đã không tái mù, đã viết đúng chính tả và viết câu cú không sai. Người ta có thể thấy ẩn ý của đề án ở đây là cố né tránh vấn đề khó, mà chọn lấy vấn đề dễ. Nói thực ra, việc soạn chương trình và SGK theo chúng tôi là việc không quá khó, còn việc tạo chuyển biến cho cả đội ngũ giáo viên đông đảo về phương pháp dạy học theo định hướng mới là khó hơn rất nhiều. Xây dựng một cái chương trình cho có hình thù mới mẻ, hợp lí, có tiến bộ hơn trước không khó mấy, còn tạo ra hiệu quả mong muốn, tức đầu ra trong thực tế thì khó hơn nhiều. Vì thế, cần phải nêu rõ thực trạng về phương pháp dạy học và phương hướng giải quyết nó như thế nào, một khi toàn bộ chương trình đã thay đổi, còn phương hướng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa thấy có gì đổi mới cả.
Vấn đề thứ năm là việc tổ chức biên soạn SGK. Theo tôi để thực hiện nguyên tắc một chương trình nhiều bộ SGK thì Bộ giáo dục tuyệt đối không nên nắm lấy việc soạn một bộ chuẩn, như thế thì còn ai dám thi với bộ nữa? Bộ không có chức năng biên soạn SGK, mà chỉ có chức năng tổ chức hội đồng thẩm định. Thêm nữa, người của Bộ cũng tuyết đối không tham gia vào viết bất cứ bộ sách nào, vì như vậy sẽ tạo ra sự không công bằng trong thẩm định.
Điểm cuối cùng, vấn đề thứ sáu tôi đề nghị Đề án nên lấy tên là Đề án đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó có chương trình, sách giáo khoa và đổi mới quyết liệt phương pháp dạy học cùng vấn đề đổi mới đào tạo giáo viên, quản lí giáo dục, một vấn đề có tính chất tổng thể. Tôi chưa hiểu vì sao lại tách chương trình và SGK ra thành một đề án riêng, còn các vấn đề cơ bản quan trọng khác trong công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục phổ thông thì để cho đề án khác hay sao? Như thế làm sao đồng bộ và làm sao đảm bảo kết quả thực hiện chương trình và SGK lần này? Hay là song song sẽ có đề án khác nữa, nếu thế tại sao không đề xuất lần này cho đồng bộ? Tôi cho rằng xây dựng chương trình chủ yếu chỉ là cương lĩnh và kế hoạch dạy học, còn SGK chỉ là tài liệu dạy và học mà thôi, không có gì là quá khó, nhất là khi chúng ta đã có kinh nghiệm biên soạn chương trình theo nghị quyết 40 của Quốc Hội năm 2000, và đã có những bộ SGK tốt của giai đoạn hiện hành. Chỉ cần tham khảo một số kinh nghiệm của một số nước là có thể làm được. Cái khó là làm sao có được một đội ngũ giáo viên có phương pháp mới tương ứng với chương trình, lôi cuốn học sinh vào phương thức đào tạo mới, tạo ra hiệu quả đầu ra như toàn dân mong muốn. Theo tôi, chính phủ nên nhìn vào mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục như một bộ máy vận hành tổng thể để chỉ đạo dự thảo đề án. Không nên coi chương trình và sách giáo khoa, một khâu trong bộ máy ấy như là khâu quan trọng nhất, quyết định nhất, dễ rơi vào phiến diện./.