Những góc nhìn Văn hoá

Đàm phán về Việt Nam

Lời Tòa Soạn: Chiến tranh Việt Nam [1955 – 1975] là cuộc chiến  tranh đa nghĩa, tàn khốc và kéo dài nhất lịch sử chiến tranh hiện đại. Cuối cùng chiến thắng đã thuộc về quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhân 40 kết thúc chiến tranh, VHNA giới thiệu bài viết từ tháng 1 năm 1969, khi cuộc đàm phán về cuộc chiến tranh mới bắt đầu, của Henry A. Kissinger– Nguyễn Cố vấn An ninh Quốc gia và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa kỳ trong các nhiệm kỳ tổng  Richard Nixon. Và  Gerald Ford trở thành tổng thống để bạn đọc tham khảo. Chúng tôi xin lưu ý, đây là quan điểm của một người người bên kia chiến tuyến nên có thể có nhiều thông tin và nhận định thiếu khách quan và chính xác.

 

Tháng 1 NĂM 1969

Các cuộc hòa đàm ở Paris được đánh dấu bằng các đặc trưng cổ điển Việt Nam: lạc quan xen kẽ với hoang mang; phấn kích chuyển sang thất vọng. Việc tạm dừng ném bom tạo nên một làn sóng hy vọng cao. Vậy mà, lập tức ngay sau đó là các tranh cải với chánh phủ Sài Gòn về việc họ tham gia thương lượng. Gạt các khích lệ của vấn đề này sang một bên, chúng ta phải nhận thức rằng cuộc nội chiến đã tàn phá xã hội này hai mươi năm qua, nó đã lôi kéo các cường quốc vào và không thể giải quyết được chỉ bởi một hành động ngoạn mục duy nhất. Ngay cả khi đã có sự tin tưởng lẫn nhau, một thứ không thể vung tay quá trán, tính phức tạp của vấn đề và trở ngại trong việc nắm bắt mối tương quan giữa chúng sẽ làm phức tạp cuộc đàm phán. Trong suốt cuộc chiến, khó mà có được tiêu chuẩn đo lường sự tiến bộ đàm phán; điều này tiếp diễn trong quá trình đàm phán. Thế lưỡng nan tồn tại hầu như trong mọi tuyên bố về Việt Nam hẳn là vậy đó; thật không may, chân lý không có được một bảm bảo thích đáng.

Chuỗi sự kiện dẫn đến cuộc đàm phán hẳn chắc bắt đầu từ chuyến đi Washington của tướng Westmorland vào tháng Mười năm 1967. Dịp đó, Tướng Westmoreland điều phần trước Quốc hội rằng cuộc chiến đã đạt thắng lợi về quân sự. Ông nêu ra "các chỉ số" tiến bộ và tuyên bố rằng việc rút quân có giới hạn lực lượng chiến đấu Mỹ có thể bắt đầu thực hiện từ cuối năm 1968. Ngày 17 tháng 1 năm 1968, Tổng thống Johnson, tại phòng Bầu dục, nhấn mạnh rằng chương trình bình định mở rộng sự kiểm soát của chính quyền SàiGòn ở nông thôn đạt tiến triển thỏa đáng. Sáu mươi bảy phần trăm dân số của miền Nam Việt Nam sống ở khu vực tương đối an toàn; con số này được dự kiến sẽ tăng thêm. Một tuần sau, cuộc tấn công Tết Mậu Thân đạp đổ các giả định trong kế hoạch của Mỹ.

Cái sai ở đây là gì? Các vấn đề cơ bản chỉ là ước lệ: xu hướng áp dụng câu châm ngôn truyền thống của cả hai chiến lược và "quốc gia-xây dựng" dẫn đến tình thái không xác thực.

Chiến lược quân sự Mỹ theo học thuyết cổ điển là chiến thắng phụ thuộc vào sự kết hợp giữa kiểm soát lãnh thổ với tiêu hao sinh lực của đối phương. Vì vậy, phần lớn lực lượng Mỹ được triển khai dọc theo biên giới miền Nam Việt Nam để ngăn chặn sự xâm nhập của đối phương và ở Tây Nguyên, nơi hầu hết các đơn vị chủ lực quân Bắc Việt vốn được tổ chức theo quy tắc quân sự truyền thống tập trung. Lý thuyết nầy là sự tấn kích của các lực lượng chính qui sẽ làm cho quân du kích tiêu vong. Chiến thắng sẽ phụ thuộc việc gây thương vong lớn cho địch cao hơn so với chúng ta phải chịu cho đến khi thiệt hại của Hà Nội trở nên "không thể chịu nổi."

Chiến lược này có hai hạn chế: (a) bản chất của chiến tranh du kích; (b) tính phi đối xứng trong định nghĩa thế nào là không thể chịu nổi. Một cuộc chiến tranh du kích khác với hoạt động quân sự truyền thống ở chổ giá tri chính của nó không phải là kiểm soát lãnh thổ mà là kiểm soát dân. Điều này phụ thuộc một phần vào các tiêu chuẩn tâm lý, đặc biệt là cảm giác an ninh. Không một chương trình tích cực nào có thể thành công trừ phi dân chúng cảm thấy an toàn trước sự khủng bố hay trả thù. Quân du kích hiếm khi tìm cách giữ đất; chiến thuật của chúng khủng bố và đe dọa để ngăn cản dân chúng hợp tác với chính quyền hợp pháp.

Sự phân bố dân cư ở Việt Nam làm cho vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng. Hơn 90 phần trăm dân chúng sống ở vùng đồng bằng ven biển và đồng bằng sông Cửu Long; còn Tây Nguyên và các vùng biên giới hầu như thưa người ở. Tám mươi phần trăm quân Mỹ tập trung ở các khu vực có dưới 4 phần trăm dân số; những nơi diễn ra hoạt động quân sự về mặt địa lý nằm ngoài vùng chiến tranh du kích. Như các tác phẩm lý luận Bắc Việt không ngưng nghỉ xác định Hoa Kỳ không thể cùng một lúc giữ lãnh thổ và dành dân. Với sự lựa chọn chiến thắng quân sự qua tiêu hao sinh lực, chiến lược của Mỹ sản sinh cái điều trở thành đặc trưng của cuộc chiến tranh Việt Nam: những thành công quân sự mà không thể chuyển thành lợi thế chính trị bền vững. (Thậm chí mục tiêu ngăn chặn sự xâm nhập khó mà thực hiện trong rừng nhiệt đới hoang dã gần như bất khả xâm phạm dọc theo biên giới Campuchia và Lào).

Kết quả là, quan niệm an ninh của Mỹ chẳng mấy phù hợp với kinh nghiệm của nông dân Việt Nam. Bản đồ của Mỹ phân loại ba tiêu chuẩn kiểm soát thể hiện rõ với màu khác nhau: Chính phủ, xôi đậu và Việt Cộng. Các tiêu chuẩn chính thức rất phức tạp, và chúng phụ thuộc tính qui phạm trong các báo cáo của các viên chức phục vụ ngắn hạng (chỉ 12 tháng). Điều nầy khiến cho các báo cáo gần như không thể nắm bắt các tính chất và sắc thái tạo nên thực tại kiểm soát vùng nông thôn Việt Nam. Về bản chất, loại thứ nhất bao gồm tất cả các làng có quan chức chính phủ; loại"xôi đậu" chỉ các khu vực dự kiến sẽ cán bộ của chính phủ đến. Khái niệm về an ninh của Mỹ phản ánh lý thuyết quản trị phương Tây; quyền kiểm soát được giả định là quản lý được nhiều hay ít ít hơn so với đối phương.

Nhưng tình hình thực tế ở Việt Nam hoàn toàn khác nhau; bản đồ an ninh thực tế cho thấy vài khu vực không có chuyện thẩm quyền; kinh nghiệm phổ biến của nông dân Việt Nam là thẩm quyền thuộc cả hai bên. Sài Gòn kiểm soát phần lớn đất nước vào ban ngày theo nghĩa quân đội chính phủ có thể di chuyển bất cứ đâu nếu họ đủ lực lượng; Việt Cộng chi phối phần lớn dân số như vậy vào ban đêm. Đối với dân làng, sự hiện diện của Chính phủ ban ngày phải được đối ứng với sự vắng mặt của nó về đêm, khi cán bộ của Sài Gòn hầu như rút về huyện lỵ, tỉnh lỵ. Nếu các đội vũ trang của chánh quyền coi các làng mất an ninh vào ban đêm thì dân làng khó mà trong mong vào việc chống lại quân du kích. Như vậy, mô hình đặc trưng tại Việt Nam là kiểm soát kép, dân làng tuân thủ bất cứ lực lượng nào quản lý phần cụ thể nào trong ngày.

Thế nào đi nữa thì ảnh hưởng chính trị của kiểm soát kép này xa lạ với tính đối xứng. Để đạt hiệu quả, Chính phủ đã biểu tỏ một năng lực rất lớn trong đảm bào an ninh; có lẽ hơn 90 phần trăm. Mục tiêu của quân du kích khá tiêu cực: ngăn chặn việc củng cố quyền lực của chính phủ. Họ không cần phải triệt phá mọi chương trình của chính phủ; thực ra ở một số vùng họ đã không nỗ lực cản trở công việc của chánh phủ. Họ phải tỏ rỏ khả năng trừng phạt những ai đã né tránh họ mà hướng về Sài Gòn. Một vụ ám sát hoặc đột kích gây dao động trong dân chúng nhiều tháng sau đó.

Bắc Việt và Việt Cộng có một lợi thế khác mà họ khéo léo sử dụng. "Chiến thắng" của người Mỹ là vô nghĩa trừ phi họ tạo dựng được cơ sở cho một cuộc rút quân chung cuộc. Bắc Việt và Việt Cộng, vì chiến đấu trên đất nước của mình, đơn giản là họ cần giữ lực lượng đủ mạnh để chi phối dân chúng sau khi Hoa Kỳ mệt mỏi vì chiến tranh. Chúng ta đánh về quân sự; đối thủ của chúng ta đấu về chính trị. Chúng ta mưu cầu tiêu hao vật chất; đối thủ của chúng ta nhắm tới triệt hạ tâm lý. Trong quá trình này, chúng ta sai đường trước phương châm chính của chiến tranh du kích: quân du kích sẽ thắng nếu họ không thua. Một quân đội chính quy sẽ thua nếu nó không thắng. Bắc Việt sử dụng quân chủ lực của họ như cách một dũng sĩ đấu bò dùng tấm áo choàng của mình, họ kềm giữ chúng ta trong các khu đô thị kém quan trọng về chính trị.

Chiến lược tiêu hao đã thất bại trong việc làm suy yếu quân du kích và đã gặp khó khăn cả với quân chính quy Bắc Việt. Bởi lẽ Hà Nội không cố giữ đất đai, và một khi địa hình Tây Nguyên che dấu các hoạt động của Bắc Việt, nó gây khó khăn cho quân bên ngoài tấn công vào trừ phi ở những khu chiến chọn trước. Trên thực tế, một đa số đáng kể các trận đánh do phía bên kia khởi xướng; điều này cho phép Hà Nội kiểm soát thương vong của mình (và cả của chúng ta) ít ra trong giới hạn nhất định. Cái gọi là "tỷ lệ thương vong" của Hoa Kỳ so với tổn thất của Bắc Việt đã trở thành chỉ số chẳng mấy khả tín. Ngay cả khi con số này là chính xác thì chúng cũng không thích hợp, bởi cái mức độ "không thể chịu nổi" của người Mỹ khi chiến đấu xa nhà cả ngàn dặm hóa ra thấp hơn nhiều so với Hà Nội đang chiến đấu trên đất Việt.

Tất cả điều này tạo hệ lụy là các hoạt động quân sự của chúng ta là chẳng can hệ mấy tới các mục tiêu chính trị đã tuyên bố của mình. Tiến bộ trong việc tạo lập cơ sở chính trị chậm đến khó chịu; nền ngoại giao và chiến lược của chúng ta được chỉ đạo trong sự khu biệt. Tổng thống Johnson đã tuyên bố nhiều lần rằng chúng ta sẵn sàng đàm phán vô điều kiện, bất cứ lúc nào, bất cứ đâu. Điều này, trên thực tế, tạo thời gian cho việc đàm phán với phía bên kia. Nhưng trước một sự sụp đổ hoàn toàn của đối phương, việc triển khai quân của chúng ta đã được hoạch định kém để hỗ trợ cho đàm phán. Nhầm mục đích đàm phán, chúng ta phải kiểm soát tuyệt đối 60% phần lãnh thổ có được hơn là kiểm soát 60% trên phần đất chiếm được.

Nỗ lực tăng cường quyền kiểm soát chính trị của Sài Gòn đối mặt với các vấn đề khác. Để có hiệu quả, cái gọi là chương trình bình định phải đáp ứng hai điều kiện: (a) bảo an cho dân chúng; (b) thiết lập một kết cố chính trị và thể chế giữa các làng với Sài Gòn. Lợi bất cập hại: việc nóng vội phô trương "sự tiến bộ" trong chiến lược tiêu hao làm cho chúng ta hạ thấp ưu tiên bảo vệ dân; bất luận thế nào, không thể nhận thức được một khuôn khổ chính trị liên kết Sài Gòn với nông thôn ra sao. Kết quả là, các chương trình kinh tế gây sự quá tải. Ở Việt Nam, như ở hầu hết các nước đang phát triển, vấn đề ưu trội không phải để củng cố mà là để phát triển một cấu trúc chính trị. Sự phát triển kinh tế làm xói mòn các mô hình nghĩa vụ hiện hành, thường là cá nhân hoặc tập đoàn đảm bảo nhu cầu cho các thiết chế chính trị. Cái điều mỉa mai của cuộc chiến tranh ở Việt Nam là, trong khi chúng ta tuyên xưng thứ triết lý duy tâm thì sự thất bại mà chúng ta gánh phải lại từ sự lệ thuộc quá nhiều vào các yếu tố vật chất. Những người cộng sản, ngược lại, trong khi theo thuyết duy vật, nhiều thành công của họ tùy vào khả năng trả lời câu hỏi về bản chất và nền tảng của quyền lực chính trị.

Cuộc tổng công kích Tết để lộ ra những yếu kém phức tạp, như Bắc Việt nói, những mâu thuẫn nội bộ - lập trường của Mỹ. Hẳn chắc, theo một quan điểm quân sự thuần lý, Tết Mậu Thân là một chiến thắng của phía Mỹ. Việt Cộng chịu thương vong rất cao; ở nhiều địa phương, cơ sở hạ tầng của du kích Việt Cộng và các cán bộ nằm vùng bị quân đội Mỹ đánh cho tơi tả. Nhưng trong một cuộc chiến tranh du kích, việc xem xét thuần túy quân sự không có tính quyết định: yếu tố tâm lý và chính trị mờ ảo lại quan trong hơn.

Trên cấp độ đó cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một thất bại chính trị ở nông thôn cho Sài Gòn và Hoa Kỳ. Có hai tuyên bố hướng về nông thôn. Hoa Kỳ và Sài Gòn đã hứa rằng họ có khả năng bảo vệ ngày càng nhiều làng mạc. Việt Cộng chẳng bao đưa ra tuyên bố như vậy; họ chỉ quả quyết họ nắm quyền thực sự và họ hiện diện ở nông thôn, và rằng họ trừng trị ngay những ai cộng tác với Sài Gòn hay Hoa Kỳ.

Như thường xảy ra trong quá khứ, Việt Cộng đã giữ lời. Đôi mươi thị xã đã bị chiếm. Dù Việt Cộng không trụ lại được quá vài ngày (trừ Huế), họ có đủ thời gian hành hình hàng trăm người Việt trên cơ sở danh sách chuẩn bị trước đó. Cụm từ "khu vực an toàn" không bao giờ có ý nghĩa như nhau giữa thường dân Việt Nam và người Mỹ, nhưng, nếu cụm từ nầy có nghĩa gì đi nữa thì nó chỉ áp dụng cho các tỉnh lỵ và huyện lỵ. Điều này tỏ ra chính xác khi Tết Mậu Thân thách đố ý nghĩa chính yếu của cụm từ. Việt Cộng đã ghi một điểm vượt quá các cân nhắc quân sự về tầm quan trọng: không có khu vực an toàn cho thường dân Việt Nam. Điều này đã gây nên xu hướng chính vốn có của dân chúng Việt Nam là chờ xem diễn biến ra sao và không giao phó bền lâu bản thân cho Chính phủ Sài Gòn. Việc rút quân chính phủ từ vùng nông thôn về bảo vệ các thành phố và sự gia tăng tất yếu các hoạt động của Việt Cộng ở nông thôn, ngay cả vào ban ngày đã thúc đẩy thêm xu hướng này. Một hệ quả từ cuộc tấn công Tết Mậu Thân là trì hoãn - có lẽ vô thời hạn- việc củng cố quyền lực của chính phủ, mà đó là định nghĩa đủ nghĩa của từ "chiến thắng" trong chiến tranh du kích.

Với tất cả các lý do này, cuộc tấn công Tết đánh dấu bước ngoặt trong nỗ lực của Mỹ. Từ nay trở đi, không có vấn đề hiệu quả hành động ra sao, chiến lược thông dụng đã không còn đạt mục tiêu của mình trong một thời hạn nào đó hay với mức độ ảnh hưởng chính trị chấp nhận được với người dân Mỹ. Nhận thức nầy đã buộc Washington, lần đầu tiên, đặt mức trần quân số ở Việt Nam. Từ chối yêu cầu bổ sung thêm nhiều quân, bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam cảm thấy có nghĩa vụ bắt đầu một sự thay đổi dần dần từ chiến lược tấn công ngoại vi sang tập trung bảo vệ các khu vực dân cư. Điều này dẫn tới một cam kết tất yếu cuối cùng về một giải pháp chính trị và đánh dấu sự khởi đầu việc tìm kiếm một giải pháp thương lượng. Do đó, tình thế đã dẫn đến bài phát biểu của Tổng thống Johnson ngày 31 tháng 3 mà từ đó mở ra các cuộc đàm phán hiện nay.

II. Bối cảnh cuộc đàm phán

Tất nhiên, có một hình ảnh phổ biến là các cuộc thương lượng bắt đầu vào tháng 5 chỉ đúng một phần. Hoa Kỳ và Hà Nội hiếm khi ngưng tiếp xúc kể từ khi Mỹ nâng cao cam kết tại Việt Nam. Không phải mọicuộc tiếp xúc là trực tiếp. Có một số cuộc đã công bố công khai. Các năm 1965- 1968, các bên công khai tuyên bố lập trường của mình ở nhiều diễn đàn khác nhau: Hà Nội thông báo lập trường 4 điểm, MTDTGP (NLF) có đề nghị 5 điểm, Sài Gòn tiến tới 7 điểm và Hoa Kỳ, có lẽ do quan liêu hơn, công bố 14 điểm.

 

Những tuyên bố công khai tạo một không gian khá rộng cho thỏa thuận rõ ràng về một số nguyên tắc chung: rằng Hiệp định Genève có thể là cơ sở giải quyết cuộc chiến, rằng quân đội Mỹ cuối cùng sẽ rút về nước, rằng sự tái thống nhất của Việt Nam sẽ thông qua đàm phán trực tiếp giữa người Việt Nam với nhau, rằng (sau khi ký kết) sẽ không có căn cứ quân đội nước ngoàiở Việt Nam. Hoa Kỳ bàytỏsự chấp nhận ba trên bốn điểm của Hà Nội.

Có sự bất đồng về tình trạng quân đội Hà Nội ở miền Nam; trên thực tế, Hà Nội vẫn chưa thừa nhận họ có quân đội ở miền Nam tuy họcómột lập trường “không lay chuyển”làlực lượng Bắc Việt tại miền Nam không thể bị coi là"quân đội nước ngoài”. Vai trò của MTDTGP là bình đẳng trong cuộc tranh chấp. Sài Gòn từ chối một vai trò chính trị tách biệt cho MTDTGP, MTDTGP xem Sài Gòn nhưmột chế độ bù nhìn.Không có sựthống nhất về ý nghĩa của các cụm từ nầy mà nghe chúng an án nhau hoặc làm thế nào để chúng có hiệu lực.

Ngoài ra, các cuộc đàm phán được tuyên bố công khai, đã có các địa chỉ liên lạc bí mật đã được mô tả trong nhiều sách, báo.Có viện dẫn rằng các liên lạc này đã không thành công vì thiếu sự sắc bén hoặc vì thiếu sự phối hợp giũa các chánh phủ. (Cũng có lời kết tội cố ý phá hoại).Việc đánh giá song phẳng những lời chỉ trích là bất khả dụng trong nhiều năm. Nhưng rõ ràng là nhiều nhà phê bình đãđơn giản hóa vấn đề quá mức. Điều tốt không hẳn luôn lộ diện; nhưng cả khi điều tốt thúc đẩy tất cả các bênđi đến mộtkết quả nhanh chóng, ấn tượng cũng khó hiện ra. Tất cả các bên đều đối mặt với những khó khăn to lớn. Trên thực tế, xu hướng mỗi bên đềuchú trọng quá mứcsự tự do điều quân của phía bên kiamà từđó chắc chắn làm tăng sự hoài nghi. Điều nầylàm cho Hà Nội xuất hiện trước Washington như một kẻngoan cố cùng cực và Washington thì xem ra giảo quyệt trước Hà Nội.

Cả Chính phủ Hà Nội và Hoa Kỳ đều giới hạn quyền tự do hành động của mình trước ý nguyện của người dân miền Nam Việt Nam là người sẽ quyết định chung cuộc kết quả cuộc xung đột. Người Việt Nam đã sống dưới sự cai trị nước ngoài trong khoảng một nửa lịch sử đất nước của mình. Họ đã duy trì một sự cố kết văn hóa và xã hội đáng khâm phục bằng sựđiều chỉnh đầytinh tếthực tế nội lực. Để tồn tại, người Việt Nam đã học cách tính toán, gần như là bản năng, cán cân lực lượng thực tế. Nếu cuộc đàm phán mang lại ấn tượng một sự nhượng bộ giả trang thì chẳng còn gì để thương lượng. Việc hỗ trợ cho các bên mà tựa thể làm nhục chí. Vì vậy, tất cả các bên,nhất là Hà Nội, nhận thức rõ ràng làkhông xem chiến tranh và đàm phán là quá trình riêng biệt; chúng ta còn phức tạp hơn từ lề thói quan liêu, cách thức đàm phán cũng quan trọng như những gì thương lượng được. Kế hoạch hành động cho một cuộc đàm phán ra sao, điều gì sẽ giải quyết trước và làm sao không đánh mấtcái cốt lỏi của vấn đề.

Áp lực như vậy đè nặng lên các nhà đàm phán; một loạt bế tắc là khó tránh khỏi. Không có vấn đề nào "dễ dàng", vấn đề nào cũng mang tính biểu tượng và do đó đều được định vội trước sư thỏa thuận cuối cùng. Theo đánh giá, cuộc tranh luận về tầm mức của hội nghị, bịkéo dài trong một khoảng thời gian bốn tuần trong tháng Tư và tháng Năm, là vô giá trị. Một đánh giá sang suốt thì bốn tuần đóđã bị "lãng phí." Song nó lại là một việc hữu ích: thời lượng nầy cho phép Mỹ giúp Sài Gòn làm quen với suy nghĩ sẽ có cuộc đàm phán và đảm bảohọ vẫn kiểm soát các sự kiện. Cũng chẳng ngạc nhiên nếu Hà Nội có một vấn đề tương tự với MTDTGP.

Vấn đề tương tựminh họa thêm qua cách quyết định ngừng ném bom. Trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi công bố ngừng ném bom, cả Hà Nội và Sài Gòn đưa ra các tuyên bố hiếu chiến lạ thường, theo nghĩa đen, có thể làm thất bại cuộc cuộc đàm phán đích thực vừa bắt đầu. Tuy nhiên, mục đích thực của họ là trấn an những người ủng hộ của mỗi bên ở miền Nam. Đặc biệt là Sài Gòn có một vấn đề khó khăn. Người ta có thể dễ dànghình dung thái độ cứng rắntrước các tranh cãi về vị thế của MTDTGP. Tuy nhiên, với Sài Gòn, vị thế của MTDTGP có thể không là chuyện thủ tục. Đối với miền Nam Việt Nam đây gần như là tâm điểm của cuộc chiến. Washington ít ra phải chịu một phần trách nhiệm cho việc đánh giá thấp tầm mức và tính nghiêm trọng của quan ngại này.

Tình hình Washington và Hà Nội phải đương đầu chẳng kém phức tạp hơn chút nào trên bình diện quốc tế. Phần lớn các cuộc tranh luận gay gắt ở Mỹ về cuộc chiến đã diễn ra trong bối cảnh năm 1961 và năm 1962. Rõ ràng, vào thời điểm đó sự thất bại trong phân tích đầy đủ tầm quan trọng địa chính trị của Việt Nam gây nên sự tiến thoái lưỡng nan hiện tại. Song, trách nhiệm của 500.000 người Mỹ hiện giải quyết các vấn đề về tầm quan trọng của Việt Nam. Điều cần chú tâm hiện nay là niềm tin vào lời hứa của Mỹ. Tuy nhiên thói thời thượng hiện giờ là chế giễu các từ "tín nhiệm" hoặc "uy tín", chúngnào phải là cụm từ trống rỗng; các quốc gia khác có thể cùng hành động với chúng ta chỉ khi họ có thể tin tưởng vào sự kiên định của chúng ta. Sự thất bạitrong các nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam sẽ không xoa dịu nhiều nhà phê bình; đa số họ chỉ đơn giản là đổ thêm sự bất khả tín vào lời cáo buộc hiểm ác. Những nước có mục tiêu an ninh quốc gia phụ thuộc vào cam kết của Mỹ chỉ có thể mất tinh thần. Ở nhiều nơi trên thế giới, như Trung Đông, châu Âu, Mỹ Latinh, thậm chí Nhật Bản, sựổn định phụ thuộc vào sự niềm tin vào lời hứa của Mỹ. Việc đơn phương rút quân hay một dàn xếp mà vô tình rút cuộc như nhau, từ đó có thể dẫn đến xói mòn sự kiềm chế và thậm chí làmột tình thế quốc tế còn nguy hiểm hơn. Không một nhàhoạch định chính sách Mỹ nào có thể gạt bỏ những mối nguy nầy một cách đơn giản.

Lập trưởng của Hà Nội không ít phức tạp. Họ không có mối quan tâm toàn cầu; họ là những người Việt bài ngoại (tất nhiên bao gồmcả tham vọng bá quyền tại Lào và Campuchia). Nhưng Hà Nội hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường quốc tế. Họ không thể tiếp tục cuộc chiến mà không có ngoại viện. Họ hầu như hết sức quan tâm các áp lực của dư luận thế giới. Bất kỳ sự kiện nào làm giảm đi các mối quan tâm toàn cầu với cuộc chiến Việt Nam thì như thế sẽ làm giảm vị thế mặc cả của Hà Nội. Từ nhãn quan này, Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc là một trở ngại lớn cho Hà Nội.

Vùng biên tồn tại của Hà Nội quá hẹp mà sự tính toán chính xác đã trở thành một cách sống; sự thận trọng gần như là một nỗi ám ảnh. Vị thế mặc cả của họ phụ thuộc vào sự đánh giá sáng sủa của các yếu tố quốc tế, đặc biệt là mớ bông bông các mối quan hệ nội bộ những người cộng sản. Để duy trì quyền tự chủ, Hà Nội phải vận động khéo léo giữa Bắc Kinh, Moscow và MTDTGP. Hà Nội không muốn trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào một trong những người cộng sảnkhổng lồ. Tuy nhiên, kể từ khi những người cộng sản bất đồngvới nhau dữ dội, họ củng cố xu hướng vốn mạnh mẽ của Hà Nội sang các dạng thức mờ ảo. Tóm lại, quyền tự do hành độngcủa Hà Nội bị hạn chế nghiêm trọng.

Có cùng một thực tế tương tự với Liên Xô, nước viện trợ quy mô lớn cho Hà Nội,biến nước nầy thành một bên bán phần của cuộc chiến. Moscow giằng xé bởi các chiều hướng trái ngược nhau. Một toàn thắng củaHà Nội sẽ giúp Bắc Kinh đắc lợi trong cuộc đấu giành ảnh hưởng giữa các đảng cộng sản trên thế giới; nó sẽ giúp cho lý lẻ của Trung Quốc rằng sự không khoan nhượng đối với Hoa Kỳ, nếu không phải không có rủi ro, ít nhất cũng tương đối dễ kiểm soát. Song, một thất bại của Hà Nội sẽ chứng minh Liên Xô không có khả năng bảo vệ quốc gia cộng sản "anh em" chống lại Hoa Kỳ. Nó cũng sẽ làm suy yếu vật cản ảnh hưởng tiềm tàngcủa Trung Quốc ở Đông Nam Á và cho phép Bắc Kinh hướng cơn cuồng nộ về phía Moscow. Trong một thời gian dài, Moscow dường như đã bị tê liệt trước cáccân nhắc về xung đột và quán tính quan liêu.

Sự kiện Tiệp Khắc đã làm giảm khả năng của Moscow nhiều hơn nữa. Chúng ta sẽ trả món nợ to lớncho phản ứng yếu ớt của mình trước các sự kiện ở Tiệp Khắc một khi các đồng minh của chúng ta có thể quy điều nầy như một sựlại quả cho Liên Xô đã giúp chúng ta lối thoát ở Đông Nam Á. Do đó, Washington cầnhết sức tinh tế trong ứng xử với Moscow về vấn đề Việt Nam. Chắc gì có lợi cho Mỹ nếu châm thêm vào gánh nặng vốn đã nặng lắm rồilà các siêu cường hy sinh đồng minh của họ đểduy trì phạm vi ảnh hưởng.

Bản chất sự việc đủ để giải thích các cuộc đàm phán kéo dài sẽ tiến triển qua một loạt bế tắchiển hiện. Ngoài ra, cái hố sâu thẩm về văn hóa và hành chính giữa Hà Nội và Washington còn phức tạp hơn nữa. Khó mà hình dung ra hai xã hội khác xa nhaumàhiểu đượcnhau,người Việt và người Mỹ là vậy đó. Lịch sử và văn hóa kết hợp để tạo ra đa nghi gần như bệnh hoạn ở một bộ phận người Việt. Bởi vì sự sống còn phụ thuộc vào kỹ năng tinh tế trong chống chọi người nước ngoài cóthể chất mạnh mẽ hơn, phong cách giao tiếpcủa người Việt là gián tiếp và, theo tiêu chuẩn Mỹ, họ cóđặc tính vòng vo tránh cam kết đầy đủvà thử sức công khai. Sự lo ngại làm họ co rút lại, nó vượt quá hầu hết các mối quan tâm khác. Ngay cả khi Mỹ chấp nhận chương trình tối đa của Hà Nội, thìkết quả cũng có thể cần mấy tháng tranh cãi nhau cho đến khi Hà Nội xâm soi "góc khuất" của chúng ta và đoan chắc không còn nhượng bộ khả dĩ nào khác.

Các xu hướng nầy được ý thức hệ cộng sản khuyết đại xác định Mỹ vốn làthù địch, và bởi kinh nghiệm của Hà Nội trong các cuộc đàm phán trước đó với Hoa Kỳ. Cũng có thể dohọthấy các Hội nghị Geneve năm 1954 và 1962 (về Lào) đã tước đi một phần thành tựu của mình trên chiến trường.

Tất cả những điều này tạo nên phong cách đàm phán đặc trưng của Hà Nội: lên kế hoạch cẩn thận, các phương pháp gián tiếp,khôn khéo, ưu tiên cho cáctiếp xúchậu trườngtheođó mở ra càng nhiều phương án càng tốt với cả thù lẫn bạn (về sau này xem ra có vẻ quan trọng như nhau). Nền ngoại giao của Bắc Việt Nam hoạt động theo chu kỳ thăm dòvà lui bước tạo cơ hội ước định phản ứng của đối phương. Điều này được nối tiếp một đòn ngoại giao khác để củng cố những thành tựu của giai đoạn trước hoặc thử một lộ trìnhkhác. Theo nghĩa này, nhiều cuộc tiếp xúc với Hà Nội dường như bị"chết yểu" đối với chúng ta, hẳn là nó phục vụ (theo quan điểm của Hà Nội) việc thăm dò. Các phương pháp ngoại giao của Hà Nội chẳng khác mấy so với chiến lược quân sự của Việt Cộng và đôi khi chúng ta khó mà nắm bắt được.

Nếu phân tích này là đúng, một số bước đi của Bắc Việt Nam là ngẫu nhiên; ngay cả những tiếp xúc vu vơ nhất có lẽ cũng từ một chủ tâm. Mặt khác, nó không phải là một kiểu cách có lợi cho bản thântrong các cách phân tích mà chúng ta vượt trội: tính thực dụng, phân tích hợp lý từng trường hợp. Cứ hể Hà Nội tôn sùng tính kế hoạchởđâu, Washington lại dị ứng ởđó. Chúng tathích ứng phó với từng trường hợp khi chúng phát sinh hơn, "theo giá trị của nó".Các tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẵn sàng thương lượng không đảm bảo rằng một lập trường đàm phán đã có hay chánh phủ Mỹ đã định rõ mục tiêu của mình.

Cả đến khi cuộc hội đàm đã có lịch trình, hai nhóm trong bộ máy quan liêu Mỹ thường bắt tay nhau ngăn chặn việc xây dựng một lập trường đàm phán: những người phản đối đàm phán và những người ủng hộ. Phía phản đốithường đánh đồng các cuộc đàm phán với sự đầu hàng; nếu họ đồng ý thảo luận về các điều khoản chấp nhận được thìđó là xác định các điều kiện đầu hàng của kẻ thù. Nhận thức được xu hướng này và sự miễn cưỡng của lớp quan chức cao cấp trong việc chú tâm giải quyết tranh chấp vốn không có được kết quả thực tế ngay lập tức, những người ủng hộ các cuộc đàm bắt tay nhau lẫn tránh vấn đề này. Hơn nữa, sự chậm trễ phục vụ mục đích riêng của họ ở chỗ nó cho phép họ tự do hành động dành tại phòng họp.

Chủ nghĩa thực dụng và tính quan liêu như thế kết hợp lại tạo nên một phong cách ngoại giao thể hiện qua sựcứng rắng trước các cuộc đàm phán chính thức và dựa quá đáng vào những cân nhắc sách lược một khi cuộc đàm phán bắt đầu. Trong giai đoạn sơ bộ, chúng ta thường thiếu một chương trình đàm phán; trong lúc hội đàm, các cân nhắc thương lượng có xu hướng phát triển các cuộc thảo luận nội bộ. Trong quá trình này, chúng ta tựđánh mất tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ. Sự quan tâm quá mức tới sách lược đã triệt tiêu cảm giác về sắc thái và cảm xúc sự việc.

Sự không tương thích về phong cách ngoại giao của Mỹ và Bắc Việt Nam, trong một thời gian dài, tạo ra một sự cố lớn trong các trao đổi - đặc biệt là sơ kỳđàm phán. Trong khi Hà Nội cảm nhận ra phương cách đối với cuộc đàm phán, họhuy động mọi khéo léo của mình đểtránh một sự dứt khoát, sựcam kết chính thức. Sự mơ hồ cho phép Hà Nội thăm dò mà không cóđi có lại nhiều; Hà Nội không có chiếc đủa trong bóđủa nhỏ xíu. Họcần tình huống sự kiện hơn là một văn bản chính thức để xác định nghĩa vụ của mình vì sợ mối quan hệ với Bắc Kinh hay MTDTGP bị tổn hại.

Washington đã không sẳn sàng trước kiểu lối giao tiếp nầy. Để một chính phủ giảm bớt các nghĩa vụ cam kết có hiệu lực pháp lý, thay đổi lắm mưu môvề mức căng thẳng của Hà Nội thìđúnglà không thể hiểu nổi. Trong một cuộc họp báo vào tháng Hai năm 1968, Tổng thống Johnson nói: "Gần như tôi không thể hiểu nổi, Hà Nội đã không thay đổi cung cách hành xửngaykhi họ cóphản ứng đầu tiên. Đôi khi, họ thay đổi từ'định' thành 'muốn' hoặc "sẽ" đến "nên", hay một cái gì đó đại loại vậy. Nhưng câu trả lời vẫn như nhau”. Một kiểu phân tích khác nữa có thể hỏi vì sao Hà Nội muốn mở ra một kênh liên lạc vô nghĩa, đặc biệt là từ việc tìm hiểu hồ sơ về kế hoạch cẩn thận lại làm cho khó tin rằng sự thay đổi từ ngữ sẽ là vô tình.

Bất luận có là gìđi nữa, trong mắt của Washington,Hà Nội quanh co, gian dối và thủđoạn. Với Hà Nội thì Washington cũng thế, nếu không phải là trì độn rồithì thận trọng có chủđích. Trong mọi trường hợp, bế tắc do sự khác biệt trong phong cách đàm phán liên quan đến các điều khoản cụ thể ít hơn là triết lý về bản chất của một "cam kết" quốc tế hoặc ý nghĩa của "thủ đoạn gian trá". Vấn đề này nằm ở tâm điểm bế tắc đối với việc ngừng ném bom.

III. Bài học ngừng ném bom

Việc ngừng ném bom chiếm mất sáu tháng đầu tiên của cuộc đàm phán Paris. Các lập trường chính thức tương đối thẳng thắng. Quan điểm của Hoa Kỳ nằm trong cái gọi là công thức San Antonio do Tổng thống Johnson đưa ra vào tháng 9 năm 1967: "Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng mọi các cuộc oanh kích của không và hải quân ở Bắc Việt Nam nếu việc này tức thì dẫn tới các thảo luận hiệu quả. Chúng tôi, tất nhiên, cho rằng trong khi các thảo luận diễn tiến, Bắc Việt Nam sẽ không tận dụng thời cơ của việc ngưng ném bom hay ném cógiới hạn”. Về nguyên tắc chung, lập trườngcủa Mỹ không đổi trong suốt cuộc đàm phán.

Phản ứng của Hà Nội khá đơn giản và rõ ràng. Họ đưa ra quan điểm tranh luận rõ là không thiết thựcmà nó có thể hữu ích nhưng không “dẫn đến” các thương thảo một khi điều nầy cũng phụ thuộc vào Hoa Kỳ. Nhưng căn bản, Hà Nội cứ một mực nhấn mạnhviệc ngừng ném bom phải là "vô điều kiện”.Họ từ chối mọi đề nghị có đi có lại do Mỹ như đưa ra, ví dụ, như của Bộ trưởng Rusk: tôn trọng vùng phi quân sự, không tấn công vào các thành phố miền Nam Việt Nam, giảm mức độ hoạt động quân sự.

Dẫu bế tắc này có nhiều lý do, chắc chắn vấn đề trọng tâm cáikhó của mỗi bên là nêu rõ mối quan tâm thực của mình. Washington lo ngại "thủ đoạn gian trá”; tin rằng một khi ngưng ném bom, vấn đề sẽ khó về chính trị, nếu không là bất khả, để bắt đầu ném lại ngay cả khi đối mặt với sự khiêu khích đáng kể. Quá rõ, cần có một số đảm bảo sao cho các cuộc đàm phán sẽ được tiến hành sau khi ngừng ném bom. Washington đã nhận thức được rằng việc ngừng ném bom mà không nhanh chóng có các cuộc đàm phán thực sự thì không thể an lòng quốc nội.

Các từ ngữ pháp lý của mối quan tâm nầy làm lu mờ chân trị của chúng. Nếu tái ném bom trong điều kiện phẫn nộ dữ dội của công chúng, ta sẽ khó tự chủ trong lựa chọn mục tiêu và càng khó hơn nữa để ngưng lại mà kiểm tra ý đồ của Hà Nội. Lời khuyên thường nghe nói đến "chấp nhận rủi ro vì hòa bình" chỉ có hiệu lực nếu nhận thức được những hậu quả từ nguy cơ thiếu thận trọng có thể sẽ đưa đến leo thang chứ không phải là hòa bình.

Hà Nội, lượt mình, có một lý do đặc biệt để nhấn mạnh chuyện kết thúc ném bom vô điều kiện. Một chính phủ khôn ngoan như Hà Nội phải biết rằng không có hành vi "vô điều kiện" trong quan hệ của các quốc gia có chủ quyền, bởichỉ vỉ chủ quyền bao hàm quyền rút lại điều kiện thay đổi đơn phương. Nhưng Hà Nội luôn luôn dựa rất nhiều vào những áp lực của dư luận thế giới; tính"bất hợp pháp" của việc Mỹ ném bom là một vũ khí chính trị hữu hiệu. Sự nhân nhượng sẽ gây nguy hiểm cho tuyên bố này; nó ngụ ý việc ném bom có thể được biện minh trong một số trường hợp. Hà Nội không muốn có một công thức theo đó Hoa Kỳ có thể "hợp pháp" ném bom lại bằng cách đổ cho sự vi phạm một thỏa thuận nào đó. Cuối cùng, Hà Nội khoái tạo ấn tượng chogiới ủng hộ họ ở miền Nam rằng họ buộcchúng tangưng"vô điều kiện" như một biểu tượng của chiến thắng sắp đến. Cùng một lẽ, điều quan trọng đối với chúng ta là cả hai bên ở miền Nam Việt Nam tin rằng có sự tương nhượng.

Kết quả là, sáu tháng đầu năm dành cho việc xác định chuyện có đi có lại có thể coi là dứt khoát phải có. Vấn đề ngừng ném bom do đó bật lên câu hỏi về bản chất của một cam kết quốc tế. Trừng phạt sự vi phạm một thỏa thuận nào đólà gì? Trong một thời gian dài,Hoa Kỳ tự kiểm soát bản thân như một cách tự vệ chính của mình khi ràng buộc cam kết của Hà Nội vào những giới hạn nhất định. Trong thực tế, một khi không tồn tại tòa án để Hoa Kỳ có thể kềm giữ Hà Nội, sự trừng phạt của Hoa Kỳ là những gì mà Hoa Kỳ có thể đơn phương làm tức Hà Nội có "tận dụng" việc tạm dừng ném bom hay không. Nỗi lo của Hà Nội trước những hậu quả là một sự phòng thântrước thủ đoạn gian trá hơn một cam kết chính thức. Báođiều chúng tamuốn bằng cách tận dụng thời cơ hóa ra quan trọng hơn việc luận suycái phản ứng chính thức của Bắc Việt Nam.

Việc giải quyết chung cuộc vấn đề dường như đạt được bằng cách này. Trong bài phát biểu công bố ngừng ném bom, Tổng thống Johnson nhấn mạnh rằng Hà Nội hiểu rõ định nghĩa của chúng ta cụm từ "tận dụng". Hà Nội vẫn chưa chính thức thừa nhận các điều khoản này; trên thực tế, họ khẳng định ngừng ném bom vô điều kiện. Tuy nhiên, Hà Nội có thể có chút nghi ngờ rằng việc ngừng ném bom sẽ không thể tồn tại nếu nó bỏ qua các điểm mà Ngoại trưởng Rusk và Tổng thống Johnson đã công khai tuyên bố.

Nếu các cuộc đàm phán về ngừng ném bom chứng tỏ rằng thương lượng ngầm có thể đóng một vai trò cốt yếu trong giải quyết cuối cùng, chúng cũng cho thấy sự nguy hiểm đặc biệt của việc bỏ qua các khuôn khổ chính trị. Washington đã khẳng định trong suốt cuộc đàm phán rằngsự tham gia của Sài gòn vào các cuộc đàm phán thật sự là thỏa theo việc ngừng ném bom. Tổng thống Johnson, trong bài phát biểu công bố ngừng ném bom, ám chỉ sự tham gia của Sài Gòn đáp ứng các yêu cầu của công thức San Antonio về "đàm phán hiệu quả”. Làm sao chúng talại cố nài một điều kiện mà về cơ bản không có lợi cho cả ta lẫn cho Sài Gòn mà không thể xác định mãi đến khi có đủ dữ liệu về sau. Cần làm rõ rằng sự tham gia của Sài Gòn đã bị tùy thuộc vào việc nângvị thế của MTDTGP và cơ cấu nội bộ của Việt Nam, những vấn đề đó, chúng ta sẽ thấy dưới đây, nằm trong lợi ích của mọi người trong việc càng trì hoãn cuộc đàm phán càng tốt.

Tiến hành thử nghiệm việc Sài gòn tham gia đàm phán, chúng tathực hiện công thức "phần ông, phần tôi". Theo đó, Sài Gòn và MTDTGP tham gia hội nghị. Mỗi bên có thể tuyên bốphía mình có hai đoàn đại biểu; đối phươngthoải mái nhấn mạnh mình thực sự bàn bạc chỉ với một đoàn đại biểu. Do đó, Hoa Kỳ không "thừa nhận" MTDTGP và nhấn mạnh Hà Nội là đối tác đàm phán của mình; Hà Nội có thể có một cái nhìn tương tự và tiếp tục từ chối bàn bạc chính thức với Sài Gòn. Khó màgiải đáp theo các nguồn công khailà liệu Sài Gòn có bao giờ đồng ý công thức này và liệu họ có hiểu rằng công thức của chúng tatạo cho MTDTGP một vị thế tương ứng.

Về mặt nầy, việc Sài Gòn miễn cưỡng chấp nhập tư cách bình đẳng với MTDTGP là dễ hiểu bởi nó ảnh hưởng đến mọi vấn đề khác, từ ngừng bắn để cấu trúc nội bộ. Gạt các giá trị tranh chấp sang một bên, sự bất hòa công khai giữa Sài Gòn và Washington gây hại đến thành quả. Chia rẽ Washington và Sài Gòn là một mục tiêu không đổi của Hà Nội; nếu cuộc đàm phán Paris trở thành một công cụ để thực hiện điều này, Hà Nội sẽ sa vàodùng chúng cho đấu tranh chính trị hơn là các thảo luận nghiêm túc.

Rõ ràng, có một ẩn khuất mà Sài Gòn không thể bác bỏ cuộc đàm phán. Nhưng đồng thời, cũng không phi lý việc Sài Gòn đưa ra tiếng nói quan trọng trong các quyết định ảnh hưởng đến đất nước mình. Và điều nầy cũng không thể củng cố lập trường của chúng ta ở Paris khi bắt đầu thảo luận thật sự ở vòng công khai về tinh chất của một chính phủ hợp hiến mà chúng ta đã nhấn mạnh với thế giới hai năm qua. Sự bế tắc đã chứng minh rằng đối phó với các vấn đề thiếu cơ sở là quá mạo hiểm; trước khi chúng tatiến xa hơn trong việc đàm phán, chúng ta cần nhận thức thống nhất về mục tiêu chung cuộc và làm sao để đạt được chúng.

IV. Lệnh ngừng bắn và chính phủ liên hiệp

Việc đàm phán thật sự đặt trước Hoa Kỳ một vấn đề có tính nhận thức căn bản: liệu có nên tiến hành từng bước, thảo luận từng mục "theo bậc thang ", hay là bắt đầu bằng cách cố gắng đạt được thỏa thuận về một số mục tiêu tối hậu.

Sự khác biệt nầy không nhỏ. Nếu các đàm phán tiến hành từng bước thông qua một chương trình nghị sự chính thức, có mối nguy lớn là việc ngừng ném bom sẽ biến thành lối trực chỉ bế tắc khác. Các vấn đề tương quan hẳn với nhau mà cấu thành dự báochung kết và do đó chúng bao hàm mọi thứ phức tạp vốn có. Không tin nhau và sự thiếu rõ ràng về mục tiêu chung cuộc đã hợp nhau tạo ra một xung lực đặc biệt đè nặng lênmọi đề xuất nhằm tìm ra cách khảo sát kỹ lưỡng nhất và dựng rào cản trước sự thất bại hoặc lời hứa cuội.

Điều này cũng được minh họa rõ qua hai giản đồqua tranh luận công khai đã xác định là chủ đề thích hợp cho bước tiếp theo của cuộc đàm phán: ngừng bắn và chính phủ liên hiệp.

Điều hiển nhiên là việc ngừng ném bom sẽ dẫn đến -gần như tự động- một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, chuyện đàm phán về ngừng bắn hẳn có thể là tương đương với việc tạo lập các điều kiện tiên quyết cho một dàn xếp chính trị. Nếu tồn tại một chiến tuyến với quyền kiểm soát không bị thách thức từ phía sau, như ở Triều Tiên, các giải pháp cứ theo truyền thống và khá đơn giản: hai bên có thể thôi bắn nhau và ranh ngừng bắn có thể dọc theo các chiến tuyến. Nhưng ở Việt Nam không có chiến tuyến; quyền kiểm soát không phải về lãnh thổ, nó phụ thuộc việc ai có quyền lực ở một khu vực cụ thể và vào thời gian nào trong ngày. Nếu một lệnh ngừng bắn cho phép Chính phủ di chuyển mà không bị thách thức, ngày hay đêm, nó sẽ dẫn tới một chiến thắng cho Sài Gòn. Nếu Sài Gòn bị ngăn tiến vào khu vực nhất định, nó có nghĩa là trong phân vùng hiệu lực đó, như ở Lào, có xu hướng hướng lâu dài. Song, khác với Lào, mô hình sẽ là một áo khoác điên rồ với những mãnh vụn của các xung đột lòng trung thành trên cả nước.

Điều này sẽ kéo theo những vấn đề sau: (1) Nó sẽ dẫn đến một cuộc tranh giành khốc liệt thiết lập kiểm soát ưu trội trước khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. (2) Ở bước tiếp theo không thể xác minh bất kỳ sự rút quân Bắc Việt nào có được từ đàm phán; các chính quyền sở tại trong khu vực cộng sản kiểm soát vượt trội chắc chắn sẽ xác nhận rằng không có mặt lực lượng bên ngoài và cản trở bất kỳ nỗ lực kiểm tra quốc tế nào (3).Sẽ nổi lên vấn đề khả năng thi hành một lệnh ngừng bắn đối với hoạt động du kích ở phần đất cộng sản không kiểm soát; nói cách khác, đối phó thế nào với sự phi đối xứng giữa hành động của lực lượng chính quy với du kích. Lực lượng chính quy hoạt động ở quy mô có thể có một định nghĩa tương đối chính xác về những gì được phép và những gì bị cấm; lực lượng du kích, ngược lại, có thể vẫn hiệu quả thông qua các hành vi khủng bố riêng biệt khó phân định với hoạt động phạm tội thông thường.

Sẽ cònbao nhiều vấn đề khác: ai thu thuế và thu thế nào, ai thực thi lệnh ngừng bắn và bằng cách gì. Nói cách khác, một lệnh ngừng bắn ngầm trên thực tế có thể tỏ ra hiệu quả hơn là một lệnh qua thương lượng. Tương tự vậy, một lệnh ngừng bắn chính thức có khả năng định trước việc dàn xếp chung cuộc và có xu thế da beo. Việc ngừng bắn như vậy không hẳn là một bước tiến tới một giải pháp cuối cùng như nó là.

Điều này thậm chí còn thực tế hơn nhiều yếu tố chính khác của cuộc tranh cãi về Việt Nam: khái niệm về một chính phủ liên hiệp. Tất nhiên, thuật ngữ nầy có hai nghĩa: một biện pháp hợp pháp hóa các vùng da beo, thực tế là ngụy trang để tiếp tục cuộc nội chiến; hoặc là một chính phủ liên hiệp “đích thực” trong nổ lựcquản lý cả nước. Trong trường hợp đầu tiên, một chính phủ liên hiệp sẽ là một bộ mặt với các Bộ, không cộng sản và cộng sản có hiệu lực điều hành các phần riêng của mình. Đó là những gì đã xảy ra tại Lào, ở đó mỗi bên trong "chính phủ liên hiệp" thống trị lực lượng vũ trang riêng của mình và quản lý lãnh thổ riêng của mình. Chính quyền trung ương đã không thực hiện bất kỳ chức năng quốc gia thực sự nào. Mỗi bên lo chuyện mình, cả nội chiến. Nhưng tại Lào, mỗi bên kiểm soát một lãnh thổ liền kề chứ không phải là các vùng da beo như ở miền Nam Việt Nam. Cũng vậy, mọi cách gầy dựng thế da beo này, cuộc đàm phán về một chính phủ liên hiệp là nguy hiểm nhất vì sự tham gia rất giới hạn của Hoa Kỳ khi bàn về khả năng thay đổi bối cảnh chính trị của miền Nam Việt Nam.

Chính phủ liên hiệp có lẽ là vấn đề nhạy cảm nhất ở Việt Nam, nơi người ta có xu hướng xác định theo nghĩa thứ hai: đồng quản lý Sài Gòn-MTDTGPtrên cả nước. Có thể Mỹ không phản đối, tất nhiên, cuộc đàm phán trực tiếp giữa Sài Gòn và MTDTGP. Vấn đề là liệu Hoa Kỳ có là một bên cố áp đặt một chính phủ liên hiệp không. Chúng ta phải thấy rõ rằng sự liên can của chúng tavào một nỗ lực như vậy cũng có thể phá hủy mọi cấu trúc chính trị hiện tồn của miền Nam Việt Nam và do đó dẫn đến việc cộng sản nắm quyền kiểm soát.

Một số người thúc dục đàm phán cho một chính phủ liên hiệp chính xác là vì: đây như một công thức giữ thể diệntrong việc thu xếp trước thắng lợi chính trị của cộng sản mà họ coi như không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, những người tin rằng sự tiến triển tình hình chính trị của miền Nam Việt Nam không nên bị tước đoạt bởi quyết định Mỹ phải nhận ra rằng chủ đề chính phủ liên hiệp là chuyện bạc bẻo và nan giải nhấttrong đàm phán với kẻ ngoài lề.

Quan điểm cho rằng một chính phủ liên hiệpthể hiện một "sự thỏa hiệp", nó sẽ cho phép một sự tiến trình chính trị mới khó mà phải lẽ trong điều kiện Việt Nam. Ngay các nhóm phi cộng sản cũng phản ánh những khó khăn của người Việt có sự khác biệt. Đúng làngoài sức tưởng tượng rằng các bên đang chém giết và lừa dối nhau trong 25 năm qua có thể cùng nhau làm việc như một đội cùng định hướng cho toàn thể đất nước. Cứ tưởng tượng các mệnh lệnh ban ra từ Sài Gòn về các vùng nông thôn khó mà trung thực như của một chính phủ phi cộng sản ở Sài Gòn. Sẽ là lố bịch với một chính phủ liên hiệp. Một chính phủ như vậy sao có được thẩm quyền khác so với mỗi bộ trưởngvới lực lượng do ông ta kiểm soát lẫn thông qua lòng trung thành cá nhân hay phe nhóm.

Hãy lấy một ví dụ về các khó khăn: các Bộ trưởng Cộng sản đúng là liều lĩnh cùng cực nếu họ vào Sài Gòn mà không mang theo một đội quân đủ mạnh để bảo vệ họ. Nhưng việc đưa quân đội cộng sản vào dinh lũy chính của sức mạnh chính phủ sẽ làm thay đổi cán cân lực lượng chính trị ở miền Nam Việt Nam. Sự nguy hiểm của một chính phủ liên hiệp là nó sẽ tách riêng các thành phần phi cộng sản ra khỏisựkiểm soát hiệu quả của quân đội và cảnh sát sẽ khiến họ càng không thể tự vệ thỏa đáng.

Trong ngắn hạn, các cuộc đàm phán tìm cách áp đặt một chánh phủ liên hiệp từ bên ngoài có thể sẽ thay đổi rõ rệt và không thể đảo ngược tiến trình chính trị ở miền Nam Việt Nam, như người Việt tin rằng một chính phủ liên hiệp không thể  nhanh chóng chọn được vị thế đứng. Chúng ta, thực thế, giải quyết cuộc chiến vớiít ảnh hưởng nhất từ bên ngoài, với sự tôn trọng mà chúng ta nhận thức ở mức tối thiểu các điều kiện và ảnh hưởng lâu dài vốn hầu như là mơ hồ.

Điều nầy không phải để nói rằng Hoa Kỳ cần chống lại một kết quả do tự do thoả thuận giữa người Việt với nhau. Nó cho thấy bất kỳ thương lượng nào về điểm này từ Hoa Kỳ có thể sẽ dẫn đến hoặc là một bế tắc hoặc sự sụp đổ của Sài Gòn.

V. TỪ ĐÂY CHÚNG TA ĐI VỀ ĐÂU?

Có vẻ là nghịch lý, cách tốt nhất để đạt được tiến bộ ở nơicó sự hoài nghi sâu sắc và các vấn đề thật tương quanlại là nơi có thể tìm kiếm sự thỏa thuận về mục tiêu cuối cùng,trước tiên để bàn lại các chi tiết nhằm thực hiện chúng.

Điều này đòi hỏi một phân tích các ưu, nhược điểm của cả hai bên. Sức mạnh của Hà Nội là họ đang chiến đấu tronglòng dân mình trong vùng đất quen thuộc, còn Hoa Kỳ thìviễn chinh. MiễnHà Nội có thể bảo toàn một số vốn chính trị ở miền Nam, họ vẫn giữ được viễn cảnh về một kết quả chính trị chung cuộc thuận lợi. Chẳng ngạc nhiên gì, Hà Nội tỏ ra nắm bắt siêu đẳng tình hình địa phương và khả năng cao hơn trong hoạch định các hoạt động quân sự cho mục đích chính trị. Hà Nội dựa vào dư luận thế giới và áp lực trong nước Mỹ; họ tin rằng sự mất lòng dân của cuộc chiến Việt Nam cuối cùng sẽ buộc Mỹ rút quân.

Điểm yếu của Hà Nội là việc lập kế hoạch có tốt đến đâu cũng không thể thay thế nguồn vậtlựctới hạn. Ngoài nó, sự khác biệt về quy mô chắc chắn sẽ trở nên quan trọng và việc tiếp tục chiến tranh sẽ đòi hỏi một lượng ngoại viện mà nó có thể đe dọa quyền tự chủ của Bắc Việt Nam. Hà Nội e dè giữ thân cho đến giờ. Về lâu dài, ngay cả khi chiến thắng chung cuộc có thể làm Việt Nam thật sự kiệt sức gây tác hạiđến mục đích nhiều thập kỷ đấu tranh.

Hơn nữa, một nước nhạy cảm với tình hình quốc tế, Bắc Việt Nam không thể đoan chắctrước các diễn biến mới đây. Việc Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc loại Việt Nam ra khỏi mối quan tâm chính của dư luận thế giới, ít nhất là trong một thời gian. Một số quốc gia trước nay phê phán Hoa Kỳ giờ nhớ lại mối nguy của mình và cần sự bảo vệ của Mỹ; chuyện này làm giảm cường độ áp lực của công luận lên Mỹ. Sự hỗ trợ của Moscow cho Hà Nội đã chứng minh mức độ phụ thuộc Liên Xô của Hà Nội; điều nầy cũng có thể đã được dự trùđể ngăn sức ép của Liên Xô lên Hà Nội sao cho linh hoạt hơn bằng cách ràng buộc Moscow vào Hà Nội. Dù lý do gì, nhãn quan của một Việt Nam kiểu Tito đột nhiên dường như kémkhả tínhẳn, mọi biện hộ của Moscowcho cuộc xâm lược Tiệp Khắc có thể cung cấp một cơ sở lý thuyết cho một động thái bất ngờ của Trung Quốc chống lại Bắc Việt Nam. Cuối cùng, học thuyết của Liên Xô mà theo đó Moscow có quyền can thiệp để bảo vệ cấu trúc xã hội nội bộ khối xã hội CN để tiến hành một cuộc chiến tranh Trung-Xô có thể có. Về những cáo buộc của Moscow đối với Bắc Kinh, bất luận là gì, thậm chí còn rõ nét hơn so với những cáo buộc đối với Prague. Nhưng trong trường hợp xung đột Trung-Xô, Hà Nội có thể bị bỏ rơi. Các cuộc khủng hoảng quốc tế đe dọa làm lu mờ Việt Nam trong những năm kế tiếp - Trung Đông năm 1967, Trung Âu năm 1968, do đó có thể đã khiến Hà Nội những khi đó bị cho ra rìa.

Nguồn lực vàkhả năng của Mỹ đảm bảo cho các việc như vậy. Không có chuyện một vài điềubất tương thích trong các quan niệm chính trị haysự nhạy cảm chiến lược của chúng ta sao đó, chúng ta mạnh thật sự và Hà Nội rõ ràng không thể đánh bại chúng ta bằng quân sự. Bằng nỗ lực bản thân chúng ta, Hà Nội không thể buộc quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam. Thật vậy, một sự cải thiện đáng kể vị thế quân đội Mỹ dường như đã diễn ra. Kết quả là, chúng ta đã đạt được mục tiêu tối thiểu của mình: Hà Nội không thể đạt được một chiến thắng quân sự. Từ đó họ không thể ép buộc chúng ta rút quân mà phải thương lượng chuyện nầy. Đáng tiếc là, sức mạnh quân sự của chúng ta không có hệ quả chính trị; cho đến nay chúng ta đã không thể lập nên một cơ cấu chính trị có thể đối đầu quân sự với Hà Nội sau khi chúng ta rút quân.

Cấu trúc đàm phán như vậy là hoàn toàn khác vớiTriều Tiên. Không có các chiến tuyến với các khu vực an toàn phía sau. Ở Việt Nam, các cuộc đàm phán không theo một thực trạng quân sự mà làhình thành một thực tại chính trị mới. Không có các thăm dò sức mạnh tương quan chính trị và quân sự. Tình thế chính trị của cả hai bên đều bấp bênh, ở Việt Nam đối với Hoa Kỳ, quốc tế cho Hà Nội. Như vậy rất có thể không bên nào sẽ bị sa vào một cuộc đàm phán kéo dài như Bàn Môn Điếm một thập kỷ rưỡi trước đây. Trong một tình huống như vậy, một kết quả thuận lợi phụ thuộc vào việc xác định rõ các mục tiêu. Các giới hạn cam kết của Mỹ có thể được thể hiện bằng hai đề xuất: thứ nhất, Mỹ không thể chấp nhận một thất bại quân sự, hoặc một sự thay đổi cơ cấu chính trị của miền Nam Việt Nam từ sức mạnh quân sự bên ngoài; thứ hai, một khi lực lượng và áp lực của quân Bắc Việt được loại bỏ, Mỹ không có nghĩa vụ duy trì một chính quyền Sài Gòn bằng vũ lực.

Do đó, mục tiêu của Mỹ phải là (1) tiếnđến việc triệt thoái từng giai đoạn các lực lượng bên ngoài, Bắc Việt và Hoa Kỳ, (2) do đó tạo nên một động lực tối đa cho các lực lượng đối nghịch ở miền Nam Việt Nam tìm ra một thỏa thuận chính trị. Cấu trúc và nội dung của thỏa thuận như vậy phải là tồn tại một miền Nam Việt Nam. Có thể diễn ra chính thức ở cấp quốc gia. Hoặc, có diễn xảy ra tại địa phương ở cấp tỉnh mà ngay cả cam kết ngầm cũng không gì là bất thường ở nhiều vùng như đồng bằng sông Cửu Long.

Các chi tiết của từng giai đoạn, đồng triệt thoái không phải là chủ định tiên quyết hiện nay của chúng ta, và trong mọi trường hợp, còn có thể bàn bạc thêm. Tuy nhiên, có thể liệt kê ra một số nguyên tắc: việc triệt thoái nên trong một thời gian đủ dài cho một tiến trình chính trị nội bộ chánh thực có cơ hội đượccủng cố; các bên đối địch ở miền Nam Việt Nam phải tự cam kết không theo đuổi mục tiêu bằng vũ lực khi việc triệt thoái các lực lượng bên ngoài diễn ra; trong chừng mực có thể, việc xác định các thiết chế cho một tiến trình chính trị phù hợp hoặc cấu trúc còn lại ở miền Nam Việt Nam cùng với việc đồng triệt thoáihình thành khung thời gian cho một thỏa thuận.

Hoa Kỳ, sau đó, nên tập trung vào vấn đề đồng triệt thoái các lực lượng bên ngoài và tránh đàm phán về cấu trúc nội bộ của miền Nam Việt Nam càng lâu càng tốt. Trách nhiệm chính của việc đàm phán cơ cấu nội bộ của miền Nam Việt Nam nên là phần đàm phán trực tiếp giữa người miền Nam Việt Nam. Nếu chúng ta can dự sâu vào vấn đề dàng xếp nội bộ của miền Nam Việt Nam, chúng ta sẽ để mình mắc lầy vào mớ bùng nhùng lệ thuộc theo hai thế bất lợi chính.Thứ nhứt, chúng ta sẽ là một bên đàm phán lạc điệu nhất trong cái vi tế của nền chính trị Việt Nam. Thứ hai, chúng ta có khả năng kết thúc việc áp dụng đa phần áp lực của mình chống lại Sài Gòn mà tựa thể là trở ngại cho một sự dàn xếp. Kết quả có thể là một sự thoái chí hoàn toàn của Sài Gòn, những căng thẳng quốc nội sâu sắc của Hoa Kỳ và một bế tắc kéo dài hoặc tái tục chiến tranh.

Dù cách nào đi nữa, phương pháp đàm phán trở nên sống còn; quả thực, phương pháp cũng có thể định đoạt kết quả và tốc độ điều đạt được.

Ràng buộc việc ngưng ném bom với sự tham gia của Sài Gòn vào các thảo luận hiện tồn hẳn là không khôn ngoan, mọi sự cho thấy rõ Hà Nội dường như đã chuẩn bị để tiếp tục đàm phán song phương. Sự tham gia của Sài Gòn và MTDTGP đặc ra vấn đề về trạng huống là trì hoãn lại tốt hơn; nó làm cho việc thảo luận về cấu trúc nội bộ miền Nam Việt Nam khó tránh khỏi. Tuy nhiên, các nguyên tắc phác họa bên trên, trong khi bây giờ khó mà thực hiện, vẫn có thể định hướng cuộc đàm phán. Sự căng thẳng giữa Washington và Sài Gòn thậm chí có thể tỏ ra bổ ích khi nó buộc cả hai bên hiểu ra rằng nếu muốn đàm phán hiệu quả thì phải dứt khoát đối diện với những vấn đề cơ bản.

Khi những dòng này được viết ra, công thức để giải quyết vấn đề tham gia của Sài Gòn vào hội nghị vẫn chưa rõ ràng. Song, cách tiếp cận chung phải như bất cứ sự thỏa hiệp khả dung nào.

Cách tốt nhất là nên lập ba diễn đàn. Nếu người miền Nam Việt Nam cuối cùng xuất hiện ở Paris-như có thể là- một hội nghị bốn bên nên được xem xét trước hết như một phiên họp toàn thể để hợp pháp hóa công việc của hai ủy ban đàm phán mà không cần phải thành lập chính thức và thậm chí có thể là họp mật: (a) giữa Hà Nội và Hoa Kỳ, và (b) giữa Sài Gòn và MTDTGP. Hà Nội và Washington sẽ thảo luận việc đồng triệt thoái và các chủ đề liên quan như bảo đảm cho tính trung lập của Lào và Campuchia. (Công thức có thể là thực hiện Hiệp định Genève đã được cả hai bên chấp nhận về nguyên tắc.) Sài Gòn và MTDTGP sẽ thảo luận về cấu trúc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Diễn đàn thứ ba sẽ là một hội nghị quốc tế mưu tìm sự đảm bảo và bảo vệ cho các thỏa thuận do các ủy ban khác đạt được, bao gồm cả cơ chế gìn giữ hòa bình quốc tế.

Nếu Sài Gòn vẫn tiếp tục cự tuyệt công thức "phía chúng tôi, phía quý vị", cùng một thủ tục có thể theo đuổiđược. Các tiểu ban sẽ trở thành diễn đàn chính và phiên họp toàn thể bốn bên có thể được loại trừ. "Hội nghị đảm bảo" quốc tế sẽ không bị ảnh hưởng.

Để chắc chắn, Sài Gòn, vì những lý do dễ hiểu, đã liên tục từ chối nói chuyện với MTDTGP như một thực thể quốc tế. Nhưng nếu Sài Gòn hiểu được lợi ích bản thân, họ sẽ nhận ra rằng các phương cách nêu ở đây bao hàm một sự nhượng bộ tối thiểu và cần thiết. Cách tiếp cận tam cấp cho phép Sài Gòn kiểm soát tối đa khả dĩ trước các vấn đề ảnh hưởng đến số phận của chính mình; đàm phán trực tiếp giữa Mỹ và MTDTGP sẽ bị loại. Một chính phủ có chủ quyền tự do đàm phán với bất cứ nhóm nào đại diện cho một lực lượng quốc nội có thế lực mà theo đó không cần bàn chi đến thượng quyền đó; điều nầy hằng diễn ở các cuộc đàm phán liên hiệp hay thậm chí có sự giám sát.

Nhưng tại sao Hà Nội chấp nhận một cách tiếp cận thế vậy? Câu trả lời có phần do không có sự lựa chọn; họ không thể đạt được sự triệt thoái quân đội Mỹ bằng nỗ lực bản thân, đặc biệt là nếu Hoa Kỳ thực thi một chiến lược ít nóng vội hơn – nhịp nhàng hơn trong bảo vệ dân chúng và bền vững với giảm thương vong thực sự. Hà Nội cũng có thể tin rằng MTDTGP, được tổ chức tốt hơn và quyết tâm hơn, có thể thắng một cuộc đấu chính trị. (Tất nhiên, điều tiên quyết của một dàn xếp là cả hai bên nghĩ rằng họ có cơ hội giành chiến thắng hay ít nhất là tránh thất bại.) Trên hết, Hà Nội có thể không muốn để Hoa Kỳ có tiếng nói lâu dài trong công việc nội bộ miền Nam Việt Nam, nếu như Hoa Kỳ theo đuổi cách tiếp cận hai mặt. Điều nầy có thể được củng cố từ quan điểm tin rằng một cuộc đàm phán kéo dài về chính phủ liên hiệpcuối cùng sẽ không thỏa đáng mấy theo quan điểm của Hà Nội so với cuộc đàm phán Genève về Việt Nam năm 1954 và Lào năm 1962. Đối với Hoa Kỳ, nếu tiến tới việc rút các lực lượng và áp lực bên ngoài, và nếu đạt được một thời gian hợp lý cho việc hợp nhất chính trị, Hoa Kỳ sẽ làm tối đa có thể được cho một đồng minh, hầu như là một sự chiếm đóng lâu dài.

Chắc chắn là, không thể yêu cầu Hà Nội buônMTDTGP mà dung tha Sài Gòn. Một khi chính phủ liên hiệp không đáp ứng nỗi, một ủy ban hỗn hợp được triển khai và giám sát tiến trình chính trị tái hợp đất nước, gồm cả cuộc bầu cử tự do có thể là hữu ích. Và phải có một sự hiện diện quốc tế để đảm bảo hiệu lực thực thi. Tương tự, chúng ta không thể trong cậy vào lời nói của ​​Hà Nội rằng việc rút lực lượng và áp lực lên miền Nam Việt Nam làkhông đổi. Một lực lượng quốc tế sẽ được yêu cầu giám sát các tuyến đường tiếp tế. Nó phải được củng cố bằng một hàng rào điện tử để kiểm tra các vận chuyển.

Phương thức đàm phán và xác định mục tiêu không thể đảm bảo cho sự dàn xếp, hiển nhiên. Nếu Hà Nội tỏ ra không khoan nhượng và cuộc chiến tiếp diễn, chúng ta nên tìm cách đạt càng nhiều mục tiêu khả thể càng tốt một cách đơn phương. Chúng ta nên áp dụng một chiến lược giúp giảm thương vong và tập trung vào bảo vệ dân chúng. Chúng ta phải tiếp tục củng cố quân đội Việt Nam nhằm cho phép rút dần một số lực lượng Mỹ, và chúng ta nên khuyến khích Sài Gòn mở rộng cơ sở của mình sao cho họ mạnh hơn trong cuộc đấu chính trị với những người cộng sản mà sớm hay muộn gì cũng phải tiến hành.

Không có cuộc chiến nào trong thế kỷ nầy khuấy độngsự tức giận như cuộc xung đột tại Việt Nam. Việc biến Việt Nam thành một biểu tượng của sự câm phẫn sâu đậm hơn, nhiều phe nhóm thất bại trong mục tiêu mà họ tuyên xưng mưu tìm. Tuy nhiên, chúng ta đã đến Việt Nam, bất cứ phán xét nào về hành động của chúng ta, việc kết thúc chiến tranh trong vinh dự là cái cốt yếu cho hòa bình thế giới. Bất kỳ giải phápnàolàm triệt tiêu nguồn lực sẽ làm phức tạp thêm triển vọng trật tự quốc tế. Một chính phủ mới phải có lợi cho tinh thần hoài nghi và một cơ hội tiến tới một nền hòa bình giúp cho người dân Việt đạt những gì họ đã đấu tranh lâu dài: một cơ hội để làm chủvận mệnh của mình theo cách riêng của họ. (1) Đó là: triệt thoái quân Mỹ, duy trì các thỏa thuận Genève hướng về tính trung lập cho miền Bắc và miền Nam Việt Nam, tái thống nhất đất nước và trên cơ sởước nguyện chung. Hoa Kỳ đã bác bỏ quan điểm thứ ba hàm ý rằng việc dàn xếp nội bộ miền Nam Việt Nam cần được giải quyết trên cơ sở cương lĩnhcủa MTDTGP, mặc dù Hoa Kỳ đã đồng ý xem xét cương lĩnh của MTDTGP cùng các cương lĩnhkhác. (2) Xin xem, ví dụ, cuốn sách"Cuộc mật tìm hòa bình ở Việt Nam" (The Secret Search for Peace in Vietnam) củaKraslow và Loory,nxb Random, New York, 1968.(3)Bài báo của Wilfred Burchett, The New York Times, số ra ngày 21 tháng 10, năm 1967.(4)Mâu thuẫn với các đồng minh mà cả đôi bên đều tuyên bố đã bị lừa quá thường xảy ra như được coi là nguyên nhân cấu trúc (xem Skybolt, Hiệu ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, bây giờ là ngừng ném bom). Cái điều xảy ra có vẻ như là sự đình trê quan liêu có tính quốc tế được đề cập bên trên trong Chính phủ chúng ta. Khi một vấn đề khá trừu tượng, trước khi có triển vọng cho một thỏa thuận, khuynh hướng ngoại giao của chúng ta làbiểu tỏ quan điểm của mình khá ôn hòa, kiểu cách buông tuồn trước các đồng minh có lợi ích có liên quan nhưng không hiện diện tại các cuộc đàm phán. Các đồng minh phản ứng mơ hồ như nhau vì ba lý do: (a) họ mất niềm tin vào quyết định sắp tới và do đó họ không bàn chi tới sự việc; (b) họ ngại là khi họ tác động vào vấn đề thì quyết định sắp tới sẽ chống lại họ; (c) họ hy vọng vấn đề sẽ trôi tuộc đibởi một thỏa thuận tỏ ra là bất khả. Khi thỏa thuận tựa thể sắp đạt được, các nhà ngoại giao Mỹ đột nhiên sang ngang để đạt được sự đồng ý của các đồng minh. Họđến lượt cảm thấy bị lừa bởi cường độ cao và sự đột ngột của áp lực trong khi chúng ta bị tổn thương do tìm hiểu sự phản đối từ trước đến nay không được thực hiện rõ ràng. Điều này gần như chắc chắn là các tranh cãi tiếp theo sẽ diễn ra trong các điều kiện khó khăn nhất./.

 TQ Nam dịch

Nguồn:  

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578041

Hôm nay

2211

Hôm qua

2361

Tuần này

21240

Tháng này

225098

Tháng qua

130677

Tất cả

114578041