Những góc nhìn Văn hoá

Thảm cảnh "lều nát", "dân kêu" và lời khuyến dụ cải cách pháp chế của Nguyễn Trần Ai

Ta chỉ mong có một ông Thần công lý sáng láng như mặt trời, trong suốt như nước, từ đâu bỗng hiện ra sừng sững làm người hộ mệnh cho dân, ấy là phúc lớn hơn cả”                                             Nguyễn Trần Ai

1. Tác phẩm đầu tay, đóng góp quan trọng

 

Có thể xem Túp lều nátlà nơi thử nghiệm bút pháp phóng sự của Nguyễn Trần Ai, bởi trên thực tế, đây là tập phóng sự duy nhất của ông. Qua “quyển sách thô bỉ” này, ông lần đầu làm quen với cách viết phóng sự. Nhưng đồng thời, đó cũng là cơ hội – có lẽ làduy nhất –để ông kịp ghi dấu, trong văn nghiệp chưa phải là dày dặn của mình, thành công khá ngoạn mục ít nhiều mang tính đột phá đối với thể loại “nửa văn chương, nửa báo chí” này.

Theo nhan đề của bài viết, ở đây chỉ xin đề cập riêng đến cái thảm cảnh “lều nát”, “dân kêu” và lời khuyến dụ cải cách pháp chế như một đột phá đáng ghi nhận trong cách nêu, đề xuất hướng giải quyết vấn đề khá mới mẻ và tương ứng với nó là các thử nghiệm đắc dụng góp phần hiện đại hóa phóng sự Việt Nam trước 1945 của Nguyễn Trần Ai.

Theo đó, có thể lần lượt nói đến mấy nội dung chính sau đây: 1) phơi bày thảm cảnh “lều nát”, “dân kêu”; 2) lời khuyến dụ cải cách pháp chế; 3) thử nghiệm thành công phóng sự luận đề và xu hướng tổng hợp kĩ thuật thể loại.

2.1. Phơi bày thảm cảnh “lều nát”, “dân kêu”...

  •  Lều nát - một thảm cảnh

Nguyễn Trần Ai đặt tên cho phóng sự của mình bằng một ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng: “Túp lều nát”. Đây, dĩ nhiên không phải là một biểu tượng chỉ có ý nghĩa trang điểm cho nhan đề, hoặc để gây ấn tượng với độc giả; trái lại, là một hình tượng bao trùm và xuyên suốt tập sách (từ nhan đề, phần lời “Tựa”, qua 12 thiên phóng sự phỏng vấn điều tra, đến cả phần “vĩ thanh” - Hai bức thư hay là gan ruột dân quê). Nó giúp tác giả triển khai, truyền tải chủ đề của tập phóng sự một cách tập trung, hiệu quả.

Thử xem “túp lều” mà người dân quê thường ngày chui đụt “nát” đến mức nào, và do đâu?

- “Này đây: [...] nó rúm rúm như cạp bánh tráng(đa)... Chính là có vô vàn con mọt đã đục khoét thành rãnh, thành hang, xuyên tạc trong đó như trong một hầm mỏ. Rồi đến sát chỗ kia [...] Từng đường đất kéo dài lên đến tận nóc như những đường đê. [...] đấy là hàng trăm con mối. Kìa, trên nóc lều, một vài con chuột thấy bóng người đang chạy trốn nháo nhác [...]. Ở đây, những con mèo toàn là giống mèo nằm bếp nhác nhớn, mà có lẽ lại sợ chuột nữa. Rồi còn hai mái lều.[...]”([1]).

- “Sau cái màn xanh của làng xóm bao bọc bằng những lũy tre ken đặc rậm rì kia thì ra không phải là một cuộc sống êm ả mà đang chất chứa bao nhiêu sự hàm oan, tức giận đáng thương xót và đáng ngạc nhiên. Từ ngày này đến tháng khác, có vô số con sâu mọt âm ỉ đục khoét phá khuấy(quấy phá) ở trong. Những con sâu mọt ấy khôn lanh, liều lĩnh và biến hóa lợi hại vô cùng, chặt đầu này nó mọc đầu khác như những con quái vật trong tiểu thuyết Tàu” (Loài động vật ngắn cổ)([2]).

- “Vậy thì ở đây cũng như ở đâu, cũng tiếng trống thúc như cháy nhà suốt đêm ngày, cũng những cảnh lùng sục bắt sưu nặn thuế, cũng dọa nạt, cùm kẹp, cũng van khóc, nài xin” (Mùa gặt của hương lý)([3]).

- “Thì ra sự thu thuế cho Nhà nước ở làng đây [...] là một sự mua bán. [...] Nó lại là một việc tra khảo cho lòi của ra nếu như không tìm được đồ đạc mà bắt lấy đem về” (Mùa gặt của hương lý)([4]).

Những dòng đặc tả theo lối tỉ dụ, phúng dụ (ở đoạn trích thứ 1và 2), cùng các nhận định về thực chất mục nát của bộ máy cai trị làng xã miền Trung (ở đoạn trích thứ 3 và 4) trên đây cho thấy tình trạng “lều nát” thực sự là một thảm cảnh. “Nát” hay “bấy nát” trong trường hợp này cần phải hiểu là sự hư hỏng đến mức trầm trọng, không còn có thể cứu chữa: trụ cột, tường vách, rui mè, nóc mái,... Tất tật đều “nát”. “Nát”, không phải do tác nhân bên ngoài (ví như sự phá hoại của thời gian, thiên tai,... chẳng hạn) mà do các nguyên nhân trực tiếp bên trong. Thủ phạm phá hoại ghê gớm nhất đối với “túp lều” ấy theo tác giả, không ai khác ngoài các ông hương chức (tổng lý, hào cường) gian tham nhà cao cửa rộng được “bảo cử” để “thay mặt cho công chúng”; tuy rằng áo lương, khăn đóng oai nghiêm bệ vệ, nhưng miệng có gang có thép, thường ngày hét ra lửa trong từng làng xã Việt Nam. Chúng là một lũ mối mọt, mèo chuột, sâu bọ, đục khoét, phá phách từ bên trong. Hành động, mánh khóe của chúng không chỉ là mối hại mà còn là mối nguy. Nguy hại không chỉ ở chỗ chúng ngang dọc hoành hành, “ăn dân”, “hiếp dân”, “bức dân” đến cùng cực, mà còn đáng sợ hơn: làm cho cái túp lều đơn sơ – ngôi nhà chung của dân quê ngày một thêm bấy nát, có nguy cơ sụp đổ tan tành. Và đó mới là mục đích cảnh báo chủ yếu của tác giả Túp lều nát. Những điều tra, phỏng vấn của tác giả rõ ràng không dừng lại ở việc phản ánh hoàn cảnh, mà còn nhằm đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ về một nguy cơ trông thấy nhãn tiền.

  •  “Dân kêu” - không hồi đáp

Nhưng, xét về lôgic, lều càng “nát”, đám cường hào hương lý ấy mới càng có nhiều cơ hội đục nước béo cò, trong khi người dân quê lam lũ một nắng hai sương càng bị đẩy nhanh hơn đến chỗ cùng khốn, bất an, tuyệt vọng. Từ trong chốn u tối, bấy nát ấy, họ chỉ còn biết bật lên những tiếng kêu thảm thiết.

Nguyễn trần Ai đã chăm chú lắng nghe những tiếng kêu ấy – những tiếng kêu với đủ cách, đủ giọng. Có bao nhiêu thủ đoạn, mánh khóe bóc lột o ép, đục nước béo cò của bọn tổng lý, hào cường là có bấy nhiêu niềm oan khổ đối với người dân quê. Vậy nên thân phận của kẻ “làm dân”, lại là dân cày nghèo kiết thì đúng là “khổ nhục trăm bề”. Vậy nên, “tiếng dân kêu” trong “túp lều nát” ấy có đủ cung bậc, sắc điệu, hình thức: có lời than khóc bồng bột thê lương, có lời kể lể phân trần từ tốn mà đẫm nước mắt, có tiếng thở dài cam phận não nề, có tiếng rên ai oán tức tưởi, có tiếng chửi cộc cằn uất ức; có khi vừa van xin vừa than thở với chính những kẻ đọa đày mình; có lúc vật vã kêu van khẩn cầu cả trời đất, có lúc cầu cứu quan trên; có lúc tìm đến cậy nhờ trí thức nhà báo, có lúc bằng lời hát vè như những tấm bia miệng dân gian; có khi bằng lá đơn khiếu tố nhờ người có chữ viết hộ; nhưng cũng có lúc dân kêu bằng hành động phản kháng quyết liệt thành án mạng kinh hoàng,... Điều thê thảm là những “tiếng dân kêu” như thế thường vô vọng, hầu như không mong đợi gì ở cơ hội được lắng nghe, hồi đáp.

Thực ra, người đọc có thể đã gặp đây đó trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam, trong các trang văn của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng, những tiếng kêu thống thiết của người nông dân nghèo. Lại cũng có thể gặp trên báo Tiếng dân, lời của người dân, hoặc của các trí thức nhân danh “tiếng dân” mà truyền đi những tiếng nói mang tính cách đại diện. Nhưng có lẽ ít khi người ta được trực tiếp nghe tiếng dân kêu thê thiết, khắc khoải, mải miết và ám ảnh đến như thế, trong trang sách của Nguyễn Trần Ai. Những tiếng dân kêu, đúng như tác giả tuyên bố, đã được “sao nguyên”. “Sao nguyên”, nên từ tình ý, nỗi niềm cho đến cách dùng từ địa phương khẩu ngữ (mang vào cả tiếng tục, tiếng lóng), đến cả âm sắc, giọng nói của một vùng thổ ngữ đặc trưng chất miền Trung,... Tất cả đều góp phần tạo nên một thứ tiếng nói – một hợp âm – mà âm sắc thật rền rĩ, ám ảnh. Có đến 10/14 số bài (ứng với khoảng 3/4 số trang trong Túp lều nát), được tác giả dành để “sao nguyên” cái thứ “tiếng dân kêu” khắc khoải, thê thiết mà chưa hề được lắng nghe, hồi đáp như thế([5]).

“Tiếng dân kêu”, do vậy – cùng với các biểu tượng “túp lều nát”, “loài động vật ngắn cổ”, “bức hàng rào giữa dân và Chính phủ”,... trong tập sách này – trở thành một trong những biểu tượng quan trọng nhất, nhằm chuyển tải thông điệp của tác phẩm. Nhưng tiếng kêu cũng có năm bảy loại. Tiếng kêu mà Nguyễn Trần Ai đã/đang lắng nghe và muốn đưa ra công luận, muốn truyền dẫn đến nhà chức trách, hầu mong mọi người cùng lắng nghe ở đây không phải là thứ tiếng nói của các ngài “cử tri” cao trọng chốn nghị trường mà người ta vẫn thường được đọc lại trên các tờ báo lớn như Phong hóa,Ngày nay,Tiếng dân,... Đây chỉ là tiếng kêu của một “loài động vật ngắn cổ” trong một xã hội thôn quê xa cách và tăm tối, cái xã hội chưa thoát khỏi tình trạng dã man, mông muội nặng nề cố hữu của nó.

“Loài động vật ngắn cổ” là cách gọi tên đầy xót xa, mai mỉa mà Nguyễn Trần Ai dành cho người dân quê lam lũ, khốn cùng ở làng xã miền Trung, đặc biệt trong mùa sưu thuế, với bao nhiêu mánh khóe nhũng lạm, trù ếm của tầng lớp tổng lý, hào cường. Ẩn dụ mang tính biểu tượng này cùng lúc gợi lên trong tâm thức độc giả ít nhất hai ý tưởng: thứ nhất, khi bị xem là “loài động vật”, tức là lúc người ta bị xã hội phủ nhận, xóa bỏ tư cách làm người, có nguy cơ trở thành một thứ con mồi và bị săn đuổi; thứ hai, đã là động vật “ngắn cổ” (thành ngữ dân gian: “thấp cổ bé miệng”) thì dù muốn kêu cũng không đủ hơi sức để kêu; mà có kêu, cũng chẳng ai thèm nghe, chẳng đáng được hồi đáp. 

Đúng vậy. Trong hàm nghĩa thứ nhất của biểu tượng – “loài dộng vật” – số phận của người dân quê được “phác vẽ” dưới ngòi bút phóng sự điều tra của tác giả, quả thật là hết sức thê thảm, chỉ đáng xem là một trong các loài động vật, không hơn. Hóa ra, sớm hơn nhiều so với những Chí Phèo (1941), Tư cách mõ (1943) của Nam Cao, người nông dân trong phóng sự của Nguyễn Trần Ai đã hiện lên như những nạn nhân cùng khốn nhất. Ở đó, họ bị giam hãm trong cái “túp lều” làng quê bấy nát, cái “túp lều” để “chui đụt” mà không biết từ bao giờ đã thành nơi ăn đời ở kiếp của họ. Ở đó, mặc nhiên, họ bị từ chối quyền “làm dân”, quyền “làm người”.

Trong hàm nghĩa thứ hai – sự “ngắn cổ” – người dân quê tội nghiệp, hẳn đã ngày này qua ngày khác, nhiều phen từng cất tiếng kêu than, mong được chia sẻ, được hồi đáp, nhưng, đúng là “miệng liền tai”! Một khi tổng lý, hào cường đã cấu kết với nhau, dựng một “cái hàng rào” kiên cố “ngăn cách giữa dân và Chính phủ” thì làm sao để Chính phủ biết được cảnh trạng, nghe được dân nói, ngay cả trường hợp Chính phủ thực sự muốn quan tâm săn sóc đến dân, bảo trợ cho dân. Và trước tình hình đứt gãy truyền thông ấy thì “tổng lý” cứ mặc sức dựa vào uy quyền của Chính phủ mà tác yêu tác quái, gây thêm nhiều khổ não oan khuất cho dân. Dân có kiện, có kêu oan thì nhiều khi cũng chỉ là con kiến “kiện củ khoai”, khốn khổ chỉ chồng thêm khốn khổ. Trong một số bài của tập phóng sự, tác giả đã nhiều lần phác vẽ lên hình ảnh những người dân mù chữ tội nghiệp đội đơn đi kiện cửa quan, và hầu như họ đều lâm vào cảnh ngộ vô vọng, hoặc, “chưa được vạ thì má đã sưng”. Thậm chí, ở bài Hai bức thư hay là gan ruột dân quê, 30 người dân “làng Đông Thượng, tổng P.L., huyện C.L, tỉnh Hà Tĩnh” trong khi tìm đường cứu vãn cho một vụ kiện đang gặp bế tắc bởi sự bất nhất trong phán quyết của tòa cấp phủ và cấp tỉnh, đã phải kêu to về hậu quả khốn đốn của việc kiện tụng này:

 “Họ (tức là đám hương chức – NTT) dựa vào oai quyền của Chánh phủ bắt hiếp, đánh đập và dần dần lấy hết của cải của chúng tôi [...] Đâm đầu ra đi kiện, chúng tôi vẫn đã biết rằng bao nhiêu nỗi khó khăn, thù hằn và tốn kém đều đổ lên đầu chúng tôi. Vậy mà thưa ngài! Chúng tôi vẫn phải cắn răng đi kiện, mong thấu tai quan trên để may chi cầu lấy một sự yên lặng thủ phận. Nhưng mặt trời không soi thấu chậu úp. Xử cho ba ông ấy trắng án chỉ là đóng thêm cho chúng tôi một lần gông nặng và to hơn lần gông trước. Chúng tôi mất hết cả sự tin cậy về các lẽ công bằng của Chánh phủ”([6]).

Vụ kiện ấy, nếu tiếp tục bế tắc, hay bị đảo ngược tình hình, thì có phần chắc là các bị đơn – 30 người dân quê – sẽ phải chuốc lấy một hậu quả bi thảm, thậm chí phải bỏ làng, tìm chốn khác mưu sinh. Bởi vì, “việc trả thù hẳn sẽ xảy đến ngay sau đây, nó còn ác độc gấp mấy những sự quấy đảo phá phách của họ ngày trước”([7]).

Như vậy, “lều nát”, “dân kêu” nhưng không được hồi đáp đúng theo lẽ phải và sự công bằng. Đó là tình trạng trầm kha, nhức nhối của nền pháp chế làng xã đương thời.

  •  Phá “lều” cũ, xây “lều” mới: thay đổi pháp chế

Từ việc cảnh báo “lều nát”, “dân kêu” không được hồi đáp (vì, như đã nói, dân chỉ là “loài động vật ngắn cổ”, còn tổng lý là “bức hàng rào” kiên cố “ngăn cách” giữa dân với Chính phủ), tập phóng sự nêu tiếp các đề xuất mang tính giải pháp: 1) Phải làm sao để Chính phủ, nhà chức trách thấy rõ thực trạng “lều nát” và nghe rõ “tiếng dân kêu”; 2) Muốn thay đổi thực trạng “lều nát” để cứu dân, chỉ có một cách: phá lều cũ, dựng lều mới; nghĩa là phải tiến hành cải cách pháp chế.

Về đề xuất thứ nhất, giải pháp của Nguyễn Trần Ai rất cụ thể rõ ràng: Trước tiên, phải dỡ bỏ hàng rào ngăn cách kia, dù nó kiên cố đến đâu, đồng thời, nhà chức trách phải tìm cách đến gần dân, thật sự thấu hiểu cảnh ngộ, nông nỗi của họ. Trên thực tế thì Chính phủ và nhà chức trách còn đứng xa “túp lều”, xa dân quá, nên hãy còn quá nhiều ngộ nhận và vô trách nhiệm([8]).

Thứ hai, cần phải dựa vào tầng lớp trí thức để khai trí cho người dân quê. Đây là chỗ gặp gỡ thú vị giữa Nguyễn Trần Ai và Ngô Tất Tố.

Trong một thiên phóng sự thuộc tập Việc làng (1940), Ngô Tất Tố đã nói đến quan hệ hợp tác giữa trí thức và dân quê. Ông miêu tả một cụ già trong cơn hấp hối, vẫn chưa chịu nhắm mắt. Ông lão tội nghiệp chờ nói cho được lời trăng trối với người bạn ký giả mà ông hằng tin cậy, rằng, việc làng nước cũng như việc kéo đẩy một cái xe bò; trí thức làm người kéo xe, nông dân là người đẩy xe; nếu nông dân không được trí thức quan tâm khai hóa, chân họ bị hủ tục trói buộc không thể góp sức đẩy xe, khi đó, trí thức dù tài giỏi thế nào cũng không thể kéo chiếc xe bò lên dốc được([9]).

Nhân vật ký giả – người trần thuật – hiện thân cho giới trí thức này, vì vậy, xuất hiện trong tác phẩm của Ngô Tất Tố không phải chỉ như một người nghe bình thường mà như một người được tin tưởng và sẵn lòng đảm lãnh sứ mệnh của người công bố sự thật, nói thay cho quan niệm, ý nguyện của người dân quê([10]).

Giống như Ngô Tất Tố, Nguyễn Trần Ai cũng thường xuyên nhấn mạnh mối quan hệ tích cực giữa dân quê và trí thức đặc biệt là vai trò của người trí thức. Ông đã trân trọng gọi họ là “những kỹ sư, bác vật của quốc gia”, cũng có nghĩa là mong mỏi họ bằng trí tuệ tài năng “kỹ sư, bác vật” của mình, tích cực tham gia kiến thiết lại “túp lều nát” sắp đổ chốn thôn quê.

Đề xuất thứ hai của tác giả Túp lều nát, rất táo bạo: phá lều cũ, dựng lều mới, tiến hành cải cách pháp chế. Ông cho rằng đó là trách nhiệm không thể lảng tránh của các nhà chính trị, các ngài ủy viên dân biểu, giới chức nói chung và Chính phủ, nhưng đồng thời cũng là một nghĩa cử của người trí thức có lương tri([11]).

Trong tập sách, tác giả đã nhiều lần nhấn mạnh, rằng: “dân kêu” thực ra không phải là để xin Chính phủ giảm thuế, vì điều dân mong muốn còn lớn hơn nhiều: một túp lều mới lành vững. Dân cũng không có ý mượn tay pháp luật để trừng trị cá nhân các ông lý trưởng này hay cụ hào mục kia([12]). Nguyện vọng của người dân chỉ là: được sống yên ổn, công bằng. Còn mục đích của người viết phóng sự thì, trên lập trường pháp lý, mong mỏi đưa ra được một giải pháp triệt để và có giá trị phổ quát hơn: cần phải phá lều nát, dựng lều mới. Muốn vậy, phải cải cách pháp chế, phải tạo ra một sự thay đổi căn cốt.

“Lều” đã bấy nát, cứu “lều”, cứu dân bằng cách nào? Tất nhiên không thể có giải pháp hữu hiệu, nếu không tìm đúng nguyên nhân. Mà việc truy vấn nguyên nhân, vốn phụ thuộc vào chỗ đứng, góc nhìn, quan niệm, tri thức của nhà phân tích, rất có thể cho nhiều kết quả; tùy theo nhận thức mà giải thích tình trạng “lều nát” bằng những lý do khác nhau. Tác giả Túp lều nát dĩ nhiên cũng đã tìm được câu trả lời theo cách riêng của mình.

Cứ như những gì ông viết trong tập phóng sự, thì có hai loại nguyên nhân, trực tiếp và sâu xa. Nguyên nhân trực tiếp thì không mấy khó khăn để nhận ra: “Lều nát”, “dân kêu” là do tình trạng thuế khóa bất công bởi các thủ đoạn, mánh khóe phù thu lạm bổ của bọn tổng lý. Nhưng nguyên nhân sâu xa thì khó nhận thấy hơn nhiều: nguồn gốc của bất công ngang trái là ở tình trạng mù mờ của pháp luật cùng sự hủ bại của pháp chế làng xã hay của bộ máy “quản trị” ở thôn quê; là sự ngăn cách tai hại giữa dân quê và Chính phủ.

“Bức tranh thế giới” được phác vẽ trong Túp lều nát cho thấy sự xung đột gay gắt có nguy cơ đẩy đến sự bùng nổ một mất một còn (như trong Một thiên kết luận đẫm máu): trong lúc người dân quê đổ mồ hôi sôi nước mắt để đóng tiền thuế đất, thuế ruộng (Mồ hôi và mồ hôi) thì đám hương lý nhung nhúc như sâu mọt lại ngồi mát chễm chệ một nơi mà tha hồ thủ lợi: “Họ gặt không phải như người nông dân gặt lúa ngoài đồng mà là gặt sưu thuế giữa dân gian” (Mùa gặt của Hương Lý)([13]).

Sự bất công, ngang trái đã được đặc tả, phóng to để lời cảnh báo có trọng lượng hơn. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trần Ai qua các thiên phóng sự của mình còn đi xa hơn: Ông vạch rõ căn nguyên của những bất công ngang trái kia là ở cơ chế vận hành “phản động” của bộ máy, một thiết chế làng xã hỗn pháp và mông muội. Pháp luật của Chính phủ – Bảo hộ và Nam triều – đã trở nên vô hiệu, bất lực hay đã bị làm cho mù lòa, què quặt ở các làng xã miền Trung.

Có thể xem đây là một sự đột phá rất quan trọng trong cách nhìn hiện thực cũng như cách nêu vấn đề ít nhiều có tính vượt trội của tác giả Túp lều nát so với nhiều tác phẩm văn xuôi viết về đời sống dân quê đương thời.

2.2. Một ý tưởng mang tính đột phá trong cải cách nông thôn

Thoạt nhìn, thấy nội dung hiện thực của Túp lều nát rất gần gũi với nhiều tác phẩm tiểu thuyết, phóng sự xuất hiện ở cuối thập niên ba mươi của thế kỷ XX. Nhưng đọc kỹ, sẽ thấy đóng góp riêng, khó lẫn của Nguyễn Trần Ai: đó là lời khuyến dụ dựa trên một ý tưởng mang tính đột phá.

Cùng mô tả tình trạng bất công về sưu thuế và ruộng đất của dân cày, nhưng nếu tiểu thuyết Tắt đèn (Ngô Tất Tố) phơi bày sự tàn bạo của chế độ tiền sưu đánh vào đầu người của “nhà nước” thực dân phong kiến, Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) tố cáo thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất nông dân của bọn quan lại, cường hào. Và, nếu Tập án cái đình, Việc làng (Ngô Tất Tố) phơi bày, lên án các hủ tục, Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng) phản ánh tình trạng kiếm chác nhốn nháo của đám chức dịch nơi huyện lỵ trong những ngày giáp Tết Nguyên đán ở nông thôn miền Bắc, thì Túp lều nát (Nguyễn Trần Ai) lại tập trung vạch rõ những thủ đoạn cưỡng chế, bóc lột của tổng lý cường hào qua việc phù thu lạm bổ thuế đất, để có thể thực hiện những “mùa gặt” lớn nhỏ từ mồ hôi xương máu người dân quê. Tình trạng bất công ở làng xã như thế, có thể nhiều người đã thấy rõ, song không phải ai cũng có thể nhận thấy và nói cho rõ ràng rằng: việc gây ra sự bất công của hương lý chính là hành vi phạm luật (hay “trái phép”([14]), “dối quan, lừa dân, ăn dân, hiếp dân và bức dân đến chết”,… như cách nói của ông) cùng thái độ coi thường, thách thức cả pháp luật([15]) của chúng.

Như vậy, cần thấy rõ, với Nguyễn Trần Ai, vấn đề đáng cảnh báo ở đây không phải hoặc chưa phải là ở chính sách sưu thuế của Chính phủ (ông không phê phán sưu cao, thuế nặng), mà là ở tình trạng phù thu nhũng lạm tàn độc, vô lý, bất công. Và, điều đáng nói là tình trạng ấy có nguồn gốc từ sự mù què của pháp luật, sự hủ bại của bộ máy cai trị.

Nguyên nhân sâu xa làm cho “lều nát” không thể cứu vãn chính là tình trạng u muội, bất lực, bất trị của pháp chế làng xã. Sự hư hỏng ở đây, qua cảnh báo của tác giả, không phải chỉ ở một ít rui, mè, phên, vách,… mà hư hỏng tất cả những gì trụ đỡ, che chắn giúp cho “túp lều” đứng được. Nghĩa là hỏng từ thiết chế hỏng đi. Cả một thiết chế “sắp đổ”, cần phải khẩn cấp tìm cách cứu lều, cứu dân. Đó là một thông điệp hết sức mạnh mẽ.

Nhưng cứu bằng cách nào?

Có hai lời khuyến dụ táo bạo của Nguyễn Trần Ai trong Túp lều nát cần được nói đến: Thứ nhất, phá “lều nát”, dựng “lều mới”; thứ hai, cải cách pháp chế, nắm giữ “cán cân công bằng của pháp luật”. Hai giải pháp này dĩ nhiên liên quan mật thiết với nhau trong mối quan hệ điều kiện - kết quả, cái nọ là điều kiện để thực hiện cái kia; cả hai vừa là mục tiêu vừa là giải pháp của nhau.

Giải pháp mà tác giả đề xuất thật là quyết liệt, táo bạo. Thực chất của giải pháp này là cải cách bộ máy, cải cách pháp chế, thực thi pháp luật; nghĩa là phải làm một cuộc cách mạng ở nông thôn, trừ tận gốc nạn nhũng lạm của bọn hương chức, mang lại cho dân quê một cuộc sống yên ổn, công bằng.

Phá “lều”, cũng tức là phá luôn chế độ tổng lý hào cường, một bộ máy cai trị đã mục nát và nhũng nhiễu thậm tệ. Nhưng phá “lều” nát, dựng “lều” mới, thực thi pháp chế theo “cán cân công bằng của pháp luật” cũng chính là tiệt đường nhũng lạm, đục nước béo cò của cái ổ hương lý tham tàn.

Những khuyến dụ như vậy thật táo bạo và mang tính đột phá([16]) rất rõ rệt.

Nhớ rằng hai tập phóng sự của Ngô Tất Tố Tập án cái đình, Việc làng cũng ra đời trong cao trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, gần như cùng thời điểm với Túp lều nát. Nhưng Ngô Tất Tố chỉ mới hướng ngòi bút đến việc phê phán hủ tục, hầu như chưa động chạm trực tiếp đến bộ máy cai trị nhà nước, dù là ở cấp làng xã đương thời. Vậy mà năm 1939, 1940 khi đem in thành sách cả hai tác phẩm này đã bị lưỡi kéo kiểm duyệt của Sở Liêm phóng cắt bỏ rất nhiều đoạn([17]) không thương tiếc. Một số đoạn bị cắt bỏ ấy, ở những lần in sau có được phục hồi.

Ngày nay, có dịp đọc lại, thấy những câu, đoạn bị cắt bỏ được phục hồi này thực ra không nói điều gì dữ dội quyết liệt lắm, nếu đem so sánh với tình ý của Túp lều nát. Thế mới biết, Nguyễn Trần Ai quả là “to gan lớn mật” khi ông nỗ lực đặc tả, phóng to tình trạng “bấy nát” thê thảm của “túp lều” ấy nhằm đập mạnh vào nhãn quan người đọc, đồng thời rất nhiều lần lớn tiếng kêu gọi phá “lều”. Thời điểm ấy, chỉ với mỗi việc sưu tầm, ghi chép một bài vè hát “tiếng dân kêu”, Nguyễn Trần Ai trong vai thầy giáo dạy chữ đã bị Lý S. – chủ nhà trọ của ông – vu cho tội làm C.S. và bị bắt vào giam ở đồn B.X. (Tiếng dân kêu). Vì vậy, khó mà hình dung hết những mối tai họa hiểm nguy sẽ xảy đến với ông cùng đứa con tinh thần “nghịch độc” của ông, nếu như tác phẩm được in sớm và phát hành rộng rãi hơn([18]).

Tuy nhiên, kêu gọi phá/dựng một cái lều thông thường, đôi khi chỉ cần thái độ quyết đoán với một chút ít can đảm, thậm chí liều lĩnh là đủ. Còn đây là chuyện phá/dựng một thiết chế xã hội, thay đổi một tương quan giai tầng, phá bỏ những đặc quyền đặc lợi bất chính của cường hào hương lý, đồng thời xóa bỏ các thói tục đã thành thâm căn cố đế nơi làng xã Việt Nam, thì chắc hẳn sẽ khó khăn, nguy hiểm hơn nhiều. Nó cần đến ít nhất một nhãn quan xã hội, những hiểu biết nhất định về pháp quyền, về dân quyền, dân chủ, về luật,… hay sâu rộng hơn: một “tri thức hệ”([19]) của diễn ngôn pháp quyền, làm chỗ dựa cho chủ trương đề xuất cải cách nông thôn. Cái “tri thức hệ” này, chỉ có thể hình thành ở Việt Nam đầu thế kỷ XX qua tầng lớp trí thức Tây học trẻ. Nó hiện hữu khá mạnh mẽ, tân kỳ thường là trong các diễn ngôn báo chí hơn là trong các sáng tác văn học đương thời. Tuy nhiên, nó lại hiện hữu khá trội bật trong tập phóng sự của Nguyễn Trần Ai.

Kỳ thực, vào thời điểm Nguyễn Trần Ai viết Túp lều nát, vấn đề pháp chế, pháp luật còn tương đối xa lạ, mơ hồ đối với đại đa số dân chúng, nhất là đối với các tầng lớp dân nghèo, dân quê.

Điều đó cũng là dễ hiểu. Ở một xã hội phong kiến tiểu nông như Việt Nam trước đây, pháp chế, pháp luật là chuyện thiêng, một bí mật trong tay nhà cai trị, dân miễn biết và miễn bàn. Phải đến thập niên ba mươi, khi những làn gió khai minh dân chủ của phương Tây tràn vào nước ta qua tầng lớp trí thức cùng các phương tiện truyền thông, ý niệm về pháp chế, pháp luật mới được khai phóng. Bấy giờ giới trí thức mới có ý thức về sự cần tôn trọng pháp luật, sự cần hiểu biết pháp luật và phổ biến kiến thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, nhất là dân quê. Đầu năm 1934, trên tuần báo Phong hóa, Tứ Ly có bài viết Dân quê và luật rất đáng chú ý. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết cấp bách phổ biến, phổ cập cho người dân trong nước, trong đó có dân quê, về luật. Tứ Ly khẳng định: 1) Thời phong kiến quân chủ ở nước ta, dân hầu như không được phép biết luật và luật pháp bị đồng nhất với đạo đức; đến thời văn minh phát triển, luật pháp và đạo đức mới được tách biệt rõ ràng([20]); 2) Không có luật và không biết luật thì xã hội có nguy cơ hỗn loạn và sự nguy hiểm bất trắc có thể xảy đến cho con người bất kỳ lúc nào; 3) Giới trí thức phải thông thạo về luật và phải bằng nhiều cách làm cho dân trong đó có dân quê biết luật để hành xử cho đúng luật([21]).

Vậy nên chỉ riêng cái ý tưởng “phải biết pháp luật” được nêu lên như một khẩu hiệu hành động (đồng thời với chủ trương phải làm cho dân quê biết pháp luật) đã là hết sức mới mẻ. Cùng với việc đề cập trực tiếp đến pháp luật, người ta nói đến quyền “công dân”, “nghị trường”, nói đến “tội phạm”, đến “tòa án”, “xử án” đến việc “khiếu kiện”, “oan sai”,...

Xem danh mục sau đủ thấy rõ không khí xã hội thời ấy:

Bảng 1. Danh mục bài báo về pháp luật, pháp chế, văn hóa thôn quê trên một số kỳ báo Phong hóa (PH), Ngày nay (NN) 1933-1935

 

 

Số báo/ ngày, tháng, năm

Tên bài

Tác giả - bút danh

PH 074  24 Nov 1933

Tập tục(chia trầu cau)

Nhị Linh

PH 090 23 Mars 1934

Quyền công dân

Nhị Linh

PH 091 30 Mars 1934

Dân quê và luật

Tứ Ly

PH 093 (13 Apr 1934)

Trí thức và dân quê

Tứ Ly

PH 094 20 Apr 1934

Các ông nghị

Nhị Linh

PH 095 27 Apr 1934

Các ông nghị nhà quê

Nhị Linh

PH 097 11 Mai 1934

Nhà cửa thôn quê

Nhất Linh

PH 099 25 Mai 1934

Dân quê

Nguyễn Thượng Hiền

PH 105 06 Jul 1934

Cải tạo thôn quê(lược dịch về nước Tàu)

Ida Treat (PH lược dịch)

PH 107 20 Jul 1934

Quan niệm mới(cá nhân – đoàn thể; Âu hóa thôn quê)

Nhị Linh

PH 108 27 Jul 1934

Quan niệm mới(cá nhân – đoàn thể; Âu hóa thôn quê)

Nhị Linh

NN 001 1935-01-30

Trước vành móng ngựa

Tứ Ly

NN 004 1935-03-01

Nhà cửa An Nam/

Việt Sinh

NN 004 1935-03-01

Trong rừng pháp luật

Tứ Ly

Nói cho công bằng, nhiều nhà văn trong Tự Lực Văn đoàn, hay rộng hơn, nhiều cây bút của báo Phong hóa, Ngày nay, khác với nhà văn thuộc các nhóm văn bút khác, là những người, từ rất sớm, đã chú ý đến pháp chế, pháp luật. Trong hoạt động văn chương, họ dành nhiều dụng công xây dựng các nhân vật chưa có hay ít gặp trong văn học trước đó như nhân vật người tự thú, quan tòa, trạng sư, thám tử, ký giả,... Các nhân vật này thường có hành tung, trí tuệ, hành vi hơi khác thường, mang một sức hấp dẫn, một quyền uy mới mẻ. Trong hoạt động văn hóa, xã hội, họ tận dụng sức mạnh của báo chí như đấu tranh tác động đến nghị trường, truyền thông về pháp luật và đề cao quyền của cá nhân trên lập trường dân chủ và pháp lý.

Tuy vậy, Tự Lực Văn đoàn và báo Phong hóa trước sau vẫn chỉ chú ý nhiều đến các vấn đề nóng chốn nghị trường, đến việc xây dựng phong hóa dân tộc gắn với đời sống của lớp thị dân; tích cực đặt vấn đề Âu hóa để cải cách nông thôn bằng lòng tốt cá nhân và bằng một ít kiến thức khoa học của nền văn minh “thái Tây”. Thực trạng “lều nát”, “dân kêu” nơi làng xã, bởi nhiều lý do, chưa thể tác động đáng kể đến nhãn quan xã hội và nhãn quan nghệ thuật của họ. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Trần Ai, với Túp lều nát đã cố gắng và có những thành công rất đáng kể trong việc bù lấp khoảng trống này. Chính ông, chứ không phải ai khác, là nhà phóng sự đầu tiên lên tiếng bênh vực và kêu gọi công luận cùng bênh vực người dân quê trên lập trường pháp lý; kêu gọi sự hồi đáp “tiếng dân kêu” bằng những cải cách pháp chế thiết thực. Tiếng nói khuyến dụ cải cách pháp chế ấy vang lên rất dõng dạc và đầy nhiệt hứng.

Hành động thủ đoạn của đám hương lý ở làng xã Việt Nam cũng lần đầu tiên được nhìn, không chỉ từ góc độ đạo đức, đạo lý (không chủ trương trừng phạt cá nhân) mà còn được nhìn như những hành vi phạm luật, trái luật từ lập trường pháp lý. Nói khác đi là các nhân vật mang tính phản diện trong phóng sự hầu như đều được tiếp cận từ góc nhìn này. Góc nhìn và cách tiếp cận đó làm nên nét độc đáo trong cách thực hiện và bút pháp phóng sự của Nguyễn Trần Ai.

Lại nữa, cũng không hề ngẫu nhiên mà khi mở tập Túp lều nát, độc giả gặp ngay ở các nhan đề, lời đề tặng, lời đề từ, những gợi nhắc về công lý, pháp chế, quyết sách dựa vào ý dân. Tiếp vào các bài lại gần như thường xuyên bắt gặp các phát ngôn về công lý, luật pháp, về chế độ bảo cử hay nạn phù thu lạm bổ, về sự bưng bít, bóp méo thông tin pháp lý,... đặc biệt là các phát ngôn phàn nàn về tình trạng tệ hại, bất nhất trong thực thi pháp luật ở chốn thôn quê.

Khi thì qua lời phân tích luận giải của chính tác giả, khi thì qua lời bình phẩm của nhân chứng, khi thì qua lời tố giác trong đơn thư khiếu kiện của người dân, khi thì qua lời tâm tình của một người bạn thân thiết tri kỷ; khi thì với giọng phàn nàn, ca cẩm, khi thì với giọng chỉ trích mỉa mai, hay giọng tha thiết, ước ao,... các phát ngôn ấy vang lên như những điểm nhấn quan trọng, tạo một sức cộng hưởng lớn trong tập phóng sự. Luật pháp của Chính phủ dường như đang lâm vào tình trạng mù/què([22])trước nạn nhũng lạm của đám hương lý, nhưng lại có thể trở thành con ngáo ộp trong tay chúng để tác quái với người dân quê. Cần phải thay đổi pháp chế để bảo đảm “cán cân công bằng của pháp luật”. Đó là giải pháp cấp bách, theo quan niệm của Nguyễn Trần Ai. Thật là mỉa mai, khi trên một dải đất có tới hai Chính phủ trị vì, cùng “núp dưới bóng cờ ba sắc” mà lại để cho dân phải nói thẳng, không chút úp mở, rằng: “Chúng tôi mất hết cả sự tin cậy về các lẽ công bằng của Chánh phủ”([23]).

Cả người dân quê, lẫn những trí thức gần gũi với dân quê, cả người trần thuật cùng các nhân chứng, nạn nhân trong lớp tự sự thuộc mười ba bài phóng sự, lẫn tác giả các bức thư, các đơn thư khiếu tố trong bài cuối sách, đều thể hiện niềm thiết tha kỳ vọng “có một ông Thần công lý sáng láng như mặt trời, trong suốt như nước lạnh, từ đâu bỗng hiện ra sừng sững làm người hộ mệnh cho dân”([24]). Niềm khát khao này đã được thể hiện như một cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm.

Nhưng theo tinh thần cải cách pháp chế của Nguyễn Trần Ai, thì bộ máy “quản trị” làng xã sẽ được xây dựng lại như thế nào, bộ máy ấy mang lại những lợi ích gì?

Trong bài “Tựa”, tác giả đã tỏ rõ cảm quan xã hội mang tính thực tiễn của mình, khi nêu rõ hai nội dung thực tiễn sau đây:

Thứ nhất, kiểu mẫu làng mới phải dựa trên nguyên tắc pháp chế mới về nhân sự hương lý: 1) Xóa bỏ “bảo cử, bỏ thăm tổng lý” thay bằng việc “Chính phủ lựa chọn” (vì nhân sự của bộ máy cũ nát hiện thời “chỉ là một sự mua bán đút lót và ép buộc” dựa trên “oai quyền của roi mây và đồng bạc”, chỉ còn là “một bộ áo mã”); tổng lý được ăn lương và làm việc theo hương ước (luật nhỏ của dân làng); 2) Tổng lý, một số có thể do quan trên cử tuyển; số khác qua thi tuyển với chế độ “khảo thí” công minh, để chọn trong số những người có học hành bằng cấp những ai xứng đáng (tăng chữ quốc ngữ, chữ Pháp, giảm chữ Hán) ra làm việc trong bộ máy quản trị làng xã.

Thứ hai, kiểu mẫu pháp chế làng mới nếu thành công, sẽ mang lại bốn điều lợi: 1) Cải cách nông thôn, bãi bỏ hủ tục; 2) phổ thông hóa chữ quốc ngữ từng bước; 3) tạo công ăn việc làm, tránh thất nghiệp; 4) ban cho dân một “cái ơn huệ to tát” (hơn cả việc giảm sưu, giảm thuế) để sống, làm ăn yên ổn (như dân Nam Kỳ tự trị và dân Bắc Kỳ bảo hộ).

Vậy là, sau khi vạch trần tình trạng bất công, ông đã chỉ rõ nguyên nhân không phải ở vấn đề đạo đức tốt/xấu thiện/ác, hay xung đột giai cấp; trái lại, chủ yếu là tình trạng loạn pháp, là sự mục nát của thiết chế làng xã. Ông lên tiếng cảnh báo mạnh mẽ bằng cách vẽ nên hình ảnh “túp lều nát” đập mạnh vào nhãn quan độc giả, khẩn thiết mời họ cùng xem cảnh “lều nát” và cùng chăm chú nghe “tiếng dân kêu”. Lời khuyến dụ phá lều nát dựng lều mới không phải là mộng ước mơ hồ, hay là lời nói suông. Trái lại, nó dựa trên một tri thức hệ mới mẻ và đầy xác tín.

2.3. Phóng sự luận đề và xu hướng tổng hợp kỹ thuật thể loại

  •  Đậm đặc chất luận đề

Chất luận đề([25])trong phóng sự luận đề (cũng như tiểu thuyết luận đề), nói chung, thường quy tụ ở mấy tiêu chí quan trọng([26])sau đây:

  1. Tác phẩm nêu lên ít nhất một mệnh đề hay một nhận định khái quát về thực tại được cho là đúng và được minh xác sinh động bằng các phương tiện văn học, báo chí. Đó thường là một vấn đề quan yếu của thực tại được mô tả, cảnh báo, đồng thời đề đạt hướng giải quyết,... theo lập trường tư tưởng, quan niệm hay chủ kiến của tác giả;
  2. Mệnh đề được nêu ra có ý nghĩa phản tỉnh, dựa trên một lập trường tư tưởng (hay một quan niệm) được xem là nhân văn, tiến bộ; nó chi phối trực tiếp cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm cũng như việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện văn học, báo chí.

   Mệnh đề được nêu lên và minh xác sinh động bằng các phương tiện văn học trong Túp lều nát, như đã được phân tích trên đây, có thể diễn đạt khái quát như sau: hiện trạng “lều nát”, “dân kêu” là một quốc nạn tại các làng xã Trung Kỳ, hiện trạng ấy đòi hỏi Chính phủ và nhà chức trách mau chóng cải cách pháp chế (phá lều nát, dựng lều mới) ở nông thôn để cứu dân.

Vai trò chi phối của mệnh đề nêu trên đối với cấu trúc chỉnh thể tác phẩm Túp lều nát cũng như việc lựa chọn sử dụng các phương tiện văn học trong tác phẩm này là khá rõ rệt: nó trở thành dòng mạch và chất keo kết dính trong bố cục ba phần cũng như các nội dung cụ thể của tác phẩm.

  •  Bố cục ba phần và chất keo kết dính

Tác phẩm được bố cục ba phần: phần đầu (“Tựa”), phần giữa (12 bài điều tra, phỏng vấn) và phần cuối (Hai bức thư hay là gan ruột dân quê). Điều đáng nói ở đây là mối quan hệ liên kết nội dung và hình thức hơi đặc biệt giữa ba phần này. Thoạt nhìn có vẻ ba phần là ba mảng riêng, đứt đoạn, rời rạc; và nội dung, chủ đề tác phẩm chỉ gói ghém trong 12 bài thuộc phần giữa. Song thực tế không phải vậy, đó là ba phần không thể tách rời nhau, không thể lược bớt đi bất cứ phần nào mà không làm phương hại đến các phần còn lại cũng như phương hại đến sự tập trung thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nói cách khác, mỗi phần đều có tính năng minh chứng, bảo vệ mệnh đề, và đều góp phần làm nên tính thống nhất về nội dung, tính hoàn chỉnh về hình thức của văn bản.

Chỉ cần làm một phép thử: cắt bỏ đi bài “tựa dài dặc”([27]) ở phần đầu và/hoặc mấy “bức thư” được đưa vào cuối sách kia, sẽ thấy ngay rằng chẳng những độ sáng rõ, tính đúng đắn của mệnh đề bị suy giảm mà đồng thời, tính luận đề của 12 bài điều tra phỏng vấn ở phần giữa cũng giảm theo. Thậm chí từ đó người ta còn vỡ lẽ ra rằng: phần đầu và phần cuối ấy không phải là cái gì được thêm thắt, chắp vào bên lề văn bản mà trái lại, chính đó là bộ phận tùng thuộc và có chức năng không thể thay thế trong tác phẩm. Vị thế, chức năng của phần đầu và phần cuối ở đây có thể khái quát như sau: 1) là bộ phận không thể thiếu trong việc thể hiện nội dung ý tưởng chính của tác phẩm; 2) mang tính năng cấu trúc rõ rệt, bảo đảm sự bền vững chỉnh thể của văn bản; 3) góp phần khắc họa hình tượng trung tâm của tác phẩm.

Hình tượng trung tâm của tập phóng sự này chính là TÚP LỀU NÁT, đúng như nhan đề tác phẩm. “Túp lều nát”, như trên đã xác định, hình ảnh về sự cùng mạt của một hoàn cảnh, một môi trường sống, một thiết chế xã hội. Hình tượng này bao trùm, xuyên suốt 12 thiên phóng sự, nhưng cũng hiện hữu trong bài “Tựa” và “Hai bức thư hay là gan ruột dân quê” dưới hình thức một biểu tượng mà ý nghĩa của nó thấm nhuần trong cách ví von, trong từng con số thống kê, từng chứng liệu sống. Trên nguyên tắc, trong không gian của văn bản văn học, ở đâu hiện hữu bóng dáng, sự sống của hình tượng, nhân vật trung tâm tác phẩm, ở đó vẫn là bộ phận thuộc nội vi văn bản, bởi nó là phương tiện cơ sở quan trọng để thể hiện chủ đề tác phẩm và tư tưởng của tác giả.

Thêm nữa, về mặt kết cấu, cả “Tựa” và “Hai bức thư hay là gan ruột dân quê”, trong sự liên hệ mật thiết với 12 thiên phóng sự, đã phát huy tính năng cấu trúc của nó. Trong áp lực của mệnh đề trung tâm và chỉnh thể của cấu trúc tác phẩm, tất cả các lớp tự sự, các bài, các yếu tố trong Túp lều nát, dù “dị chất” đến đâu, đều buộc phải trở nên “đồng chất” để trở thành “một phần của phóng sự” theo nguyên tắc tổng hợp thể loại (Đây cũng là phương thức giúp cho các thể loại lớn như tiểu thuyết và phóng sự văn học tự làm giàu, làm mới cho mình).

Trong tác phẩm, phần đầu, “Tựa”, chính là một bài phóng sự tư liệu - chính luận, có chức năng nêu vấn đề (xác lập mệnh đề trung tâm trong phóng sự) một cách bao quát, nhằm giới thiệu bối cảnh và nhân vật trung tâm của toàn tập – hình tượng TÚP LỀU NÁT – một cách đầy ấn tượng.

Phần giữa, 12 hai thiên phỏng vấn, điều tra, miêu tả hiện trạng, mỗi bài là một điểm nhấn, mỗi cảnh trạng, khắc họa một hay một nhóm nhân vật chính, “sao nguyên” một vài trường hợp “tiếng dân kêu”, hay một vài mánh khóe, hành vi lộng quyền nhũng lạm bẩn thỉu của đám hương chức. Nội dung chi tiết của các thiên này có thể khác nhau, song tất cả đều được viết ra như là các trường hợp cụ thể về nỗi cơ cực thê thảm của người dân đang phải sống chui đụt khắc khoải qua ngày. Tức là tất cả đều quy tụ vào nghĩa ẩn dụ của hình tượng trung tâm – biểu tượng TÚP LỀU NÁT.

Phần cuối, “Hai bức thư hay là gan ruột dân quê”, thực chất cũng là một thiên phóng sự nhưng dưới hình thức thư tín, mang dư âm của một khúc “vĩ thanh” mà bằng sức ngân vọng riêng của nó, tiếp tục dẫn chiếu hình tượng trung tâm – hình tượng TÚP LỀU NÁT – lan tỏa, bao trùm một bối cảnh không gian rộng lớn hơn. Với khúc “vĩ thanh” này, tác phẩm không khép lại mà mở ra. Người đọc vỡ lẽ: kỳ thực, tình trạng bấy nát và những gì diễn ra trong “túp lều” làng xã, qua các thiên phóng sự kia, không phải chỉ là chuyện riêng của một làng, một xã cụ thể nào, mà đáng kinh sợ thay, lại chính là chuyện thường gặp ở hàng trăm, hàng ngàn làng xã của “khúc ruột” miền Trung dằng dặc. Thậm chí biết đâu, đó rất có thể còn là chuyện chung của mọi vùng thôn quê Việt Nam “trên dải đất có đến hai Chính phủ trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc”: Tất cả đều chung một cảnh trạng “lều nát” bi đát, thê lương. Đây thực chất là một trong các trường hợp tương tự (được chính tác giả ghép nối vào tác phẩm), có tác dụng “bồi thấn”, nâng cấp thêm tính chất điển hình của cảnh “lều nát”, “dân kêu” trong toàn bộ phần trước đó của văn bản. Tính chất tương tự trong cấu trúc (hay là cấu trúc tương tự) bộc lộ ở chỗ: a) cùng công khai nói đến người nhận (sách/thư) và đưa nhân vật người đọc vào văn bản (một bên là Cụ Lớn Bùi Bằng Đoàn/“các ngài”, một bên là nhà báo A. Ernerst Babut/“bạn Nguyễn Trần Ai”); b) cùng “phác vẽ” hình ảnh các nạn nhân/phạm nhân của quốc nạn phù thu, nhũng lạm, bức hại dân quê ở làng xã miền Trung; đều có cảnh nạn nhân “túng hoảng” phải đội đơn đi kiện; c) cùng sử dụng kỹ thuật “sao nguyên” (lời thuật/kể của các nạn nhân, nhân chứng/các chứng liệu xác thực/các đơn, thư khiếu kiện,…).

Như vậy, giữa ba phần có vẻ rời rạc ấy có một mạch nguồn mà dòng chảy được duy trì thông suốt. Mạch nguồn ấy được thiết lập, duy trì khéo léo trên cả hai bình diện nội dung và hình thức. Trong cấu trúc của tập phóng sự luận đề này có sự kết hợp điều tra với chính luận; kết hợp chứng liệu với biểu tượng; kết hợp trình bày theo lối vừa diễn dịch vừa quy nạp.

Có thể sơ đồ hóa quan hệ giữa các phần ấy như sau:

 

Quan hệ diễn dịch                            Quan hệ quy nạp, mở rộng

 

[“Tựa”      <=>       12 bài điều tra    <=>    “Hai bức thư ...”]

                                    “CHÍNH BIÊN”                                                                                             “TỤC BIÊN”

                                                                                                CẤU TRÚC TƯƠNG TỰ

 

            Hình trên: Sơ đồ bố cục ba phần, quan hệ diễn dịch - quy nạp, mở rộng và cấu trúc tương tự của phóng sự Túp lều nát

 

Một mạch lạc như thế nhằm tạo được sự tương tác, soi chiếu đầy ý nghĩa giữa phần đầu, phần giữa, phần cuối; giữa “chính biên” và “tục biên”. Nếu cắt bỏ lớp “tục biên” đi, tính điển hình và tầm khái quát của “túp lều nát” sẽ suy giảm. Còn nếu cắt bỏ “lời tựa” và “vĩ thanh” đi thì 12 thiên phóng sự điều tra kia sẽ chỉ còn là 12 trường hợp đơn lẻ, cụ thể, có vẻ như được đặt cạnh nhau mà thôi. Những trường hợp cụ thể, đơn lẻ như vậy dù số lượng có được gấp lên nhiều lần thì vẫn thế, sức nặng cảnh báo vẫn chẳng lớn hơn bao nhiêu. Phải gắn chúng với phần đầu (“Tựa”) và phần cuối (Hai bức thư hay là gan ruột dân quê), theo lối cấu trúc tương tự mà Nguyễn Trần Ai đã làm, mới tạo ra được một biến đổi về chất cho sức khái quát chính luận của phóng sự. Theo đó, vấn đề được nêu lên nhằm cảnh báo cũng trở nên cấp bách và có tầm kích lớn lao hơn.

  •  Chứng liệu xác thực, đầy đặn và sự liên kết biểu tượng

Mệnh đề trung tâm cần được “bảo vệ bằng luận cứ”, mà ở đây luận cứ quyết định là các chứng liệu điều tra. Trong áp lực của mệnh đề trung tâm như thế, tác giả đã sử dụng đồng thời cả kỹ thuật “ghi âm” giọng nói, lời kể, phát ngôn (mà ông gọi là “sao nguyên” hay “khắc từng chữ”) và kỹ thuật “ký họa” cảnh tượng, chân dung (mà ông gọi là “phác vẽ”); huy động sức mạnh của các chứng liệu sống; thủ pháp phóng to, láy lại; các lời bình luận và các hình ảnh được nâng lên thành biểu tượng. Tất cả, nhằm tạo thêm sức ám ảnh, thuyết phục cho những lời cảnh báo, những khuyến dụ đậm chất luận đề của tác phẩm.

Tính luận đề của phóng sự cũng khiến tác giả phải duy trì đồng thời và hài hòa giữa tính chất xác thực, khúc chiết – cách nói hiển ngôn theo nguyên tắc của văn xuôi báo chí (ngôn ngữ “sự thực”) với tính chất uyển chuyển bóng bẩy – cách nói hàm ngôn, giàu hình ảnh, cảm xúc của văn xuôi nghệ thuật (tức là “cái lốt tiểu thuyết”). Điều này, được Nguyễn Trần Ai ý thức rất rõ khi đưa vào trong bức thư của người bạn đọc tên G. lời nhận xét sau đây: “Bạn thuật chuyện thật có nghề! Chuyện nào bạn cũng gói sự thực vào trong cái lốt tiểu thuyết. Xem T.L.N. nếu tôi không ở nhà quê dễ thường sẽ ngờ đây là tiểu thuyết”.  Các bài Mùa gặt của hương lý([28]), Mồ hôi và mồ hôi([29]), Chế độ hào cường([30]),... đều là những trường hợp tiêu biểu, minh chứng cho khả năng, xu hướng phát huy tính xác thực, khúc chiết, hiển ngôn của tác phẩm là rất rõ rệt. Lần theo về bố cục tuyến tính, người đọc có thể dễ dàng lập sơ đồ dàn ý cho việc triển khai chứng liệu điều tra của tác giả với địa điểm, tên thật, chức vụ của thủ phạm, số liệu mánh khóe phù thu lạm bổ của từng người; tên thật, lời kể, giọng nói của nhân chứng và/hoặc của nạn nhân; các vụ việc, tội chứng với tình tiết diễn biến cụ thể đều được kê biên rõ ràng. Đến mức, từ các phóng sự này người ta có thể lập thành một danh mục với đầy đủ thông tin về các vụ việc từ cả phía nạn nhân lẫn phía thủ phạm cùng các chiêu trò trái luật của chúng.

Trong khi đó, các hình ảnh, ví von, các biểu tượng cũng được xây dựng thành chuỗi liên kết với nhau trong những trường nghĩa nhất định, nhằm giúp chúng soi chiếu lẫn nhau; vừa khơi sâu vừa mở rộng ý nghĩa, nhằm gợi lên những liên tưởng sâu sắc: “túp lều nát”, “tiếng dân kêu”, “loài động vật ngắn cổ”, “mùa gặt của hương lý”, “mồ hôi và mồ hôi”, “tổng lý, một bức hàng rào giữa dân và Chính phủ”, “Mạnh Lệ Quân nước Nam”, “thiên kết luận đẫm máu”,...

Cũng trong áp lực của kết cấu, một mặt, chuỗi biểu tượng liên kết với nhau, cấp thêm những nét nghĩa khái quát hơn ám ảnh hơn cho các con số, các chứng liệu,… làm hiện ra một bức tranh thế giới thật và sinh động hơn, có cảm giác trực quan, sờ chạm được. Mặt khác, các chứng liệu điều tra đến lượt nó, lại làm cho các hình ảnh, biểu tượng mang một ý nghĩa chân xác của sự thật, tránh được cảm giác thông thường, rằng, chúng chỉ là sản phẩm suy cảm chủ quan của nghệ sĩ.

  •  Sự phân giới “người trần thuật” và “người kể chuyện”, “người phát” và “người nhận” thông điệp 

Như trên đã nói, thực ra, tác phẩm Túp lều nát có đến hai lớp tự sự. Hai lớp này không lồng ghép mà chắp nối vào nhau. Tuy rất khác biệt về dung lượng, vị thế, song cả hai vẫn duy trì được tính đẳng lập nhất định để tạo sự cộng hưởng đầy dụng ý. Lớp tự sự thứ nhất (về cảnh “lều nát”, “dân kêu”), có thể xem như một kiểu “chính biên”, chiếm dung lượng tối đa của tác phẩm, từ trang đầu đến trang 117, bao gồm bài “Tựa”và 12 bài điều tra, phỏng vấn kế tiếp. Lớp này do người trần thuật xưng “tôi” trong vai trò ký giả thuật lại. Lớp tự sự thứ hai (cũng về cảnh “lều nát”, “dân kêu”), có thể xem như một kiểu “tục biên”, chiếm một dung lượng tối thiểu, khiêm nhường: chưa đầy 6 trang, từ trang 118 đến trang 124, được kiến tạo theo lối “thư lồng trong thư”. Lớp này cũng “sao nguyên” tiếng kêu (dưới dạng thư tín) của 30 người dân khốn khổ, từ làng Đông Thượng, tổng P.L., huyện C.L., tỉnh Hà Tĩnh gửi (qua thư của một người tên G., bạn của tác giả Túp lều nát; người này là một trí thức làm ruộng ở làng quê) đến một địa chỉ khá cao xa: Bức thư của 30 người dân quê ấy, đề rõ người nhận là “ông A. Ernerst Babut ở Hà Nội” – Chủ bút một vài tờ báo có tiếng – người “thường bênh vực cho dân An Nam”.

Địa vị của người nhận bức thư khá đặc biệt này rõ ràng đã gợi nhắc đến cái địa vị của người được Nguyễn Trần Ai bút đề: kính dâng “tập sách thô bỉ” của ông ở trang bìa lót của Túp lều nát. Đó là “Cụ lớn Bùi Bằng Đoàn, người nắm cán cân công bằng của pháp luật”. Nghĩa là, có vẻ như cả hai (30 người dân quê – tác giả bức thư và Nguyễn Trần Ai – người viết Túp lều nát), đều hướng đến và rất kỳ vọng ở những người nhận mà thời ấy được kính nể như là các “yếu nhân”.

Cụ Lớn Bùi Bằng Đoàn, với người viết phóng sự, dĩ nhiên là một “yếu nhân”([31]). Điều đó không có gì khó hiểu. Còn trường hợp ông A. Ernerst Babut thì sao? Cứ theo lời lẽ trong bức thư của 30 người dân này, thì A. Ernerst Babut là một nhà báo được cho là có “cán viết công bình và vô tư”, rất đáng để gửi gắm lòng tin và hy vọng. Đó là một sự lựa chọn người nhận thông điệp đầy dụng ý. Bùi công có thể tác động trực tiếp đến Chính phủ Nam triều; A. Ernerst Babut có thể qua báo chí truyền thông, tác động đến Chính phủ Bảo hộ và mẫu quốc để tạo những thay đổi quan trọng về pháp chế.

Giống như nội dung tự sự “kính dâng Cụ Lớn Bùi Bằng Đoàn”, thuộc lớp “chính biên”, ở lớp “tục biên”, nội dung thư viết cho ông A. Ernerst Babut cũng kể về nỗi oan khổ của người dân quê, hiện đang phải chui đụt trong một túp lều “bấy nát” không kém, thậm chí đã phải trù liệu đến khả năng phải bỏ làng mà đi. Bức thư kể vắn tắt về nội dung, cục diện vụ kiện trớ trêu đang bị chuyển thắng thành bại do cách xử án oan sai, trái ngược giữa tòa cấp phủ (phán trọng tội, phạt tù) và tòa cấp tỉnh (phán vô tội, xử trắng án). Đó là chuyện cấu kết giữa ba ông tổng lý hào cường của thôn để thực hiện các chiêu trò phù thu, nhũng lạm, chèn ép oan ức những người dân quê. Lâm vào tình cảnh “túng cả công lý đến nỗi phải viết thư chạy hoảng”, họ đồng loạt 30 người “ký tên và điểm chỉ” (giống như trong lớp “chính biên” có tờ đơn khiếu tố của 50 người dân làng đồng ký tên và điểm chỉ đang chờ được gửi đến cửa quan).

Những sự tương đồng và/hoặc trùng điệp cố ý ấy trong cấu trúc tương tự của tập phóng sự này làm nảy sinh một vấn đề khá hệ trọng, rất đáng đem ra tra vấn: việc xác lập chủ thể nói và chủ thể nghe từ góc độ giao tiếp thông qua văn bản.

Cách tổ chức văn bản tác phẩm như thế cho thấy tác giả rất có ý thức và đặc biệt quan tâm đến việc xác lập mối quan hệ phát-nhận, cũng như “nhân tố người nói” và “nhân tố người nghe” trong một bối cảnh giao tiếp ước lệ khi thực hiện tập phóng sự này. Ở đây, kỹ thuật phân giới và liên kết giữa kể-ghi, thuật-nghe trong cấu trúc tự sự đã được sử dụng như là để thực hiện một chiến lược giao tiếp, truyền tải “tiếng dân kêu”. Và, vì là nhằm truyền tải “tiếng dân kêu”, đề xuất cải cách pháp chế dưới hình thức phóng sự luận đề, cho nên, sử dụng chứng liệu và hình ảnh biểu tượng thế nào cho hợp lý, hiệu quả là việc cần được cân nhắc kỹ lưỡng – điều mà một phóng sự như Tập án cái đình, Việc làng (Ngô Tất Tố) hay Một huyện ăn Tết, Cơm thầy cơm cô (Vũ Trọng Phụng), vốn nghiêng về chủ đích phanh phui, mổ xẻ hiện thực,… hơn là chú ý đề xuất giải pháp hay nhắc nhở trách nhiệm của Chính phủ và giới chức đối đời sống với dân quê – có thể chưa hoặc không cần tính đến một cách thấu đáo.

Trước hết, từ góc nhìn trần thuật, có thể dễ dàng nhận thấy trong cấu trúc tự sự của Túp lều nát hiện hữu cả người trần thuậtngười kể chuyện([32])với chức năng tự sự khác nhau và được phân bố rất có dụng ý. Xem bảng phân bố dưới đây:

Bảng 2. Người trần thuật, Người kể chuyện & cấu trúc trần thuật “Túp lều nát”

 

Tên mục/bài

Người trần thuật

Người kể chuyện

Đề tặng[Kính dâng]: Cụ lớn Bùi Bằng Đoàn

Đề từ: Nguyên văn lời Mạnh Tử

Nguyễn Trần Ai

 

Tựa

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

“phác vẽ”

Báo Tiếng dân

Loài động vật ngắn cổ

“Tôi” - kýgiả:

“sao nguyên”

“phác vẽ”

Nạn nhân:

Bác chắt Ch.

(với chuyện phù thu, lạm bổ oan ức; tiếng chửi, lời than đậm tính khẩu ngữ địa phương)

Mùa gặt của hương lý

“Tôi” - thám tử:

Trần thuật “phác vẽ”, luận bình

       

Mạnh Lệ Quân nước Nam

“Tôi” - ký giả

Nhân chứng:

Chú H;“thằng nhỏ”

Mồ hôi và mồ hôi

 

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

Nhân chứng:

“cụ Phó”;Tri B.

Chế độ hào cường

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

Nhân chứng:

“cụ Phó”;Tri B.

Tổng Lý, một bức hàng rào giữa dân và Chính phủ

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

Nhân chứng:

“thầy Lý trẻ”

Phương pháp bảo cử mầu nhiệm

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

Nhân chứng:

Cựu Đ.;Lý T.

Tiếng dân kêu

“Tôi” - ký giả

“sao nguyên”

Nạn nhân:

- “bác quyền khố đỏ” và tờ đơn;

- một đứa trẻ hát ru, một “cố làng chài” cùng bài hát giặm Nghệ Tĩnh

“Dĩ dật đãi lao”

“Tôi” - ký giả - tù nhân

“sao nguyên”

“phác vẽ”

Nhân chứng: Tư S.

Nạn nhân: chú H. (về “đoạn tiểu thuyết ly kỳ”)

Những người thay mặt cho công chúng

“Tôi” - ký giả - tù nhân:

“phác vẽ”

“sao nguyên”

Các nạn nhân:

- Những người đội đơn đi kiện và đơn kiện của 50 người dân quê

- Hai người dân “áo tang khăn trắng” và “trang thảm sử” của Mai-Diên ngụ ở làng Ng.H, tổng Đ.Y.

Số tiền trời cho

“Tôi” - ký giả:

“phác vẽ”

“sao nguyên”

Nhân chứng:

Đám đông và người cha tội nghiệpcó con bị hãm hiếp

Một thiên kết luận đẫm máu

“Tôi” - ký giả:

“phác vẽ”

“sao nguyên”

Nhân chứng:

- Đám đông dân chúng làng Vạn Phần;

- Hai xác chết (một của chánh tổng, một của anh Khương)

- Người chứng kiến vụ án mạng

Hai bức thư hay là gan ruột dân quê

 

 

Người trần thuật ẩn mình (Nguyễn Trần Ai): “sao nguyên”

Nhân chứng:

Người bạn đọc tên G;

Nạn nhân:

30 người dân khiếutố, và đơn thư gửi nhà báo A. Ernerst Babut

 

    Điểm nhìn bao trùm xuyên suốt tác phẩm là của nhân vật “tôi” – ký giả. Điểm nhìn của anh ta đại diện cho giới trí thức cấp tiến. “Tôi” – người trần thuật đứng bên lề cái xã hội “lều nát”, nhưng rất gần với người dân quê. Bất chấp nguy hiểm, “tôi” luôn cố xích lại thật gần, gần nữa, để nhìn, nghe và hiểu cảnh ngộ cũng như tiếng nói thật của những nạn nhân bị lừa mị, chèn ép. Và tuy gần, nó vẫn giữ khoảng cách: chỉ là một người quan sát, chứng kiến. Cũng đôi khi, nhân vật “tôi” giữ vai trò vừa là người trần thuật, vừa là nhân chứng (Mùa gặt của hương lý, Hai bức thư hay là gan ruột dân quê). Nhưng nói chung, trong phần lớn trường hợp, “tôi” – ký giả Nguyễn Trần Ai – trấn giữ vai trò người trần thuật. Bên cạnh “tôi” luôn hiện hữu một hình tượng người kể chuyện “có thật” với tên riêng và địa chỉ xác định. Có thể gọi họ là người kể chuyện - tự thuật. Trừ một vài trường hợp hy hữu, người kể chuyện - tự thuật trong tác phẩm đều thuộc hạng nông dân nghèo – nạn nhân đau khổ của chế độ hào cường – đều từng là những con mồi bị săn đuổi, bị sa lưới, bị ăn cướp, bị chấn thương lắm khi đến mức hoảng loạn. Người kể chuyện - tự thuật ở đây cũng có khi thuộc hạng hương chức, đóng vai nhân chứng bởi họ đã từng giữ chút cương vị nào đó trong bộ máy “quản trị” làng xã. Họ biết “chăn có rận” vì đã từng “ở trong chăn”.

Như vậy, nhìn từ cấu trúc trần thuật ở Túp lều nát luôn có sự xuất hiện đồng thời của người trần thuậtngười kể chuyện. Trong cấu trúc ấy, làm chỗ dựa vững chắc cho lời của người trần thuật là hình tượng người kể chuyện - tự thuật, cùng với câu chuyện, vụ việc mà anh ta kể ra (thường được “sao nguyên” lại) đã tạo được ấn tượng rõ rệt về độ xác thực, tin cậy cao.

Nhìn từ mối quan hệ giữa việc kể-ghi, thuật-nghe vốn được tác giả tạo dựng rất khéo từ lớp tự sự thứ nhất (“chính biên”) sang lớp tự sự thứ hai (“tục biên”) trong tập Túp lều nát, người ta có thể nhận thấy chủ đích tự sự của tác giả vừa hiển ngôn([33]) (thông điệp phát đi luôn được xác định rõ người nhận), vừa hàm ngôn (lối nói biểu tượng, sự lặp lại hình thức thư tín kín đáo, ẩn ý). Cần thấy mối quan hệ đầy dụng ý giữa người trần thuật, người kể chuyện, người phát thông điệp, người nhận thông điệp khi đọc Túp lều nát.

 

Bảng 3. Phân bố các lớp tự sự và các nhân tố “người phát” - “người nhận”

                                                                                               

 

(1) Lớp tự sự

(2) Người trần thuật

(3) Người

kể chuyện

 (4) Người phát

    thông điệp

 (5) Người nhận

    thông điệp

Cả “chính biên”

& “tục biên”:Thông điệp lều nát, dân kêu, cải cách pháp chế

Ký giả Nguyễn Trần Ai

Nạn nhân, Nhân chứng (sống trong “túp lều nát”)

 Ký giả

Nguyễn Trần Ai

- Cụ Bùi Bằng Đoàn 

- Giới chức nhà nước

- Trí thức, công luận

“Tục biên”:Hai bức thư hay là gan ruột dân quê

 

Người viết thư/

người viết đơn thư

Những nạn nhân, nhân chứng

(sống trong “túp lều nát” khác)

- Bạn đọc tên G.

- Những

người dân quê

- Tác giả phóng sự

- Nhà báo Pháp A. Ernerst Babut  

 và công luận

 

Vậy là một hóa hai, một lần phóng tên bắn tới hai đích. “Tiếng dân kêu” trong “túp lều nát” thứ nhất (lớp “chính biên”) chủ đích gửi đến “các ngài” chức sắc – những người lâu nay sống bằng lương trích từ thuế của dân, có danh phận thay mặt dân – đồng thời gửi đến Chính phủ Nam triều. “Tiếng dân kêu” trong “túp lều nát” thứ hai (lớp “tục biên”) – thêm một túp lều khác, cũng “nát” tương tự – chủ đích gửi thẳng đến một tòa báo lớn ở Hà Nội và/hoặc tạo ra cái áp lực “chúng khẩu đồng từ”, tăng âm lực và tiếp sức cho tiếng dân kêu từ “túp lều” thứ nhất.

Đọc như thế, ta sẽ thấy cái phần gọi là “tục biên” hay “vĩ thanh” trong tập phóng sự này, thoạt nhìn có vẻ chỉ là sự “thêm thắt, chắp nối”, là “viết chơi chơi”, mà kỳ thực lại rất đắc dụng, lợi hại.

  1. Dẫu có ảo tưởng vẫn là người tiên phong

Ảo tưởng khó tránh

Đến đây cần phải khẳng định rằng: trong khi tạo nên được những đột phá thể loại như vậy, Nguyễn Trần Ai cũng đồng thời bộc lộ tính chất chủ quan, ảo tưởng khó tránh khỏi của ông trong các giải pháp xã hội mà ông nêu lên qua phóng sự. Không cần nói nhiều thì ai cũng nhận thấy: trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam trước 1945, tìm đúng nguyên nhân của tình trạng “lều nát”, “dân kêu” đã là rất khó; đề xuất cho được một số giải pháp cụ thể, ít nhiều khả thi, còn khó hơn nhiều và việc thực thi các giải pháp ấy trong đời sống càng khó hơn gấp bội phần.

Khi đề xuất chủ trương cải cách pháp chế, Nguyễn Trần Ai đặt niềm tin vào cụ Lớn Bùi Bằng Đoàn. Niềm tin đó không hẳn hoặc/và không phải là viển vông. Nhưng cải cách pháp chế ở nước ta nói chung, nông thôn nói riêng, vào thời ấy, hãy còn là một nan đề lớn. Nó luôn là công việc của toàn xã hội, không thể chỉ trông đợi vào lòng tốt, hiểu biết, năng lực của một hay một số cá nhân (Ảo tưởng này, các tiểu thuyết gia Tự Lực Văn đoàn đã vấp phải). Ông cũng kỳ vọng ở vai trò của Chính phủ thông qua các yếu nhân như Bùi công, nhà báo của phong trào dân chủ người Pháp A. Ernerst Babut, sao cho người dân Trung Kỳ cũng được Chính phủ quan tâm như người dân ở các xứ Bắc Kỳ, Nam Kỳ. Ông chưa nhận thấy mặt trái của thiết chế nhà nước thực dân phong kiến đương thời. Các chính sách dân chủ ở thuộc địa khác một trời một vực với ở chính quốc. Lý tưởng dân chủ của Mặt trận Bình dân Pháp còn xa mới tỏa chiếu ánh sáng đến được “túp lều nát” của người dân quê Việt Nam, nhất là vào thời điểm ông viết phóng sự. Ông đề xuất cải cách thiết chế cấp vi mô (làng xã) mà chưa đề cập đến việc cần thay đổi thiết chế vĩ mô (các cấp trên làng xã, bao gồm cả cấp quốc gia). Ông hy vọng thuyết phục được các nhà chức trách lắng nghe và cùng “thi ân” cho dân, cải thiện tình hình. Nhưng, trong khi người ta chạy chọt, kết thành phe cánh để giành giật cái ghế nghị viên (như Phong hóa, Ngày nay phản ánh), và nhất là – nói như nhân vật người bạn đọc tên G.([34]) – trong bối cảnh bóng ma chiến tranh, nạn phát xít đang có nguy cơ tỏa bóng đen trên đầu,... việc cải cách pháp chế đúng là chưa gặp được thời vận. Thế tức là cả ý tưởng và giải pháp của tác giả đều đã rơi vào ảo tưởng, hoặc có nguy cơ chìm khuất đi sau bao nhiêu chuyện hệ trọng khác, cũng tức là có nguy cơ bị quên lãng.    

  •  Cốt cách người trí thức tiên phong

Tuy vậy, giải pháp có thể là nhất thời và ảo tưởng, nhưng khát vọng nhân văn thì luôn là tốt đẹp vĩnh hằng. Ngay trong cái ảo tưởng vừa nêu cũng không thể phủ nhận được khát vọng tốt đẹp và vai trò tiên phong của tác giả Túp lều nát, trong tư cách một người trí thức cấp tiến. Chẳng hạn, nếu nghĩ kỹ về hai điều sau đây, sẽ thấy những đề xuất cải cách của Nguyễn Trần Ai trong tập phóng sự độc nhất vô nhị của ông là rất đáng trân trọng: Thứ nhất, thời nào cũng có ảo tưởng cay đắng của mình, vậy, không nên phê phán ảo tưởng và nên thấy khát vọng, mơ mộng đáng quý của tác giả. Bởi đó là một giấc mộng rất huy hoàng([35]); Thứ hai, mong mỏi thực thi luật pháp một cách công minh, mạnh mẽ quyết đoán luật pháp của Chính phủ là mong mỏi của mọi thời, và, việc xây dựng được một nền pháp chế nhân văn, tiến bộ, cùng các bộ luật hiệu lực trên lập trường đề cao tinh thần dân chủ, dân quyền, nhân quyền luôn là mơ ước mang tầm nhân loại phổ quát. Nghĩ kỹ về những điều đó ta sẽ thấy thái độ nhìn thẳng vào sự thật, ý chí bênh vực công lý, mệnh đề cải cách pháp chế mà tác giả nêu lên như một mục tiêu tối thượng,… đều rất nhân văn, tiến bộ. Thậm chí, xét từ một góc độ nào đó, với cảm hứng về sự thật, công lý trên lập trường pháp lý dân chủ, còn có thể nói rằng, ông đã đặt được một chân lên phía trước, bên kia cái vạch giới hạn của nhiều người viết phóng sự đã thành danh cùng thời.

Cốt cách lẫm liệt của người trí thức, thời nào cũng thế, luôn thể hiện ở thái độ tôn trọng chân lý và dũng khí đấu tranh cho chân lý. Ngô Tất Tố từng 10 năm lang thang rày đây mai đó để tìm chứng liệu viết Tập án cái đình, Việc làng (dĩ nhiên đó cũng là cái vốn để ông viết hàng ngàn bài báo, tiểu phẩm và cả tiểu thuyết Tắt đèn nữa). Nguyễn Trần Ai cũng đã bỏ ra 5 tháng tìm kiếm chứng liệu và hơn 3 năm (1933-1936), nhưng, chỉ để thực hiện tập phóng sự Túp lều nát. Mà, cứ ngỡ hoàn thành rồi, vẫn còn “tục biên”, để đến 1937 mới lần đầu in sách. Điều này cho thấy ý chí và đam mê khám phá sự thật cũng như đấu tranh vì sự thật, vì công lý của ông mãnh liệt như thế nào. Vậy nên, sẽ không quá lời khi nói, từng trang phóng sự của Nguyễn Trần Ai đều thấm đẫm cốt cách của một người trí thức tiên phong.

Có người xem Túp lều nát như một văn phẩm tập dượt của Nguyễn Trần Ai: “tập làm phóng sự”([36]). Nhận định này không sai, song cũng chưa thỏa đáng. Theo tôi, việc sáng tác tập phóng sự này (1933-1936, in 1937) đã bao hàm trong nó đủ một quá trình từ đi từ chân lên đến đỉnh sự nghiệp về một thể loại.

Ba, bốn năm năm dành cho việc hoàn thành một tập phóng sự trên dưới trăm trang là một khoảng thời gian quá dài. Nhưng thời gian ấy cho một sự nghiệp phóng sự, từ tập dượt vươn tới đỉnh cao lại là rất ngắn. Con đường đi ngắn và sớm đạt được những đột phá trong văn chương, nghệ thuật như thế chỉ là con đường dành riêng cho những văn nghệ sĩ thật sự tài năng.

                                                       Tháng 2 năm 2015

            


(*)Bút danh của Nguyễn Đổng Chi.

([1]) Nguyễn Đổng Chi, Túp lều nát - Gặp lại một người bạn nhỏ, NXB Văn học, in lần thứ 2, H, 1999; tr.12. Đây là quyển sách in chung phóng sự và tiểu thuyết của Nguyễn Đổng Chi. Vì bài viết không liên quan đến tiểu thuyết Gặp lại một người bạn nhỏ nên các chú thích sau sẽ ghi tắt là: Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr…

([2]) Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 22-23.

([3]) Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 26.

([4]) Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 30.

([5]) Số bài còn lại – Mùa gặt của hương lý; Mạnh Lệ Quân nước Nam; Mồ hôi và mồ hôi; Chế độ hào cường – tập trung “sao nguyên” các lời tố giác và “phác vẽ” một cách xác thực những chiêu trò bẩn thỉu, cũng là một cách lên tiếng, bày tỏ thái độ của dân.

([6]) Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 121.

([7]) Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 121.

([8]) Trong bài “Tựa”, tác giả đã nói rõ “túp lều” mà dân quê đang chui đụt, nhìn thoáng qua thì có vẻ như còn vững chắc trong sự bình yên. Túp lều ấy tuy rằng “các ngài” chức trách “vẫn thường nhìn thấy và nhìn thấy luôn luôn trước mắt”, nhưng “có lẽ tại vì các ngài đứng quá xa”, nên không thấy được sự thật là xà cột ruỗng nát vì mọt đục; tường vách sắp đổ vì mối đàn đàn lũ lũ ăn, nóc mái dột nát, trống huếch, chuột bọ chạy thung thăng,… (Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr.12).

([9])Ở chương I, nhan đề Lớp người bị bỏ sót (phóng sự Việc làng - 1940), mượn lời nhân vật cụ Thượng, Ngô Tất Tố viết: “Một nước giống như một cái xe bò,lớp trí thức là người làm bò, lớp dân quê là người đẩy xe. Nếu kẻ đẩy xe còn bị những dây tệ tục buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng không thể kéo được cái xe bò lên dốc... Vì vậy... tôi chỉ mong mỏi các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối tăm... trong lũy tre xanh” (Ngô Tất Tố tác phẩm, Tập 2, NXB Văn học, H, 1977; tr. 217).

([10])Trong bài Ai làm nên tội? (thuộc Tập án cái đình), một vị túc nho cắt nghĩa lai lịch cái đình cùng những hủ tục về sau người ta buộc nó phải chứa chấp. Nhà báo, tác giả thiên phóng sự vì vâng lời vị túc nho mà thực hiện thiên phóng sự Ai làm nên tội: “Giữ lời hứa với ông, tôi đem cái ổ hủ bại mọi rợ chắp lại làm thiên điều tra” [Ngô Tất Tố tác phẩm,Tập 2, NXB Văn học, H, 1977; tr. 158]. Cuối chương I - Lớp người bị bỏ sót (thuộc phóng sự Việc làng), trong tư cách nhà báo, tác giả, Ngô Tất Tố lại viết: “Từ lúc đưa đám cụ Thượng, lời cụ vẫn văng vẳng bên tai tôi. Sau mười năm lang thang này đây mai đó, tới đâu tôi cũng thấy chứng cớ về sự từng trải và nỗi đau đớn của cụ. Cụ quả là người chết oan. Cho được an ủi vong hồn cụ, tôi phải minh oan cho cụ và cho những người như cụ bằng thiên phóng sự này” (Ngô Tất Tố tác phẩm, Tập 2, Sđd; tr. 217).

([11])Ông đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm đối với dân của những người điều hành Chính phủ; phải trả món nợ mồ hôi, nước mắt đối với dân, khi viết: “chính là cái làng của nước mà các ngài đang quản trị”, “Cả bọn dân đang trú ngụ (chui rúc làm ăn) ở trong, bọn dân thường năm vẫn đóng thuế cho các ngài sòng phẳng, đang muốn xin một sự thi ân”: “muốn các ngài phá bỏ cái làng cũ bấy nát đó mà dựng lại cho họ một cái làng mới”, “vững bền hơn trước” (Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr.13).

([12])Ông viết: “Nhưng không phải tôi cố tình đi bới móc các công việc trái phép của cá nhân ra đặng mượn bàn tay sắt của pháp luật pháp bóp cổ những con người ấy. Không! Hoàn toàn không. Tôi chỉ muốn nhờ chúng làm một ít người nhân chứng để báo tin cho các bậc cầm quyền, các nhà chính trị, các ngài ủy viên dân biểu, vì các ngài là những kỹ sư, bác vật của quốc gia, rằng có một túp lều sắp đổ” (Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr.13).

([13])Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 25.

([14])Nguyễn Trần Ai, “Tựa”Túp lều nát, Sđd; tr. 10.

([15])Nhiều nhân chứng và nạn nhân trong Túp lều nát đã phải kinh sợ trước thái độ coi thường thậm chí thách thức pháp luật của đám hương lý, chẳng hạn, có lúc họ đã phải thốt lên rằng người dân bị bọn tổng lý sâu mọt coi “như cỏ rác” (lời một nhân vật), chúng “không coi pháp luật là cái quái gì hết” (lời nhân vật xưng “tôi”), (Dẫn từ bài Tiếng dân kêu, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 75).

([16])Quả thật, không khó để nhận ra thông điệp của tác phẩm qua những trang viết phản ánh sinh động hoàn cảnh, các vụ việc, cũng như thực trạng xã hội nông thôn Việt Nam đương thời. Và, cũng như với bao thiên tiểu thuyết, phóng sự thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước 1945, người đọc dễ dàng nhận ra những lời cảnh báo mạnh mẽ, đanh thép của tác giả. Đó là lời cảnh báo về tình trạng bị cưỡng đoạt quyền sống, bị từ chối quyền làm người của người dân quê. Các nhà văn hiện thực chủ nghĩa nổi tiếng như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố, và phần nào cả Vũ Trọng Phụng nữa, qua truyện ngắn, tiểu thuyết hoặc phóng sự của mình đã làm rất tốt việc cảnh báo, phê phán này. Tuy nhiên, cứ công bằng, khách quan mà xét, thì Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… đều dùng bút pháp điển hình hóa của văn chương hư cấu. Như thế, vừa lên án được tội ác cường hào, vừa giữ được độ an toàn cho bản thân. Đó là một lối tiếp cận đời sống gián cách theo phương thức của các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, chẳng cần trưng ra những tên tuổi cụ thể, các địa chỉ cụ thể, chủ kiến cá nhân. Riêng Ngô Tất Tố, có khác Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, bên cạnh tiểu thuyết ông còn viết phóng sự. Nhưng phóng sự của Ngô Tất Tố, như đã nói, dù rất xuất sắc, vẫn chưa từng một lần đề cập đến phương diện pháp luật, càng chưa đặt vấn đề cải cách pháp chế. Đây là lý do tôi dùng chữ “đột phá” khi nhận định về đóng góp của Nguyễn Trần Ai.

([17]) Hai bài này đều bị kiểm duyệt cắt nhiều: Ví dụAi làm nên tội? (1939) bị cắt bỏ 6 chỗ; Lớp người bị bỏ sót (1940) bị cắt bỏ 4 đoạn; Tắt đèn bị kiểm duyệt nhiều đoạn; thậm chí khi in sách tác phẩm bị cắt bỏ hẳn một số chương “có giá trị tố cáo sâu sắc” (đã đăng trên tuần báo Việt nữ, số 10, ra ngày 10 tháng 10 năm 1937 – Theo Phan Cự Đệ, Ngô Tất Tố tác phẩm, Tập 2, Sđd; tr.129.

([18])Đọc phóng sự của Nguyễn Trần Ai, vì thế giờ đây trong tôi đã nảy sinh những mong muốn, dự cảm trái chiều. Một mặt muốn ông cho đăng báo nhiều kỳ và sớm in thành sách Túp lều nát trên các tờ báo lớn, tại các nhà xuất bản thời danh cho công chúng được biết đến sớm hơn, cũng là để tác phẩm chiếm giữ được một vị trí tiên phong quyết đoán hơn. Mặt khác, tôi cũng lấy làm e sợ, tiếc nuối bởi việc công bố theo cách ấy, vào lúc ấy khiến cho Túp lều nát được in ra có thể sẽ chẳng còn được là Túp lều nát theo bản in của Mộng Thương Thư trai, Trảo Nha, Hà Tĩnh, năm 1937 như bây giờ ta có nữa. Đơn giản là những chỗ quyết liệt dữ dội đặc sắc của nó hẳn sẽ bị kiểm duyệt cắt bỏ lạnh lùng.

([19]) “Tri thức hệ”, được hiểu – theo quan niệm của nhà xã hội học văn hóa M. Foucault – là “tập hợp các cấu trúc diễn ngôn nói chung mà bên trong tập hợp này, một nền văn hóa xác định nên những ý niệm của nó”, là “một nền tảng của những tư tưởng mà trên đó, tại một thời điểm cụ thể, một số nhận định này, mà không phải những nhận định khác được coi là tri thức”,… và tóm lại, là “các phương pháp luận mà một nền văn hóa mặc nhiên dựa vào đó để có thể tư duy về một số chủ đề nhất định” hay “một thứ khung khổ vừa cho phépcon người nhận thức thế giới, vừa giới hạntư duy con người” (Ba cách tiếp cận diễn ngôn, lược dịch và tổng thuật của Nguyễn Thị Ngọc Minh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Ngữ văn Trẻ, Trường ĐHSP Hà Nội, lần thứ V, NXB Đại học Sư phạm, 2012; tr. 158-159).

([20]) Đây chính là cơ hội/thời điểm tạo ra bước chuyển cho các tri thức về “luật”/“lệ” từ diễn ngôn đạo lý sang diễn ngôn pháp lý; cũng là cơ sở để Nguyễn Trần Ai đề xuất với các nhà làm luật của nhà nước An Nam, dưới sự chủ trì của cụ Lớn Bùi Bằng Đoàn, cải cách pháp chế làng xã Trung Kỳ để theo kịp với tính minh bạch về pháp chế ở Bắc Kỳ (Nhà nước Bảo hộ) và Nam Kỳ (tự trị).

([21])Trong Dân quê và luật, Tứ Ly viết: “Trước kia, tuy nhà vua có đặt luật thật, song luật chỉ để cho quan trường thực hành, còn dân gian cấm không được xem, được đọc, lấy cớ dân hiểu rõ pháp luật sẽ sinh ra nhiều vụ kiện cáo. Vả chăng thuở ấy, pháp luật với công lý hầu như là một, mà luân lý, làng nào, xóm nào lại không có một ông đồ giảng, dạy.

Đến nay thời thế biến thiên, pháp luật đi đằng pháp luật, luân lý đi đằng luân lý, không hỗn độn như trước thì cái lệ xưa không thể nào đứng vững được nữa. Phải biết pháp luật!” (Tứ Ly, Phong hóa, số 091 ra ngày 30 Mars 1934;tr. 1-2).

Hay: “Những quyển luật, những tờ công văn gửi về các làng chỉ xếp đống trong một cái tủ của Hội đồng hương chức, không bao giờ thấy ánh mặt trời nữa. […] từ chánh tổng, lý trưởng cho đến cùng đinh đều u u minh minh, động có việc ra đến quan thảy đều sợ hãi như phạm vào tội giết người: tình cảnh ấy có khác gì tình cảnh một người lòa cưỡi con ngựa mù nửa đêm đi ra chỗ ao sâu” (Tứ Ly, Phong hóa, số 091 ra ngày 30 Mars 1934;tr. 1-2).

([22])Lời người trần thuật xưng “tôi”: “Thì ra ở đây, ở chính dưới ách tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ què hết cả tay chân, mà công lý là một cố lão mù tịt” (Những người thay mặt cho công chúng, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 100).

  Có một gặp gỡ tình cờ mà thú vị về cách sử dụng hình ảnh ví von: pháp luật như “nhà võ sĩ què hết cả tay chân” và “cố lão mù tịt” trong đoạn văn trên của Nguyễn Trần Ai với hình ảnh “người lòa cưỡi con ngựa mù nửa đêm đi ra ao sâu” trong bài Dân quê và luật của Tứ Ly (đã trích dẫn ở một chú thích trước).

([23]) Hai bức thư hay là gan ruột dân quê, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 121.

([24]) Hai bức thư hay là gan ruột dân quê, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 124.

([25]) Luận đề: “mệnh đề hay thuyết coi là đúng và được đem ra để bảo vệ bằng luận cứ. Vd: những luận đề của một học thuyết; tiểu thuyết luận đề”. Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội Việt Nam, 1992). Trong lịch sử văn xuôi Việt Nam, thuộc thể tài tiểu thuyết luận đề có thể kể: Trùng Quang tâm sử (Phan Bội Châu), Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Đoạn tuyệt (Nhất Linh), Con đường sáng (Nhất Linh - Hoàng Đạo). Tuy nhiên, phóng sự luận đề thì hầu như rất ít được các nhà nghiên cứu văn học nói đến. Theo tôi Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai là một trường hợp rất tiêu biểu cho thể tài phóng sự luận đề. Và như thế có thể xem đây là một thử nghiệm rất đắc dụng trong kỹ thuật, bút pháp phóng sự của tác giả.

([26])Theo khảo sát của cá nhân tôi, trong số các phóng sự văn học nổi tiếng của các nhà văn Việt Nam trước 1945, số tác phẩm thỏa mãn các tiêu chí quan trọng và được xem là phóng sự luận đề thật ra không nhiều. Trong đó, trường hợp đậm đặc chất luận đề hơn cả chính là Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai.

([27]) Chữ dùng theo cảm nhận của nhân vật người bạn đọc tên G. Khi lần đầu đọc Túp lều nát, anh ta đã “chừa cái tựa dài dặc ra” và bắt ngay vào các bài điều tra (Hai bức thư hay là gan ruột dân quê).

([28])Trong Mùa gặt của hương lý: nghĩa của ẩn dụ “mùa gặt” trở nên xác định trong sự soi chiếu của các chứng liệu cụ thể. Hương lý đã thực hiện “mùa gặt” của mình theo những chiêu thức “săn mồi” tàn bạo, trơ tráo, bỉ ổi nhất: 1) cò kè “mua bán”; 2) tra khảo cho lòi thuế phù thu; 3) lột, xiết nợ thuế (mọi thứ có thể); 4) tróc nã kẻ trốn thuế, trấn tiền, phạt làm tớ không công; 1, 2, 3 như là liên khúc, sau một cảnh thịt rượu, lót tay cho phái, cảnh thứ 4 chóng vánh, bất ngờ. Đoạn văn mở đầu gồm 4 câu dài luyến láy cạnh khóe, rất hài hước, đáo để; tr. 25.

([29])Trong Mồ hôi và mồ hôi, có thể lập một dàn ý kịch bản kiếm chác bẩn thỉu:

Phù thu 1: theo lối “điền bất cập bạ”; Phù thu 2: theo lối xoay tiền kẻ nạp trước; Phù thu 3: theo lối “nhất tam tòng nhị” thu đổ đồng; làng 312 mẫu = 382,62 đồng thu thành 483,60 đồng; tức là hương lý đã “nuốt đến hơn trăm bạc ngon lành”; Phù thu 4: chuyện về “con nhà sào”.

([30])Trong Chế độ hào cường: Hào lý đã dùng các chiêu trò 1.1. tin tốt của quan biến thành tin xấu để xoay vòi (chuyện chọn người học làm bà đỡ); 1.2. chiêu trò khai “lính mộ tòng chinh” trong dịp “Âu chiến”; 1.3. chiêu trò “bán thuế non”; (trò này sẽ được lặp lại trong bài “vĩ thanh”).

   Hào cường cũng có nhiều chiêu trò bỉ ổi, trơ tráo như: 2.1. chiêu trò bán, chiếm ruộng công (“nhượng lưu”); 2.2. chiêu trò thông đồng với lý trưởng “cải cho nhiều tuổi lên” để ăn gian sưu của nhà nước đến 25 năm; 2.3. chiêu trò “thu nhất luật”, để một mặt chia nhau tiền dôi dư; mặt khác, lại kêu thiếu thuế, làng phải vay để bù 12 đồng; 2.4. chiêu “lấn đường, xắn kẹ”; 2.5. trò cưỡng hiếp người ở trừ nợ đến có con;...

([31]) Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955): người có đủ tư cách quyền năng lắng nghe, hồi dáp tiếng dân kêu. Cụ từng làm Tri phủ Xuân Trường, Tri phủ ở Ninh Bình; từng lắng nghe tiếng dân kêu tại các đồn điền cao su,… Khi làm Thượng thư Bộ Hình cụ được Triều đình giao trông coi việc xử kiện ở Trung Kỳ, đồng thời trông coi việc biên soạn các bộ luật để thực thi ở dải đất miền Trung này. “Kính dâng” phóng sự Túp lều nát lên Bùi công, tức là tin tưởng, trông đợi và hy vọng ở việc thực thi “cán cân công bằng của pháp luật”.

([32])“Người trần thuật” và “người kể chuyện” ở đây được sử dụng phân biệt, theo quan niệm của N.D. Tamarchenco. Ông cho rằng: “người kể chuyện”, cũng như “người trần thuật”, “là chủ thể lời nói và là người đại diện cho điểm nhìn trong tác phẩm văn học”. Nhưng khác với “người trần thuật”, “người kể chuyện” “được khách quan hóa và được tách biệt rõ rệt với tác giả cả về không gian, lẫn bình diện tu từ; mà cụ thể là, nó được gắn với một hoàn cảnh văn hóa - xã hội và ngôn ngữ cụ thể, để từ vị thế ấy nó mô tả các nhân vật khác” (Người kể chuyện, Lã Nguyên dịch từ bản tiếng Nga, phebinhvanhoc (01/02/2015) truy cập ngày 05/02/2015).

([33])Nhân vật người nhận thông điệp, hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp, luôn được nhắn đến trong văn bản tác phẩm: 1) Với Túp lều nát, trên là “kính dâng” cụ Bùi Bằng Đoàn, dưới là trò chuyện với “các ngài” thuộc giới chức; 2) Với Hai bức thư… thì trên danh nghĩa là gửi cho “bạn Nguyễn Trần Ai”, song bức đơn thư của 30 người dân được thảo ra, trước là nhằm gửi nhà báo A. Ernerst Babut ở Hà Nội (và người đọc tên G.) sau lại được G. gửi đến Nguyễn Trần Ai – tác giả Túp lều nát.

([34])G. viết: “Nhưng không biết có nhiều sự phiền phức nó đi kèm với cuộc thay đổi ấy hay không? À mà có điều này thì đúng là khó khăn lắm bạn ạ. Đang còn ở vào cái đời mà xung quanh tạc đạn, tàu bay rầm rầm thì việc bạn bàn đó e còn xa xôi quá, phải nhường cho nhiều vấn đề thường nhật khác” (Hai bức thư hay là gan ruột dân quê, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 123-124).

([35]) Khát vọng công lý của tác giả là rất tốt đẹp. Chính người bạn đọc tên G. đã thêm một lần khẳng định trong lớp “tục biên” cái giấc mơ đẹp (đã được kín đáo thể hiện ở lớp “chính biên” của tập sách): “Ta chỉ mong có một ông Thần công lý sáng láng như mặt trời, trong suốt như nước lạnh, từ đâu bỗng hiện ra sừng sững làm người hộ mệnh cho dân, ấy là phúc lớn hơn cả” (Hai bức thư hay là gan ruột dân quê, Nguyễn Trần Ai, Túp lều nát, Sđd; tr. 123-124).

([36]) Phong Lê, Thêm một cuốn sách góp vào di sản văn học hiện thực Việt Nam: “Túp lều nát” của Nguyễn Trần Ai. Lời bạt in cuối sách Túp lều nát, NXB Văn học tái bản, H, 1999; tr. 126. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114578059

Hôm nay

2229

Hôm qua

2361

Tuần này

21258

Tháng này

225116

Tháng qua

130677

Tất cả

114578059