Diễn đàn

Về cuốn "Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Nam Cường (1930- 2007)"*

Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Nam Cường (1930- 2007)(*) được  thực hiện theo chỉ thị số 15 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 28/8/2002 (Lời giới thiệu), với một Ban chỉ đạo đồ sộ, đầy đủ: Bí thư, Phó bí thư Đảng bộ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch MTTQ, HCCB, HNCT,Trưởng Công an xã Nam Cường và hai tác giả, nhưng sản phẩm đã không " đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân xã nhà" và dư luận xã hội.

   I.   Xác định sai đối tượng

Trước hết là tên cuốn sách. Các tác giả đã không xác định được đây là cuốn sách viết về lịch sử Đảng bộ hay viết về nhân dân Nam Cường (1930-2007).

1. Lịch sử nhân dân Nam Cường  (1930-2007). Xưa nay không có cuốn Lịch sử nhân dân, không ai viết được lịch sử nhân dân cả. Người ta chỉ có thể viết được lịch sử vấn đề nào đó của nhân dân mà thôi. Ví dụ: Lịch sử Quân đội nhân dân, Lịch sử Cộng hoà nhân dân Lào, Lịch sử Nhân dân tệ(tiền Trung Quốc),Lịch sử Báo Nhân dân, Lịch sử Việt Nam…

2. Lịch sử Đảng bộ xã Nam Cườngtức là lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương xã Nam Cường (1930), Đảng Lao động Việt Nam (1951) và Đảng Cộng sản Việt Nam (đến 2007). Nội dung là lịch sử Đảng bộ - Sự ra đời và lãnh đạo nhân dân xã Nam Cường trong quá trình cách mạng từ 1930 đến 2007.

Nhập hai phạm trù lịch sử Đảng bộ và lịch sử nhân dân, các tác giả đã xác định  sai đối tượng, do đó cuốn sách này đã không thực hiện được mục đích, ngay cả phần lịch sử Đảng bộ.

Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Nam Cường(1930-2007) có 5 chương và Kết luận không kể Phụ lụcTài liệu tham khảo.

Nhìn chung chỉ có một số sự kiện mang tính ghi chép sơ lược về lịch sử của Đảng bộ xã Nam Cường (hiện nay). Phần còn lại là mộtbản báo cáo thàn tích hơn là một cuốn sách lịch sử.

Từ xưa đến nay chẳng có cuốn lịch sử nào lại có phần kết luận cả. Kể từ khi có lịch sử Việt Nam do người Việt Nam viết - An nam chí lược của Lê Tắc thế kỷ XIV (1307) đến Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Lê Quý Đôn, Trần Trọng Kim… và các bộ sử do cơ quan nhà nước viết như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt sử ký toàn thư… chẳng thể tìm đâu có kết luận cho lịch sử. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất.

Đó là chưa nói đến các Chương I "Khái quát về vùng đất và con người Nam Cường" và Chương II "Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống phong kiến của nhân dân Nam Cường trước khi có Đảng", thực ra là nội dung của Địa chí văn hoá hơn là lịch sử.

Tất cả những vấn đề mà cuốn sách nêu ra về văn hoá (văn nghệ dân gian, hát phường vải, hát ví dặm), phong tục tập quán, cưới xin, tín ngưỡng… đến văn hoá vật thể nhà cửa, công cụ, đồ dùng, trang phục và tín ngưỡng thì bất cứ địa phương nào ở Nghệ Tĩnh đều giống nhau chứ đâu có phải riêng ở xã Nam Cường!

Phần lớn nội dung cuốn sách về các phong trào cách mạng, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Kháng chiến chống Pháp, Cải cách ruộng đất, Xây dựng CNXH, phong trào HTX nông nghiệp, Kháng chiến chống Mỹ, chiến tranh ở Biên giới Tây- Nam hay chống Trung Quốc xâm lược 1979... có thể đọc được ở vô số tài liệu  đã được công bố. Nhiều chương, mục chỉ cần thay hai chữ Nam Cường bằng bất kỳ địa danh nào cũng được.

II. NAM CƯỜNG LÀ NAM CƯỜNG NÀO?

Các tác giả viết "Sau cách mạng tháng 8/1945… các làng Thọ Toán, Phổ Đông, Dương Phố được gọi là xã Nam Phong, các làng Xuân Trạch, Thượng Phù, Long Xuyên, Mai Sơn được gọi là Nam Thịnh.

Tháng 3/1946 Nam Phong và Nam Thịnh sát nhập và chia tách thành hai xã Phúc Thịnh (chuyển về Hưng Nguyên quản lý) và xã Nam Dương(thuộc huyện Nam Đàn quản lý) gồm các thôn Thọ Toán, Phố Đông, DươngPhố, Quảng Xá, Đông Viên".

Như vậy xã Nam Cường (2007) đã từng là xã Phúc Thịnh (Hưng Nguyên) và Nam Dương (Nam Đàn).

"Năm 1949-1950 xã Nam Dương hợp với xã Nam Kim thành xã Nam Cường".

Vậy là 1949-1950 xã Nam Cường đã từng là xã Nam Dương và xã Nam Kim.

"Năm 1951 xã Nam Cường (Nam Dương và Nam Kim) hợp với xã Phúc Thịnh (Hưng Nguyên) thành xã Nam Hưng".

Như vậy xã Nam Hưng là Nam Cường (1951) bao gồm Nam Cường (Nam Dương và Nam Kim) và xã Phúc Thịnh (Hưng Nguyên).

"Năm 1953 xã Nam Hưng tách thành 3 xã:Nam Thắng, Nam PhongNam Thịnh.

Đến năm 1954 thêm xã Nam Phúc (có các thôn Quảng Xá, Đông Viên và Xóm Nài (của xã Nam Phong) và xã Nam Trung (có thôn Đông Châu nhập vào thôn Trung Cần).

Năm 1969 xã Nam Thịnh và Nam Phong sát nhập thành xã Nam Cường (tr.12)".

Như vậyLịch sử Đảng bộ xã Nam Cường phải là lịch sử từ năm 1930 vì "Ngày 25/5/1930 Chi bộ Phù Long - Nam Kim được thành lập" (tr.38) đến tháng 7/1930 Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Nam Cường được ra đời lấy tên là chi bộ Phổ Đông "bí danh là Nam Hoa" (tr.38).

Và sự lãnh đạo của Đảng - của chi bộ Đảng Phổ Đông (Nam Cường) từ năm 1930 đến năm 2007 phải là các địa phương, các xã Phúc Thịnh - Nam Dương (1946),Nam Cường (Nam Dương và Nam Kim) (1949-1950), Nam Hưng (Nam Cường và Phúc Thịnh) (1951). Năm 1953 NamHưng (tách thành 3 xã Nam Thắng, Nam Phong, Nam Thịnh). Năm 1954 - Nam Phúc (có 3 xóm của Nam Hưng là Quảng Xá, Đông Viên, Kim Mai). Năm 1969 Nam Cường (gồm Nam Phong và Nam Thịnh).

Như vậy lịch sử của Đảng bộ xã Nam Cường với quá trình lãnh đạo phải bao gồm các xã Nam Cường (1949-1950), Nam Hưng (1951), Nam Thắng, Nam Phong, Nam Thịnh, Nam Trung, Nam Phúc (1954) ở cả hai huyện Nam Đàn và Hưng Nguyên ngày nay.

Cũng như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải là Lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương (1930) gồm các tổ chức Đảng trên đất Việt Nam, Lào, Cămpuchia và Hải ngoại. Nhưng cuốnLịch sử Đảng bộ và nhân dân Nam Cường (1930-2007) chỉ tập trung ở khu vực xã Nam Cường hiện nay (1969) là xã Nam Phong (gồm ba làng Thọ Toán, Phổ Đông, Dương Phố) và xã Nam Thịnh (gồm các làng Xuân Trạch, Mai Sơn, Long Xuyên). Người viết không biết rằng các thôn này có nhiều chi bộ độc lập ở các xóm khác nhau: Xuân Trạch (Phú Xuân và Duy Tân), Long Xuyên (Kiều Thượng và Kiều Hạ), Lạc Thiện, Thanh Xuân (ở gần chân cầu Yên Xuân), Dương Phổ (Thọ Toán, Phổ Đông, Phổ Tứ). Nhiều chi bộ vắng bóng.

Như vậy cuốn sách này không phải là lịch sử Đảng bộ xã Nam Cường (từ 1930 đến 2007).

III. NGƯỜI VIẾT THIẾU KIẾN THỨC VĂN HOÁ, LỊCH SỬ VÀ CẨU THẢ.

Các tác giả không hiểu thế nào là Làng, Xóm, Chòm, Thôn nên viết lộn xộn, dùng không thống nhất làm cho người đọc không phân biệt được địa danh, ngay cả ở xã Nam Cường đương đại. Làng Xuân Trạch gồm 2 xóm là Duy Tân và Phú Xuân (trong đó có xóm Gát (Cát vì toàn cát, nằm ở rìa làng); làng Long Xuyên (2 xóm là Kiều Thượng (trên cầu) và Kiều Hạ (dưới cầu)[1], làng Phổ Tứ (có xóm Bảy nhà - 7 gia đình ở chỗ chờ Đò bây giờ). Làng Lạc Thiện (có xóm Phúc Hậu) v.v…

Làm gì có làng "Vạn Yên Xuân" bao giờ: Chỉ có làng Thanh Xuân làm nghề sông nước - vạn chài, ở gần cầu Yên Xuân. Trong cuốn sách có hai từ xuất hiện rất nhiều lần đó là Dương PhốDương Phổ. Không biết chính xác là từ nào. Nếu là lỗi morat cũng là không chấp nhận được, hơn nữa không thể có 2 làng như tên gọi.

Các cụ ngày xưa đặt tên rất hay và chữ nghĩa thật đẹp - Phú Xuân (mùa xuân giàu có sung túc), Xuân Trạch (đất mùa xuân), Lạc Thiện (nơi tập trung lòng từ thiện), Kiều Thượng, Kiều Hạ ("Trên cầu nước chảy trong veo - dưới cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha" (Truyện Kiều). Trong sách này lúc thì "Dương Phố" lúc thì "Dương Phổ". Phố và Phổ có một nghĩa chung, nhưng không phải 2 làng. Đã có Phổ Đông, Phổ Tứ thì Dương Phổ mới đúng (gồm cả 2 xóm Phổ Tứ và Phổ Đông) thì hợp lý hơn là Dương Phố.

Các tác giả không biết vùng Nghệ - Tĩnh có tập quán gọi tên "nhường". Ấy là sau khi có con trai thì bố mẹ được gọi theo tên con trai, như phụ nữ lấy chồng thì gọi theo tên chồng. Vì không hiểu điều đó, lại cẩu thả, tắc trách nên đã viết:

"Ở Kiều Thượng cũng thành lập Hợp tác xã Phượng Hải do ông Lê Tiên Duyệt làm chủ nhiệm"(tr. 91). Xin thưa HTX Phượng Hải không có ông chủ nhiệm nào tên là Lê Tiên Duyệt mà chỉ có ông Lê Quốc Tiến, con trai út của cụ Lê Quốc Thuyết,   (Cha là Lê Quốc Lý, ông là Lê Quốc Thắng, cụ tổ là Lê Quốc Thăng - theo Gia phả họ Lê Quốc). Cụ Thuyết có con trai trưởng là Lê Quốc Duyệt (nên được gọi là cụ Duyệt). Như vậy ông Tiến là con cụ Thuyết, em cụ Duyệt.

 Sự cẩu thả ấy còn thể hiện ở trang 180 "Danh sách Tiến sĩ" có ghi Lê Niệm (xóm 4). Xóm 4 chắc chắn không có ai là tiến sĩ. Làng Kiều Thượng mới có, nhưng không có ai tên là Lê Niệm cả. Chắc người viết nhầm với ông Lê Đức Niêm (còn gọi là Niệm) ông là Giảng viên cao cấp, Đại học Quốc gia Hà Nội .

Viết về khởi nghĩa Nam Kỳ và khởi nghĩa Bắc Sơn (tr.59), các tác giả khẳng định "Hai cuộc cách mạng đã thức tỉnh tinh thần nhân dân cả nước". Gọi khởi nghĩa Nam Kỳ và khởi nghĩa Bắc Sơn là "Hai cuộc cách mạng" là sai, cũng như "qua hai cuộc chiến tranh phía hoại miền Bắc" (tr.100) là không đúng.

Về chiến tranh thế giới lần thứ 2 (tr.57) tác giả viết: …"đầu năm 1938 Đại chiến thế giới thứ hai xảy ra. Chính phủ nhân dân Pháp ngã về phái hữu". Xin thưa rằng Đại chiến thế giới thứ hai là (1939-1945) và Chính phủ Pháp đầu hàng Hítle không phải là Chính phủ nhân dân. Phải khi Đờ-gôn chạy sang Anh thành lập Chính phủ lưu vong kháng chiến chống phát xít Hítle, giải phóng nước Pháp nên mới là "Chính phủ nhân dân". Viết bậy thế này người Pháp họ kiện lại đấy.

Trang 32, tác giả viết: "… nhân dân Nam Đàn, Hưng Nguyên hồi ấy đã phải than thở:

… "Đường đắp từ tỉnh lên Lường

Giao cho hai huyện Nam Đường Phủ Hưng"

(Từ Nam Đường như trên trời rơi xuống, không ai biết là đâu, không có lời chú giải nào cả cho người đọc. Các tác giả không biết rằng, Nam Đường chính là tên huyện nhà mình. Huyện Nam Đàn vốn có tên là Hàm Hoan từ thời Lê Hoàn(981-1005), đến thời Lý Thái Tổ được đổi thành Hoan Đường. Năm 1467 Lê Lợi đổi thành Nam Đường. Năm 1886 Đồng Khánh lên ngôi vua, ông có tên là Nguyễn Phúc Đường. Để tránh phạm huý nên đã đổi chữ Đường thành chữ Đàn và từ đó có tên huyện Nam Đàn).

Phần Phụ lục, I. Danh sách liệt sĩ. Chỉ riêng phần liệt sĩ chống Mỹ, theo tôi biết còn thiếu rất nhiều người. Ở đây có lẽ chỉ là những liệt sĩ có tên và phần mộ ở nghĩa trang xã Nam Cường (hiện nay). Tiện thể, các tác giả bê vào mà không biết đến các liệt sĩ đang nằm rải rác khắp miền đất nước. Chỉ riêng làng Lạc Thiện còn có các liệt sĩ: Bùi Bảo (Chắt Đức), Phan Diễn (Phan Con), Lê Văn Sinh, Nguyễn Đình Hiền, Bùi Cường…Làng Kiều Thượng còn có các liệt sĩ: Lê Văn Hoà, Lê Phát, Lê Hồng Hưng... Làng Thanh Xuân còn có Hồ Quang (Hồ Bia) Hồ Sơn… chỉ ba làng còn để sót như vậy thì cả xã Nam Cường chắc chắn không chỉ có 107 liệt sĩ như cuốn sách này cung cấp. Ngoài các liệt sĩ bị bỏ sót, các tác giả cũng quên hàng chục tử sĩ, thương binh, bệnh binh, nạn nhân chất độc màu da cam, các chiến sĩ Thanh niên xung phong, Dân công hoả tuyến trong cả 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Lại nữa, Phụ lục VII.Danh sách tiến sĩ. Ở đây danh sách có 6 người được ghi lộn xộn Alphabe - chỗ ở không đúng. Các vị này không ai xóm 9, 2, 4, 10 cả. (Tên xóm, các con số cứng nhắc, vô nghĩa này mới xuất hiện từ năm 1969). Theo tôi biết riêng làng Phổ Tứ (xóm 9 bây giờ) số tiến sĩ chắc gấp 3 lần  danh sách này. Người viết sử không ai dại gì đưa các vị đang sống này vào sách lịch sử cả. Nói dại, có ai trong họ (sẽ) phạm tội, mua bán bằng cấp tiến sĩ, hối lộ chức tước, bị pháp luật xử lý thì sao. (Cũng như đặt tên đường phố cho danh nhân chỉ được xét sau khi chết 12 năm. Trừ trường hợp đặc biệt như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Võ Văn Kiệt). Hơn nữa nếu phải báo cáo "thành tích" của địa phương thì phải lấy Học hàm sau đó mới là học vị chứ.

Trong phần "Nam Cường là Nam Cường nào" tôi đã cụ thể hoá không gian của xã theo sách này viết. Nếu là cả Nam Dương, Nam Trung, Nam Phúc… thì lịch sử khoa bảng của xã nhà là hết sức đáng tự hào. "Quan Trung Cần" là một ngạn ngữ chỉ đất khoa bảng ở vùng này. Vô số Thám hoa, Bảng nhãn, Phó bảng, Cử nhân… ở đây[2]. Chỉ tính Nam Cường hiện nay, thì riêng một dòng họ Từ, làng Xuân Trạch, thế kỷ XIX đã có các vị: Từ Đức Cường đậu cử nhân khoa Canh Ngọ - Tự Đức (1870), làm quan đến Bố chánh Sơn Tây. Từ Khắc Bình đậu khoa Tân Dậu - Tự Đức 14 (1861), làm quan đến Tri huyện: Từ Khắc Doãn đậu khoa Kỷ Mão - Tự Đức 32 (1879). Các vị đã thành danh, được sách sử ghi chép[3], các tác giả "Lịch sử Đảng bộ…" không biết, không chịu nghiên cứu để rồi bê (thiếu nhiều người) vào "Danh sách tiến sĩ" này, chắc là để cho có vẻ đầy đủ. Ở trang 98 lại còn viết "Số học sinh giỏi xuất sắc ngày càng nhiều, tiêu biểu như: Bành Tiến Long, Bành Đức Phú (xóm 9), Nguyễn Xuân Bình (xóm 10)". Các vị lấy tiêu chí nào để xếp các em học sinh này vào sách lịch sử?.

Ngay trước đó, tr.17, mục Giáo dục khoa cử, các vị viết "Mặc dùkhông được đánh giá là vùng đất hiếu học…". Đây là sự xúc phạm lớn đối với "Đội ngũ trí thức cách mạng của Nam Cường tăng lên nhiều lần, nhiều người trở thành tiến sĩ khoa học, giáo sư, phó giáo sư, con số tốt nghiệp đại học trong nước, ngoài nước phải lên đến hàng trăm" (tr.18) sao lại tự vả vào mình thế này!.

Sách viết: "Năm 1947, xã Nam Cường quyết định dành 3 mẫu đất để xây dựng trường tiểu học đặt tên là Trường tiểu học Bành Xuân Phương" (tr.83). Tại sao dành 3 mẫu đất xây trường mà trường lại mang tên Bành Xuân Phương? Ông là ai, không một lời giải thích. Người viết không biết rằng, năm 1946 thực hiện chủ trương "tiêu thổ kháng chiến", ngăn chặn giặc Pháp chiếm lại thành phố Vinh. Thành phố đã sơ tán tất cả các cơ sở, trong đó có một trạm y tế. Cụ Bành Xuân Phương đã mua lại, chở về xây trường làng Phổ Tứ. Ngôi trường có công lao và tiền bạc của nhiều người nhưng phần cụ đóng góp là nhiều nhất, do đó năm 1947 chính quyền xã đặt tên cụ cho ngôi trường đầu tiên sau cách mạng tháng 8/1945.

Viết về lịch sử giáo dục khoa cử "nhiều người trở thành tiến sĩ khoa học, giáo sư, phó giáo sư…" nhưng tác giả quên không hề nhắc đến hàng trăm công dân Nam Cường các thế hệ đã được học hành ở các trường Tân Dân, Huỳnh Thúc Kháng, cấp II Nam Dương (Chợ Rồng), cấp II Nam Phúc, cấp III Nam Đàn, cấp III Nam Đàn 2, có cả những người là học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, học sinh giỏi miền Bắc (chứ đâu phải đợi đến năm 1967 có trường cấp II Nam Cường) mới có học sinh Nam Cường.

Những sự kiện quan trọng như cải cách ruộng đất được viết hết sức sơ lược. Với giọng văn báo cáo, cuốn sách đưa ra con số "hơn 30 địa chủ" và cho đó là "Cải cách ruộng đất thắng lợi" nhưng đến công tác sửa sai thì không đưa ra con số nào cả. Thực tế, như tôi biết, nhiều làng ở xã Nam Thịnh không còn một địa chủ nào cả. Những người bị oan sai, bị đấu tố và xử bắn cũng không được nêu lên.

Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt cũng chỉ được chép lại sơ sài. Các tổ chức quần chúng do Đảng bộ lãnh đạo như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Đội thiếu niên tiền phong đều vắng bóng. Các tác giả chỉ viết: "Các tổ trực báo động phòng không được thiết lập với chế độ trực chiến nghiêm ngặt và hiệu lệnh báo động thống nhất. Ban đêm, các đội trực chiến bằng súng phòng không 12 ly 7 và súng trường quân dụng sẵn sàng chiến đấu cao" (tr.102). Sao lại "trực báo động", sao lại " ban đêm" và chỉ có "chế độ trực chiến nghiêm ngặt…". Lịch sử đã ghi nhận riêng Trung đội dân quân tự vệ xã Nam Thịnh do ông Chu Tường làm xã đội trưởng, đã chiến đấu dũng cảm, bắn máy bay Mỹ trên bầu trời địa phương nhiều trận. Các trận địa ven sông Lam rải rác từ xóm Gát, Lạc Thiện. Bến đò Cố Xin, Bãi Sậy, Hội Hai, Bại Bói… nhiều lần cả ngày lẫn đêm nổ súng chiến đấu. Các chiến sĩ dân quân  như cô Khang, cô Lục, anh Quỳ, anh Quế, anh Cúc, anh Nguyên, anh Châu, anh Thắng... Trong số họ về sau có người nhập ngũ và anh dũng hy sinh như liệt sĩ Nguỵ Đình Quỳ, có người tham gia quân đội rồi trở thành nhà khoa học… nhưng cuốn "Lịch sử Đảng bộ…" không biết đến.

Ngay cả việc máy bay Mỹ ném bom giết hại nhân dân Nam Cường rất dã man cũng chỉ được chép lại sơ lược qua loa.

"Ở Nam Cường, máy bay Mỹ ném bom nhiều lần vào làng Phổ Đông, Thọ Toán, Phượng Lạc, Xóm Vạn, Mai Sơn, Lạc Thiện, Bến đò cô Xin… làm 50 người chét, hàng chục người bị thương, nhiều nhà cửa tài sản bị hư hỏng" (tr.100). Xin thưa, Phượng Lạc (Phượng Kiều và Lạc Thiện) vậy đã có Phượng Lạc thì Lạc Thiện là thừa. Mai Sơn cũng là Lạc Thiện chứ không phải là 2 xóm. Làm gì có Xóm Vạn (như trên đã đề cập) và đã là lịch sử thì phải viết rõ ràng, cụ thể, chính xác và đầy đủ.

Tôi hiểu các tác giả muốn nói đến trận ném bom tàn bạo vào dân thường vào mùa xuân 1968, khi dân đang làm cỏ lạc. Trận này phải được lịch sử ghi lại bởi giặc Mỹ đã dã man ném bom vào lớp học vỡ lòng ở làng Kiều Thượng giết chết và làm bị thương nhiều học sinh. Trong đó có các em Lê Văn Công (con ông Lê Tâm), Lê Khôi (con ông Lê Văn Khang) (xóm Kiều Thượng)...và nhiều người trong một gia đình như gia đình ông Hồ Bường (xóm Thanh Xuân). Ngày tháng cụ thể chỉ cần đến gặp người nhà hỏi ngày giỗ của các nạn nhân là biết.

Một trận tàn sát dã man người dân Nam Cường khác của máy bay Mỹ xảy ra khi nhiều bà con gánh lạc đi đóng thuế nông nghiệp ở Nam Dương (1967)máy bay Mỹ dã ném bom bi, một lúc tàn sát nhiều dân thường. Riêng xóm Kiều Thượng đã có các anh chị Trần Văn Nhâm, Nguyễn Thị Bé, Nguyễn Thị Lan…

Quên những sự kiện này thì cuốn "Lịch sử Đảng bộ…" không phải là lịch sử mà còn có lỗi với nhân dân.

Cũng vì cẩu thả và vô trách nhiệm nên các tác giả viết … "Nam Cường đã phát động phong trào di dân lên miền Tây Nghệ An xây dựng vùng kinh tế mới như: Nghĩa Hưng, Nghĩa Bình, Nghĩa Quang (Tân Kỳ) (tr.96). Rõ ràng các xã này ở huyện Nghĩa Đàn chứ sao lại Tân Kỳ? chưa nói là các tác giả bỏ quên một địa phương có rất đông người Nam Cường di dân (làng Kiều Thượng và gần như toàn bộ làng Lạc Thiện) là xã Sơn Kim (nay là huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh).

Vì thiếu kiến thức văn hoá và lịch sử, cộng với sự cẩu thả, vô trách nhiệm, dẫn đến việc ( tr 40) các tác giả viết về phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh:

"Giai đoạn này (1930-1931), hoạt động sáng tác theothể loại dân gian nhằm kêu gọi, thúc giục nông dân đứng lên được ra đời như:

…"Nam Đàn Nghi Lộc, Hưng Nguyên

Phủ Anh, Phủ Diễn, Quỳnh Yên dậy rồi

Không có lẽ ta ngồi chịu chết

Bảo cùng nhauta quyết một phen

Tổng nào xã ấykết liền

Ta hò ta hét ta lên thử nào

Trên gió cả cờ đào phất thẳng

Dướiđồng bằng giấy trắng tung ra

Phen này quyết chí xông pha

Nó tungđạn sắt ta ra gan vàng

                      (Những chữ in nghiêng là chữ vô nghĩa, ngớ ngẩn, sai.)

Quan trọng hơn đây đâu có phải "thể loại dân gian" mà đây là tác phẩm có tác giả, ấy là Đặng Chính Kỷ (Đặng Văn Chiêm, 1891-1931) quê ở xã Nam Hoành (Nam Đàn) con trai Thượng thư bộ Lễ, cụ Đặng Tế. Đồng chí Đặng Chính Kỷ là bí thư đầu tiên của Huyện uỷ Nam Đàn (10/1930). Ông bị giặc Pháp bắt, tra tấn dã man và đã hy sinh ngày  27/5/1931 tại nhà lao Vinh. Tác phẩm của ông như sau:

Bài ca cách mạng

Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước

Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên

Nam Đàn Nghi Lộc Hưng Nguyên

Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi

Không có lẽ ta ngồi chịu chết

Phải cùng nhau cương quyết một phen

Tổng này xã nọ kết liên,

Ta hò, ta hét, thét lên thử nào

Trên gió cả cờ đào phất thẳng

Dưới đất bằng giấy trắng tung ra

Giữa thành một trận xông pha

Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng[4]

Xuyên tạc "Bài ca cách mạng" của đồng chí Bí thư Huyện uỷ đầu tiên của Huyện Nam Đàn, cơ quan trực tiếp lãnh đạo Đảng bộ Nam Cường, chí ít là thất lễ với vị tiền bối đã khuất.

IV. VIẾT SỬ (CHÉP SỬ) HAY LÀM VĂN VỀ LỊCH SỬ

Người viết lịch sử cần phải biết rằng viết sử khác với chép sử (như cuốn sách này) và văn xuôi có 2 loại: Văn xuôi hư cấu (fiction) và văn xuôi không hư cấu (non-fiction). Viết sử thuộc non-fiction. Có trường hợp văn, sử, triết bất phân (trước đây khi chưa phân chuyên ngành khoa học lịch sử và khoa học văn học) nhưng Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác),Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), thậm chí sau này "Bốn mươi năm nói láo" (Vũ Bằng) người ta vẫn tìm được lịch sử trong đó. Dù là "nói láo" thực chất là lịch sử báo chí Việt Nam nhưng đó là những tác phẩm văn học.

Còn đã viết cụ thể là "Lịch sử Đảng bộ…" thì càng phải tuân thủ nguyên tắc của việc viết sử. Kể cả văn phong là phải chính xác, khách quan, từ phải đơn nghĩa, không thể viết theo lối cảm xúc, trữ tình, cảm tính. Logic biện chứng của văn viết lịch sử không thể thay thế bằng logic hình tượng của văn học.

"Qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, ngày nay Nam Cường trong đổi mới từng ngày, mái ngói trường xây khang trang, đây đó xuất hiện nhà cao tầng. Trụ sở cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể và phòng tiếp dân được xây dựng đàng hoàng, quy củ và nề nếp. Trung học cơ sở được kiên cố và cao tầng hoá. Trạm y tế được trang bị dụng cụ tương đối đầy đủ cả cơ sở vật chất lẫn cán bộ chuyên môn… Ruộng vườn Nam Cường đã trở nên màu mỡ, nước đủ, phân đầy, mùa lại nối mùa, lúa rau xanh tốt, trái cây xum xuê…" (tr.12).

Những đoạn văn học trò nhan nhản trong cuốn sách thế này không phải là văn viết (hoặc chép) sử.

Không kể có vô số lỗi chính tả, câu, lỗi ngữ pháp và lỗi kỹ thuật mà hầu như trang nào cũng có.

Cả nước có hàng nghìn Đảng bộ, nếu Đảng bộ nào cũng có những "Tác phẩm" như thế này thì tốn kém, lãng phí biết bao nhiêu là tiền của, công sức mà chẳng mang lại kết quả, lợi ích gì. Sách lịch sử cũng là sách công cụ, tra cứu. Những cuốn Lịch sử như thế này sẽ có tác hại không nhỏ./.

.....................................................------------------------------

(*) Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Nam Cường ( 1930-2007). Trần Huy Lân chủ biên, Trịnh Thị Dung. Nxb. Văn hoá-Thông tin. HN. 2007

[1]:Đầu thế kỷ XX có một lạch nước rộng chảy từ làng Xuân Trạch xuống Đức Tùng (Đức Thọ - Hà Tĩnh). Để nối 2 xóm của làng Long Xuyên có 1 cây cầu (gần đường xe lửa bây giờ) tên là cầu Và, do đó làng phía trên (thượng) cầu có tên là Kiều Thượng, làng dưới( hạ) cầu là Kiều Hạ là hai xóm độc lập với nhau.

[2]Xem Lê Đình Cúc. Quê hương. Trưởng thành trong kháng chiến và đổi mới.  NXB Văn hoá Thông tin, H. 2007, tr.274.

[3]Đào Tam Tỉnh,Khoa bảng Nghệ An (1075-1919), NXB Nghệ An, 2005, tr.309.

[4]Trưởng thành trong kháng chiến đổi mới, tập II. NXB Văn hoá Thông tin, H. 2009, tr.46. 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114512838

Hôm nay

2375

Hôm qua

2400

Tuần này

2775

Tháng này

219711

Tháng qua

121356

Tất cả

114512838