Hiện nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Năm ngoái, kim ngạch thương mại song phương đạt hơn 400 tỷ USD. Đầu tư hai chiều vượt quá 100 tỷ USD.
Theo ông Tập Cận Bình, đó là cơ sở tốt cho con đường tơ lụa trên biển. Nó thực sự có thể đưa kim ngạch thương mại hai bên lên khoảng 1 nghìn tỷ USD trong năm 2020.
Để thể hiện cam kết của mình, ông Tập khẳng định chính phủ Bắc Kinh sẵn sàng tài trợ cho các dự án hàng hải liên quan đến ASEAN thông qua cánh tay đầu tư nhà nước của mình là Quỹ Hợp tác Hàng hải Trung Quốc – ASEAN.
Quỹ hợp tác hàng hải Trung Quốc - ASEAN - được thiết lập vào giai đoạn đỉnh điểm của các căng thẳng ở Biển Đông hồi cuối năm 2011 - chính là một phần trong sáng kiến con đường tơ lụa trên biển.”*[1]
Một mặt, ông Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường trong các bài phát biểu với các đối tác đều kêu gọi các thành viên ASEAN "sử dụng tốt hơn" nguồn quỹ trên vào những mục đích như bảo tồn đa dạng sinh học, nghiên cứu đánh giá tài nguyên biển, môi trường… Mặt khác, Trung quốc gia hàng ngày tăng việc bồi đắp các bãi đá chiếm được trên Biển Đông, trấn áp hoạt động nghề cá của ngư dân Việt nam và Philippines, đưa tầu quân sự vào sát vùng biển của Malayxia, v.v.
Thực tế cho thấy Trung quốc đang sử dụng tiềm lực kinh tế của mình như một ‘củ cà rốt’, và dùng sức mạnh quân sự của họ như một ‘cây gậy’ trong quan hệ với các quốc gia có chủ quyền trong khu vực Đông Nam Á.
Việc Trung quốc sử dụng vũ lực để ức hiếp các quốc gia ĐNA ở Biển Đông – là đã rõ. Nay, một chiêu trò mới được tung ra, với siêu dự án đầu tư phát triển vành đai kinh tế SREB, Silk Road Economic Belt, Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa, trên bộ kết nối Á-Âu; trên biển mở ra trên toàn bộ Biển Đông sang Ấn độ dương, tới châu Phi, kết nối với châu Âu. Trung quốc muốn gì ? muốn chứng minh sự ‘trỗi dậy hòa bình’ của một siêu cường quốc ? Nếu vậy, Trung quốc giải thích như thế nào về những hành vi mang tính bạo lực, áp chế đối với Việt nam và các quốc gia khác ven Biển Đông. Ý đồ thực sự của Trung quốc chính là dùng nguồn lợi kinh tế, tận dụng sự khiếp nhược của một vài quốc gia ĐNÁ, nhằm chia rẽ sự thống nhất của các quốc gia ĐNÁ trong việc bảo vệ công lý quốc tế. Dưới góc độ luật pháp quốc tế, Trung quốc mưu toan dùng con bài kinh tế để tìm kiếm sự biện minh mang tính pháp lý cho chính sách thôn tính Biển Đông, hợp pháp hóa hoạt động của hải quân Trung quốc trên các tuyến hàng hải quốc tế trong Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa do họ đơn phương vạch ra.
Trên đất liền, Con đường tơ lụa – được ghi trong sử sách như một con đường thương mại giao lưu giữa châu Âu với các triều đại phong kiến Trung hoa. Con đường thương mại này được hình thành một cách ngẫu nhiên, không xuất phát từ chính sách mở cửa thông thương giữa Bắc kinh với các quốc gia ở phía bắc, mà là con đường hình thành từ ý đồ chính trị, quân sự nhằm xâm lấn, mở mang bờ cõi của các đế chế Trung hoa lên phía Bắc, chống lại Hung Nô (TS. Trịnh Văn Đinh, ĐH KHXH&NV).
Trên biển, lịch sử chưa bao giờ biết đến ‘con đường tơ lụa trên biển’ cho tới tháng 10/2013 khi ông Tập Cận Bình công bố như một ‘sáng kiến’ của Trung quốc nhằm phát triển giao lưu kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, từ góc nhìn lịch sử, như đã từng xảy ra với quá trình hình thành ‘con đường tơ lụa trên đất liền’, không khó khăn gì để có thể nhìn nhận được những ý đồ chính trị, quân sự của Bắc Kinh khi công bố ‘sáng kiến’ về ‘con đường tơ lụa trên biển’. Thực chất, khi đề ra ‘sáng kiến này’ Bắc Kinh mưu toan sử dụng ‘củ cà rốt’ không chỉ nhằm tạo thế liên minh kinh tế - thương mại phụ thuộc vào Trung quốc, qua đó mở rộng sự ảnh hưởng và phụ thuộc về chính trị, quân sự của các quốc gia thuộc khu vực ‘Con đường Tơ lụa trên biển’. Con bài kinh tế khi vẽ ra ‘Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ XXI’ còn nhằm tới một mục đích sâu xa hơn. Đó là: tìm kiếm sự chính danh về mặt pháp lý cho yêu sách chủ quyền đối với hơn 80% Biển Đông.
Bên cạnh việc dùng vũ lực uy hiếp Việt nam, Philippines, tăng cường xây dựng cải tạo các bãi đã chiếm đoạt bằng vũ lực ở quần đảo Hoàng sa và Trường sa, Trung quốc đang nỗ lực kết hợp yêu sách chủ quyền đối với gần hết Biển Đông với ‘sáng kiến’ Con đường tơ lụa trên biển qua những hành động đơn phương như sau:
Tháng 5/2009, Trung quốc chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông ra trước Liên Hợp quốc.
Cuối năm 2011, Trung quốc thành lập Quỹ hợp tác Hàng hải Trung quốc – ASEAN
Tháng 10/2013, Trung quốc đề xuất với các nước ASEAN về việc tái lập con đường hàng hải nối eo biển Malacca với Biển Đông thành con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI.
Đầu năm 2014, Đài truyền hình trung ương (CCTV) trình chiếu cuốn phim tài liệu “Hành trình trên Nam Hải”, với nội dung về “những chuyến tuần tra phi pháp của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, cơ sở phi pháp trên những đảo, bãi đá bị Trung Quốc chiếm đóng và bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc đang có tranh chấp với Philippines. Các cảnh quay trong phim cho thấy quốc kỳ màu đỏ của Trung Quốc được giương cao tại những đảo, bãi đá và các vùng biển mà tàu Trung Quốc đi qua nhằm khẳng định cái gọi là chủ quyền của họ.” Đồng thời, cũng vào thời điểm này, theo báo mạng Wantchinatimes (Đài Loan) đưa tin, Trung Quốc đang cố gắng đăng ký Con đường tơ lụa hàng hải với UNESCO, đồng thời đẩy mạnh việc bảo vệ các địa điểm khảo cổ ở những vùng tranh chấp ở Biển Đông.*[2]
“Wang Yiping, phụ trách di sản văn hóa của tỉnh Hải Nam cho hay, xác các tàu đắm xung quanh đảo Shanhu và Jinyin ở quần đảo Xisha (cách Trung Quốc gọi đảo Hoàng Sa và đảo Quang Ản của quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam) sẽ được khai quật khảo cổ trong hai năm tới. Theo Wang, có các vật liệu xây dựng bằng đá và chạm khắc niên đại nhà Thanh được phát hiện ở nơi này.
Wang tiết lộ, một “cơ sở khảo cổ học dưới nước, một trạm làm việc và bảo tàng liên quan tới Biển Đông đều được lên kế hoạch nhằm bảo vệ Con đường tơ lụa hàng hải và giành được vị trí trong danh sách Di sản thế giới của UNESCO”.*[3]
Như vậy đã rõ. Với ‘sáng kiến’ về ‘Con đường tơ lụa trên biển’ Trung quốc đang mưu toan tìm kiếm sự chính danh về mặt pháp lý cho yêu sách chủ quyền của Trung quốc đối với gần hết Biển Đông. Sự chính danh về mặt pháp lý mà Trung quốc đi tìm kiếm, là nhằm tới những căn cứ như sau: i) tìm kiếm những bằng chứng lịch sử qua các di vật khảo cổ học dưới biển, nhằm khẳng định về ‘quyền lịch sử’ của Trung quốc đối với Biển Đông, hay còn gọi là ‘danh nghĩa lịch sử’ của Trung quốc đối với Biển Đông, tạo sự chính danh cho yêu sách đường ‘lưỡi bò’ của Trung quốc ở Biển Đông; ii) tìm kiếm sự công nhận quốc tế, thông qua tổ chức UNESCO, về ‘danh nghĩa lịch sử’ của Trung quốc ở Biển Đông.
Trung quốc có thực hiện được mưu đồ như đã nêu ?
Trung quốc đã bắt đầu thực hiện các bước đi cụ thể trong những ý đồ nêu trên. Bằng sức mạnh quân sự và dùng vũ lực, họ đang tổ chức và thực hiện các hoạt động tìm kiếm di vật khảo cổ học ở Hoàng Sa và Trường sa. Bằng tiềm lực kinh tế, họ đã thành lập Quỹ hàng hải Trung quốc – ASEAN, thành lập Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á. Bằng ảnh hưởng chính trị, bước đầu, họ đã đạt được sự đồng ý của Tồng bí thư ĐCS VN hợp tác về sáng kiến Con đường tơ lụa.*[4] Là một trong số 190 thành viên của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Trung quốc có tư cách để xây dựng hồ sơ về Con đường tơ lụa trên biển, trình và đề nghị UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới. Trung quốc đang thực hiện công việc này, chắc chắn là với quyết tâm cao.
Mặc dù đã tiến hành một số bước đi nêu trên, nhưng Trung quốc không thể đạt được sự chính danh về mặt luật pháp cho yêu sách Biển Đông.
Về việc Trung quốc vận dụng luận thuyết ‘danh nghĩa lịch sử’, ‘quyền lịch sử’ làm căn cứ cho việc yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông.
Trung quốc yêu sách chủ quyền đối với hầu hết vùng Biển Đông được giới hạn bởi đường 9 đoạn, và gần đây là 10 đoạn, thể hiện trên bản đồ do Trung quốc công bố với lý do toàn bộ vùng biển nằm phía trong đường 9 đoạn là thuộc chủ quyền của Trung Quốc với danh nghĩa là quyền lịch sử.
Học thuyết về quyền lịch sử đã được không ít quốc gia viện dẫn như là căn cứ để khẳng định yêu sách về chủ quyền đối với vùng nước của Vịnh có địa mạo lấn sâu vào đất liền của một hoặc nhiều quốc gia, với cửa Vịnh lớn hàng chục, hàng trăm hải lý. Có thể liệt kê một số Vịnh đã hoặc có thể mang danh nghĩa lịch sử như sau: Vịnh Chasepeak (Hoa kỳ), Vịnh Candal, Grandville (Pháp), Vịnh Chaleur (Canada), Vịnh El-Arab (Ai cập), Vịnh Hudson (Canada), Vịnh Laholm và Skendevikel (Thụy điển), v.v.
Học thuyết về quyền lịch sử đối với vùng nước của Vịnh khởi nguồn từ đầu thế kỷ XIX được các quốc gia có Vịnh sử dụng nhằm khẳng định chủ quyền của quốc gia ven bờ. Vùng nước Vịnh lịch sử thường được tuyên bố là Vùng Nội thủy, hoặc Lãnh hải của quốc gia ven Vịnh, có chế độ pháp lý như chủ quyền đối với đất liền. Lập luận của các chuyên gia luật quốc tế, của các thẩm phán Tòa Trọng tài Thường trực, cũng như của Tòa án quốc gia khi xem xét các vụ tranh chấp về danh nghĩa lịch sử của Vịnh thường tập trung vào một số chứng cứ chủ yếu như sau: thời gian sử dụng và chiếm hữu Vùng nước Vịnh, ý nghĩa lịch sử về mặt kinh tế và chính trị của vùng nước Vịnh đối với quốc gia ven Vịnh, thái độ của các quốc gia khác về hành vi và căn cứ yêu sách của quốc gia đòi hỏi danh nghĩa lịch sử đối với Vịnh.
Công ước Luật Biển năm 1982, tại Điều 10.6. có nhắc đến khái niệm ‘vịnh lịch sử’, mà không có quy định nào khác về ‘vịnh lịch sử’ hay ‘vùng nước, vùng biển lịch sử’. Như vậy, khái niệm ‘danh nghĩa lịch sử’ hay ‘quyền lịch sử’ không chính thức được pháp điển hóa và thể hiện trong Luật Biên quốc tế. ‘Quyền lịch sử’ chỉ được sử dụng trong các yêu sách của các quốc gia ven một Vịnh cụ thể đòi hỏi để xác định chủ quyền đối với vùng nước Vịnh với chế độ pháp lý của vùng Nội thủy, hoặc Lãnh hài.
Khi đưa ra yêu sách đòi chủ quyền với gần hết Biển Đông dưa trên đường 9 đoạn tự phác thảo, Trung quốc đã được đề nghị giải thích và làm rõ tọa độ trên hải đồ, Trung quốc đáp lại một cách đơn giản – đó là ‘quyền lịch sử’, mà không hề đưa ra căn cứ để chứng minh.
Xét dưới góc độ Luật Biển quốc tế, yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông – là hoàn toàn không có căn cứ, hoàn toàn không dựa vào bất cứ quy định nào của Công ước Liên Hợp Quốc năm 1982.
Trung Quốc cố tình lập lờ vận dụng học thuyết về danh nghĩa lịch sử để áp đặt các quốc gia ven Biển Đông một yêu sách vô lý về Vùng biển nằm trong đường 9 đoạn trên Biển Đông.
Như vậy, cho dù Trung quốc có thu thập được bao nhiêu di vật khảo cổ làm bằng chứng lịch sử ở Biển Đông, thì cũng không giúp cho Trung quốc có được ‘danh nghĩa lịch sử’ đối với Biển Đông theo Công ước về Luật Biển năm 1982.
Về việc Trung quốc tìm kiếm sự công nhận quốc tế cho ‘con đường tơ lụa trên biển’, thông qua tổ chức UNESCO.
Tại kỳ họp lần thứ 17 của tổ chức UNESCO, ngày 16-11-1972, Đại Hội đồng của tổ chức này đã thông qua Công ước về việc bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới (gọi tắt là Công ước UNESCO 1972).
Điều 1 của Công ước UNESCO 1972 – định nghĩa về di sản văn hóa; Điều 2 – định nghĩa về di sản tự nhiên, thuộc đối tượng được đăng ký và công nhận là di sản của thế giới. Trong số các định nghĩa về di sản văn hóa, di sản tự nhiên được quy định tại Công ước UNESCO 1972, dường như ‘con đường tơ lụa trên biển’ có thể được Trung quốc vận dụng, coi là phù hợp với định nghĩa về di sản văn hóa quy định tại khoản 3 Điều 1 của Công ước. Cụ thể như sau: “ Theo Công ước, di sản văn hóa là: ….Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.”
Việc công nhận di sản văn hóa hoặc di sản tự nhiên được tiến hành theo quy trình đăng ký với và được xét công nhận bởi Uỷ ban di sản thế giới, gồm đại diện của 21 quốc gia thành viên tổ chức UNESCO. Quy định tại Điều 11.1. của Công ước UNESCO 1972 nêu rõ: “Mỗi một nước tham gia vào Công ước này đề đạt cho ủy ban di sản thế giới, trong phạm vi có thể, một bản kiểm kê các tài sản của di sản văn hoá và tự nhiên nằm trên lãnh thổ của mình(nhấn - HNG)”. Như vậy, quy định về đăng ký di sản chỉ là hợp pháp khi một quốc gia thành viên UNESCO tiến hành đăng ký di sản văn hóa, tự nhiên hiện hữu trên lãnh thổ của mình. Không có quy định nào của Công ước UNESCO 1972 quy định về quyền của một quốc gia đăng ký di sản văn hóa, tự nhiên thuộc một không gian địa lý bao trùm lãnh thổ của nhiều quốc gia. ‘Con đường tơ lụa trên biển’ theo ‘sáng kiến’ của Bắc Kinh bao trùm lên biển đảo thuộc chủ quyền của nhiều quốc gia ở Biển Đông, kéo dài sang Ấn độ dương, Châu phi, châu Âu.
Để loại trừ khả năng lợi dụng việc đăng ký và công nhận di sản văn hóa, tự nhiên là di sản thế giới, có thể gây phương hại tới chủ quyền quốc gia của những nước liên quan, Công ước UNESCO 1972 có quy định như sau: “Việc ghi một tài sản vào danh sách di sản thế giới chỉ có thể làm với sự đồng ý của quốc gia hữu quan. Việc ghi một tài sản nằm trên lãnh thổ đang còn là mục tiêu tranh chấp chủ quyền hoặc còn là đối tượng điều chính pháp luật của nhiều quốc gia; không hề là việc công nhận quyền lợi của các bên trong sự tranh chấp.” (Điều 11.2.)
Như vậy, việc Trung quốc tiến hành đệ trình hồ sơ về ‘con đường tơ lụa trên biển’, thuộc chủ quyền của nhiều quốc gia ở Biển Đông, Ấn độ dương, châu Phi và châu Âu mà không có được sự đồng ý của những quốc gia này – sẽ là hành vi không phù hợp với các quy định của Công ước UNESCO 1972. Trong trường hợp này, Ủy ban di sản thế giới sẽ không có thẩm quyền xem xét hồ sơ đăng ký về ‘con đường tơ lụa trên Biển’ của Trung quốc.
Phi lý như vậy, nhưng vì sao Trung quốc vẫn hành động ?
Rõ ràng là Trung quốc đang đặt cược vào ‘củ cà rốt’, mua chuộc bằng kinh tế qua những dự án được hứa hẹn cho các quốc gia nằm trên ‘con đường tơ lụa trên biển’, qua đó đạt được sự đồng thuận, trước hết với các quốc gia ĐNA ở Biển Đông, để đạt được sự công nhận của UNESCO đối với ‘con đường tơ lụa trên biển’ như một di sản thế giới nhằm làm lu mờ chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt nam và các nước khác trên Biển Đông.
Công bố việc đăng ký hồ sơ di sản thế giới cho ‘con đường tơ lụa trên biển’, đồng thời cũng là cách để Trung quốc biện minh cho hành động tiến hành tìm kiếm di tích khảo cổ học dưới biển thuộc các vùng biển đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt nam và các nước khác ở Biển Đông.
Di vật khảo cổ thuộc các triều đại Trung hoa được tìm thấy ở các vùng biển trong Biển Đông sẽ là công cụ tuyên truyền của Trung quốc về sự hiện diện lịch sử lâu đời của người Trung quốc (lập lờ đánh lận với sự hiện diện của Nhà nước Trung quốc – mà lịch sử chưa hề biết đến, cho tới năm 1956 khi họ lần đầu tiên dùng vũ lực xâm chiếm phần phía đông của Hoàng sa ở Biển Đông), để lừa bịp dư luận quốc tế về ‘danh nghĩa lịch sử’ của Trung quốc đối với Biển Đông.
Cần phải nhận thức rõ và cảnh giác với âm mưu của Trung quốc khi nêu ra ‘sáng kiến’ về ‘con đường tơ lụa trên biển’.
Trung quốc có thành công trong việc thực hiện mưu đồ ‘con đường tơ lụa trên biển’ ? Điều này phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh chính trị, ý thức coi trọng chủ quyền lãnh thổ quốc gia của giới lãnh đạo ở mỗi quốc gia ven Biển Đông, cũng như trên toàn tuyến gọi là ‘tơ lụa biển’ mà Trung quốc đang gạ gẫm. Tơ lụa là của cải vật chất, nhưng tơ lụa cũng có thể được sử dụng như giải thòng lọng xiết cổ đối với những quốc gia tự mình nạp mạng.
Hà nội, ngày 16/6/2015.
[2] http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/trung-quoc-bi-to-dem-bien-dong-di-dang-ky-di-san-3046616/
[3] http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/trung-quoc-bi-to-dem-bien-dong-di-dang-ky-di-san-3046616/
[4]BBC tiếng Việt, ngày 08-4-2015 cho biết: bài của Tetsuya Abe và Atsushi Tomiyama trên trang Nikkei Asian Review hôm 8/04/2015 cho rằng hai lãnh đạo Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng “đồng ý hợp tác về sáng kiến Con đường Tơ lụa, một nỗ lực của Trung Quốc thu hút Việt Nam và để tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong vùng”. Theo báo Nhật Bản, hai ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng đã “đồng ý lập các nhóm công tác về hạ tầng cơ sở và hợp tác tài chính” cho dự án Con đường Tơ lụa. Hai bên có ý định “xây cơ sở cảng, đường cao tốc và các dịch vụ hạ tầng khác” với sự trợ giúp của Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng châu Á (AIIB). Ông Tập “hoan nghênh sự tham gia của Việt Nam vào sáng kiến Con đường Tơ lụa trên biển”, theo Nikkei Asian Review.