Tôi đã đọc bài của ông Nguyễn Khắc Bảo trao đổi lại, thì thấy ông đã tránh né, bám vào những điều râu ria, rồi lấy ý kiến (sai) của người này phủ nhận ý kiến đúng của người khác. Thực ra, nếu Lời nói đầu và cách viết một vài bài của ông, là trang viết của người chuyên nghiệp, chắc đã bị phê phán từ lâu. Nhưng do biết rằng người viết nghiệp dư thường quá phấn khích, tự tin khi viết được một số bài, lại sớm biểu hiện sự cao ngạo... nên chúng tôi thông cảm được. Nhưng lần này chúng tôi viết bài, trước hết là vì muốn trình bày cách hiểu về bài thơ có một ý nghĩa đáng kể trong việc tìm hiểu thêm về Nguyễn Du. Nhưng vô hình trung, lại là dịp trao đổi với ông Nguyễn Khắc Bảo - một người chúng tôi từng quen biết, rất thông minh, chịu khó nhưng kiến thức và phương pháp làm việc còn nhiều hạn chế. Rất mong được hiểu cho.
Trước hết chúng tôi thấy rằng, từ ông Vương Trọng đến ông Nguyễn Khắc Bảo, và chúng tôi đều không ai có văn bản chữ Hán bài thơ, nên thoạt kỳ thủy tôi chưa mặn mà lắm trong việc viết bài.
Rất may là gần đây, ông Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên chính khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tìm được văn bản chữ Hán của bài thơ, cho chúng tôi bản chụp, nên mới có tài liệu viết bài này. Chúng tôi xin được cảm ơn.
Về văn bản, so với bản quốc ngữ, bản chữ Hán có khác biệt: a) Đầu bài thêm chữ “Hữu”: Văn thúc phụ Lễ bộ Hữu tham tri phó âm cảm tác; b) Chữ thứ sáu, câu 8 Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng, chứ không phải năng hay nặngthời đồng. Rất may là Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập 3, có in chữ Hán, nên ta biết rằng, thay vì chữ cựu, bản chữ Hán này in chữ nẵng.Cựu và nẵng đều có nghĩa là trước kia, là xưa, chẳng khác gì sự khác nhau của hai chữ thôi /xao. Dùng chữ nào cũng được. Cho nên, về văn bản, có thể đoán rằng có lẽ câu thơ chữ Hán Tinh linh hoảng dữ nẵng thời đồng ban đầu do một người Nghệ Tĩnh phiên âm. Nhưng ngữ âm miền Trung đã khiến người phiên lẫn dấu ngã sang dấu nặng mà viết nẵng thành nặng. Đến khi người khác thấy nặng dường như không phải âm Hán Việt, lại đã đoán mà sửa ra năng? Thành thử người này sai rồi truyền cái sai cho người khác.
Dù sao thì tại bài viết này, chúng tôi vẫn dùng bản chữ Hán vì hiện đây là văn bản quý nhất (nhưng cho in đậm những chữ mà các bản quốc ngữ không có, hoặc chép khác, để phân biệt). Đã nghiên cứu thơ chữ Hán, thì phải nghiên cứu trên văn bản chữ Hán. Người đọc trông chờ, là trông chờ ở phần dịch nghĩa. Không có bản chữ Hán sẽ phải dịch mò! Vì thế, tại bài viết này, chúng tôi tập trung bàn về cách hiểu từng chữ trong bài thơ, dịch lại một số câu mà vì nhiều lẽ từ 1963 đến nay bị dịch sai, đồng thời khẳng định đây là mộtbài thơ tám câu bảy chữ (thất ngôn cổ thi),chứ không phải hai bài tuyệt cú. Đây cũng là những vấn đề cốt lõi trong việc thảo luận về bài thơ Nguyễn Hành mấy tháng qua.
Bài thơ như sau:
VĂN THÚC PHỤ LỄ BỘ HỮU THAM TRI PHÓ ÂM CẨM TÁC
Công tự Tố Như, tính hiếu lạp. Tự hiệu Hồng Sơn liệp hộ. Nhâm Tuất tuế phệ sĩ. Kim triều lũy quan chí Hữu tham tri. Canh Thìn bát nguyệt tốt.
Thập cửu niên tiền Tố Như tử
Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
Tam thu luân lạc thử thành trung
Nam vọng phù vân mỗi ức công
Quy khứ gia sơn văn dạ lạp
Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng
Trong Lời nói đầu của cuốn sách nói trên, sau khi nhắc lại chuyện khi lâm chung, Nguyễn Du không chịu uống thuốc. Khi người nhà nói chân tay lạnh rồi, cụ chỉ trả lời “được”, rồi thanh thản ra đi, ông Nguyễn Khắc Bảo và Nguyễn Trí Sơn đã trích hai câu thơ 3, 4 trong bài thơ để tán rằng: “Việc ra đi ấy lại như trút được nỗi lo sợ vẫn ám ảnh bao lâu cho mình và cả dòng họ. Do vậy ta có thể hiểu vì sao người cháu gọi thi hào bằng chú ruột là nhà thơ Nguyễn Hành (1771-1824) lại có bài thơ viếng chú nhan đề Văn thúc phụ lễ bộ hữu tham tri phó âm cảm tác,trong đó có câu thơ hàm ẩnnhư sau:
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử
Tạm dịch: Nhờ họ nhà ta có phúc dày, nên ông mới được ra đi trọn vẹn thanh danh như vậy. Đâu có phảivì dịch bệnh mà ông chết nhanh như thế”.
Nếu tin vào câu thơ “tạm dịch”, hóa ra không phhải Nguyễn Du chết vì bệnh dịch mà cái chết của ông là... nhờ “phúc dày” của cả họ? Ông chết đi khiến cho cả dòng họ “trút được nỗi lo sợ vẫn ám ảnh bao lâu”! Thậm vô lý.
Vì thế, nhà thơ Vương Trọng viết:
“Việc hai soạn giả cho rằng Nguyễn Du chết là như “trút được nỗi lo sợ vẫn ám ảnh bao lâu cho mình và cả dòng họ” là chưa có căn cứ. Với bạn đọc bình thường, ngay cả với những người biết ít nhiều chữ Hán mà chỉ đọc hai câu thơ trên kia qua phần trích của hai soạn giả thì cũng khó biết được dịch như vậy có chính xác hay không. Nhưng đối với những người đã từng nghiền ngẫm bàithơ thất ngôn bát cú đó của Nguyễn Hành, từng biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ, và biết rõ vị trí trong bài của hai câu trích trên kia... thì tạm dịch như hai ông làm người ta nghi ngờ, hình như Nguyễn Hành không có ý như thế (...).
Câu thứ ba nên dịch là:”Phúc dày nhà ta chú đã khéo giữ đượctrọn vẹn”. Trong câu này không hề có chữ nào mang nghĩa ra đi tức là chết như hai ông đã dịch. Chữphúc dày nhà taNguyễn Hành dùng nên hiểu như thế nào? Họ Nguyễn Tiên Điền nói chung và anh em con cháu Nguyễn Nghiễm nói riêng có những điểm mạnh mà họ khác khó có được. Đó là nhiều người đỗ cao và làm quan to, đồng thời có nhiều người tài thơ. Nói về đỗ đạt và làm quan to thì Nguyễn Du, một người chỉ đỗ tam trường, chỉ làm đến Tri phủ hoặc Tham tri bộ Lễ... chẳng có gì đáng tự hào so với các tiến sĩ Nguyễn Huệ (bác ruột), Nguyễn Nghiễm (bố), Nguyễn Khản (anh ruột), trong đó có người đã giữ chức Tể tướng. Cái mà Nguyễn Hành ca ngợi Nguyễn Du là tài thơ (...). Vậy nên câu thứ ba của bài thơ là liền ý của câu thứ hai, tức là nối tiếp cái ý chú là người tài hoa, cụ thể là tài thơ nhất đời.
Còn câu thứ tư, Dịch lệ hà năng tốc công tửlà lời thốt lên như một tiếng kêu trời của người cháu: “Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh đến thế?”. Thế là câu thơ thể hiện sự sửng sốt của Nguyễn Hành khi nghe tin chú mất, hai soạn giả đã biến nó thành một ý khác hẳn, thậm chí ngược hẳn, và coi đấy chính là suy nghĩ thầm kín, sâu sắc nhưng chân thực của người cháu rất hiểu chú và hiểu việc đời. Không hiểu hai soạn giả vì xuất phát từ việc dịch sai hai câu thơ này rồi đi đến kết luận Nguyễn Du muốn chết để trút nỗi lo sợ... hay vì có kết luận như trên rồi cố lái cái ý của Nguyễn Hành cho hợp với lập luận của mình?”.
Chúng tôi tán thành cách hiểu của nhà thơ Vương Trọng.
Thực ra thì những cái sai trong Lời nói đầu cuốn sách, chỉ là do người viết thu lượm kiến thức của người khác mà viết, chứ không có ý kiến riêng nào. Xin chứng minh:
- Khi tác giả Lời nói đầu viết “Chúng ta còn tìm thấy trong các bản Truyện Kiều chữ Nôm (...) những chữ phạm húy vua Gia Long” (...) “Từ đó có thể khẳng định được Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi ra làm quan cho Gia Long. Có thể thi hào đã khởi thảo từ khi còn ở ẩn tại Thái Bình – quê vợ, rồi hoàn chỉnh trong thời gian về Tiên Điền – quê cha (1796-1801) (trang 12,13 ), thì phương pháp nghiên cứu văn bản Truyện Kiều qua chữ húy đời Gia Long chính là ý kiến của cụ Hoàng Xuân Hãn (1996), nhờ đó việc nghiên cứu văn bản học Truyện Kiều đã trở nên rất sôi động. Sau khi cụ qua đời (1996), GS Nguyễn Tài Cẩn đã cụ thể hóa phương pháp áy bằng cách thống kê từng chữ húy CHỦNG, LAN, HƯƠNG... Nếu không có Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Tài Cẩn chắc chắn không bao giờ người viết Lời nói đầu biết thế nào là chữ húy, chứ đừng nói đến chữ húy đời Gia Long. Không ai ra khỏi nhà mà không phải bước qua bậu cửa. Cách viết khơi khơi như vậy là không nên.
- Trong bài“NguyÔn Du viÕt TruyÖn KiÒu vµo lóc nµo”?, GS Tr¬ng ChÝnh viÕt: “Chóng t«i cho r»ng thêi gian s¸ng t¸c TruyÖn KiÒu lµ vµo kho¶ng nh÷ng n¨m NguyÔn Du ë “díi ch©n nói Hång”, nghÜa lµ tõ 1796 ®Õn 1801, tríc khira lµm quan víi nhµ NguyÔn (Tạp chí Văn họcsố 6, 1963),Vậy hai con số 1796-1801 và câu “Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi ra làm quan cho Gia Long” là của GS Trương Chính chứ đâu phải của người viếtLời nói đầu?
- GS Nguyễn Tài Cẩn đã viết: “Rất có thể là nhà thơ đã phác thảo thời kỳ Cụ về quê vợ ở, rồi sau đem bản thảo về Tiên Điền tiếp tục chữa đi chữa lại” (Tư liệu Truyện Kiều từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, Nxb. Văn học, 2004, tr.17). Vậy các câu“thi hào đã khởi thảo từ khi còn ở ẩn tại Thái Bình – quê vợ, rồi hoàn chỉnh trong thời gian về Tiên Điền – quê cha” , là ý kiến của GS Nguyễn Tài Cẩn.
- Sự lầm lẫn Lời nói đầuđược nhà thơ Vương Trọng chỉ ra, cũng là do người viết không tiêu hóa được kiến thức đã thu lượm. Thật vậy, năm 1959 trongLời nói đầuThơ chữ Hán Nguyễn Du, các soạn giả viết: Cháu Nguyễn-Du là Minh-Quyên, trong bài viếng Nguyễn-Du có câu: “Chú tôi sảo toàn được 19 năm.Sảo toàncó nghĩa làkhôn khéo mới giữ được tính mệnh trong 19 năm làm quan triều Nguyễn”. (Nxb. Văn hóa, H, trang 4).
Thế là kết hợp với giai thoại, hai ông Bảo và Sơn bèn lấy ngay ý đó, hồn nhiên đưa vào Lời nói đầu của mình. Nhưng chẳng may cho hai ông là, từ năm 1962 GS Trương Chính đã phiên âm, rồi dịch hẳn 4 câu thơ của Nguyễn Hành ra để phủ định ý kiến năm 1959:
“Thập cửu niên tiền Tố Như tử
Nhất thế tài hoa kim dĩ hĩ.
Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử.
“(Mười chín năm trước đây ông Tố Như
Nổi tiếng tài hoa một đời nay không còn nữa.
Phúc dày nhà ta ông đã khéo giữ được trọn vẹn
Bệnh dịch sao có thể làm cho ông chết mau đến thế).
“Như vậy thì không phải là “khôn khéo mới giữ được tính mệnh trong 19 năm làm quan triều Nguyễn” mà là“giữ trọn được phúc nhà”. (Một vài ý kiến về tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chíVăn học số 8 năm 1962).
&
Bây giờ, chúng tôi xin phân tích chữ nghĩa. Khi trình bày cách hiểu những chữ Hán khác với nghĩa mọi người vẫn hiểu, chúng tôi đều dựa vào các từ điển cổ như Từ nguyên, Từ hải, Hán ngữ đại từ điển. Vậy nên, để tránh rườm lời, xin phép không chú thích nguồn dẫn nghĩa của từng chữ - Từ điển, Nxb, trang, cột nào).
Chẳng hạn, khi các cụ dịch tên bài thơ là “Nghe tinchú là quan Tham tri bộ Lễ từ trần, cảm lòng mà làm ra” (Hợp tuyển Thơ văn Việt Nam – Nxb. Văn học 1978) thì tuy không thể nói là sai, nhưng, về chữ nghĩa chúng tôi cho rằng chữ Văn nên dịch là nhận được. Nhận được gì? Nhận được phó âm (là thư, tin báo tang). Nguyễn Hành nhận được thư báo tang chú (thúc phụ) làLễ bộ Hữu tham tri qua đời, cảm xúc viết bài thơ này. Bài thơ có Lời dẫn: “Công tự Tố Như, tính hiếu lạp. Tự hiệu Hồng Sơn liệp hộ. Nhâm Tuất tuế phệ sĩ, kim triều lũy quan chí Hữu tham tri. Canh Thìn bát nguyệt tốt (Ông tự Tố Như. Thích đi săn. Đặt tên hiệu là Hồng Sơn liệp hộ. Năm Nhâm Tuất ra làm quan với vua đương triều, đến chức Hữu tham tri. Mất vào tháng 8 năm Canh Thìn. Thì ra Nguyễn Hành nhớ về chú, là nhớ hình ảnh một con người 19 năm trước, khi đang vui thú cùng phường săn dưới chân núi Hồng, chứ không nhớ đến ông Tham tri bộ Lễ triều Gia Long! Ý này rất quan trọng trong việc hiểu bài thơ.
Vì thế, câu thơ mở đầu và thứ hai chỉ có thể hiểu là: Mười chín năm về trước, Tố Như là người tài hoa nhất đời. Mười chín năm, là tính từ Nhâm Tuất(1802), Gia Long lên ngôi cho đến năm Canh Thìn (1820), Nguyễn Du mất. Câu thứ ba, Ngô môn hậu phúc công xảo hoàn, Nguyễn Hành đánh già Nguyễn Du. Ngô môn = gia tộc; hoàn = vun đắp. Câu thơ nghĩa là: Ông đã khéo vun đắp truyền thống thi thư của gia tộc. Chúng tôi tán thành Vương Trọng khi ông cho rằng câu thứ ba của bài thơ là nói tiếp cái ý chú là người tài hoa, cụ thể là tài thơ nhất đời”, “Cái mà Nguyễn Hành ca ngợi Nguyễn Du là tài thơ”.Câu dịch thơ của Vương Trọng:“Khéo vun dày dặn phúc nhà” tự nhiên lại đúng mà hay. “Còn câu thứ tư, Dịch lệ hà năng tốc công tửlà lời thốt lên như một tiếng kêu trời của người cháu: “Bệnh dịch sao có thể làm chú chết nhanh đến thế?”.
Tuy hơn 40 năm trước đây, GS Trương Chính dịch là, Phúc dày nhà ta ông đã khéo giữ đượctrọn vẹn, và hiểu phúc dày có nghĩa là “Nguyễn Du là người duy nhất giữ được danh thơm cho họ Nguyễn Tiên Điền”, vì ”Thời vua Lê chúa Trịnh, họ Nguyễn Tiên Điền là một đại tộc. Cha con, anh em đồng triều và toàn giữ nhữngchức vụ trọng yếu, nhưng “sang đời Nguyễn thì chỉ một mình Nguyễn Du là làm đến chức tham tri bộ Lễ mà thôi” (Tạp chí Văn họcsố 6 (tháng 12/1963), nhưng Lời dẫn và hai câu thơ đầukhiến chúng tôi ủng hộ cách hiểu của Vương Trọng.
Sau bốn câu thơ đánh giá người quá cố, mạch thơ đưa ngọn bút Nguyễn Hành tới bốn câu tiếp theo, thể hiện tình cảm, những kỷ niệm sâu sắc của ông vớichú. Chú thì đã khuất rồi, nhưng ba năm qua lưu lạc tại đất kinh thành (thử thành trung), cứ mỗi lần ngóng về quê nhà (Nam vọng), nhìn lên áng mây trôi (phù vân) là mỗi lần cháu lại nhớ đến chú (câu năm, sáu). Nhớ thế nào, nhớ đến gì, hai câu bảy, tám
Quy khứ gia sơn văn dạ lạp
Tinh linh hoảng dữ cựu thời đồng
thể hiện rõ. Nhưng tiếc rằng, những bản dịch từ năm 1963 đến nay đều không dịch đúng nghĩa.
Bản thì dịch Từ nay khi về quê nhà, ban đêm nghe tiếng người đi săn, mơ màng như thấy tinh linh của ông vẫn giống trước kia.( Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập III: Văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - giữa thế kỉ XIX bản thì dịch Mai rày, khi về quê nhà, đêm đêm nghe đám người đi săn, lại mơ màng tưởng thấy thần thái thần thái của ông vẫn như ngày trước... (Tổng tập Văn học Việt Nam tập 14); bản thì dịch Thì tâm hồn lại hoảng hốt giống y như ngày xưa còn chú (Nguyễn Thạch Giang và Nguyễn Khắc Bảo).
Dịch như thế, hóa ra người mai này về quê nhà, đêm đêm nghe tiếng người đi săn và tâm hồn lại hoảng hốt đều là Nguyễn Hành?
Không phải. Người “quy khứ gia sơn”, lui về ở ẩn, đặt tên hiệu cho mình là “Hồng sơn liệp hộ” (phường săn non Hồng), chính là Nguyễn Du.
Cái bẫy của câu thơ thứ bảy là ở chữ văn. Văn ở đây không phải là nghe, mà là nổi tiếng. Tiếp theo câu sáu, Mỗi lần ngóng về quê nhà, nhìn lên áng mây trôi là mỗi lần cháu nhớ đến chú, Nguyễn Hành nhắc ngay đến một kỷ niệm rất sâu sắc: Từ khi chú “quy khứ gia sơn”, trở thành nhân vật nổi tiếng trong phường săn núi Hồng (c. bảy) cho đến nay, tuy chú đã mất, nhưng cháu như (hoảng dữ)vẫn thấy hình ảnh, hồn thiêng (tinh linh) của chú cơ hồ vẫn còn lẩn quất quanh đây, vui cùng (đồng) phường săn thuở trước (cựu thời). Chữ dạ (đêm) ở câu bảy, xem như chữ đưa đẩy, vì người đi săn thường vãn săn đêm.
Mạch của bài thơ đi liền như thế mà bảo rằng từ câu thứ 5 đến thứ 8 là bài thứ hai, tức là cắt bài thơ thất ngôn bát cú (chúng tôi gọi làthất ngôn cổ phong), thành 2 bài thơ tuyệt cú thì e không phải. Đến khi thày Nguyễn Hùng Vĩ tìm được tập thơ chữ Hán Minh Quyên thi tập của Nguyễn Hành, chúng tôi càng có cơ sở để nghĩ như vậy.