Trần Ngọc Vương: Tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa các quốc gia, các cộng đồng cư dân là điều có thể quan sát được như một hiện tượng phổ biến, thậm chí là tất yếu trong suốt lịch sử nhân loại. Là người có chuyên môn lịch sử, thiết nghĩ anh không cần tôi chứng minh, giải thích hay đưa ra ví dụ. Đã có tranh chấp thì dần dà phải có cơ chế và phương thức để giải quyết nó, bởi xét cho cùng, sự sống là phụ thuộc lẫn nhau giữa các cộng đồng lớn nhỏ, ngay trong tự nhiên đã vậy! Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, những điều kiện cụ thể - lịch sử khi và nơi xảy ra tranh chấp, mà các cơ chế và phương thức giải quyết không hoàn toàn giống nhau.Tuy vậy nhìn trên tổng thể thì cái cơ chế giải quyết tranh chấp của nhân loại theo thời gian càng ngày càng tiến bộ hơn, văn minh hơn, cũng tức là càng ngày càng hữu lý hơn và vì thế, công bằng hơn…
Xung đột trên biển Đông sẽ được giải quyết một cách “đến nơi đến chốn” hay chỉ là sự nhường nhịn trong ấm ức, điều đó trước hết phụ thuộc vào việc chỉ ra nguyên nhân của xung đột. Ai cũng rõ là từ thuở “khai thiên lập địa” cho đến cuối thế kỷ XIX các quốc gia xung quanh biển Đông đều “sống với biển” một cách khá bình thản, thậm chí có thể nói, khá “nhún nhường” và giữa họ chưa từng có những tranh chấp, xung đột nào đáng kể, “ở tầm quốc gia”. Những xung đột lớn đến từ phía biển, từ góc nhìn của toàn bộ các quốc gia châu Á mà nói, chỉ trở nên là những sự kiện “quốc nạn” khi xuất hiện các thế lực “ngoại dương” – tức các thế lực mang đến châu lục này cái “vết nhơ trong lịch sử nhân loại” là chủ nghĩa thực dân! Và những “tiếng gầm của biển” kia chỉ được tạm lắng khi phần lớn các quốc gia châu Á thanh toán xong cái hiện tượng – vết nhơ ấy. Xung đột trên biển Đông lần này bùng phát lại do một thực thể khác, là từ quốc gia có vị thế lớn nhất trong khu vực, từng “ăn đời ở kiếp” với nhau, là “hàng xóm vĩnh viễn”, giờ tự nhiên “trở mặt” với hầu hết các quốc gia duyên hải và đảo quốc khác trong và quanh biển Đông. Ai cũng biết, quốc gia “trở mặt” ấy là Trung Quốc…Nếu chỉ tính từ thời điểm biển Đông trở nên “căng thẳng”, trở thành điểm nóng trong các bản tin thời sự quốc tế, cho tới nay thì mới 7 năm (từ 2009). Trung Quốc trở nên “quái trạng” cả với thế giới, cả với các quốc gia trong khu vực. Tại sao họ lại chủ động gây nên tình trạng đó, tại sao từ một quốc gia nạn nhân của “bè lũ cướp biển quốc tế” họ lại “tự diễn biến” thành tên cướp biển cơ hồ duy nhất của thế giới đương đại, khi mà hầu hết những tên cướp biển khác đã “hoàn lương”? Trả lời thấu đáo câu hỏi này, chắc chắn là phải đụng tới những kiến giải văn hóa, như anh đề xuất.
Phan Văn Thắng: Các nguồn gen văn hóa của các bên đã góp phần quy định cách hành xử của các bên can dự trên biển Đông như thế nào?
Trần Ngọc Vương: Đúng vậy. Theo lẽ tự nhiên, và về sau trở thành những tiêu chí “cứng” trong các bộ luật biển và hàng hải quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982, các quốc gia quần đảo thủ đắc nhiều “quyền” nhất đối với các đảo và vùng lãnh hải bao quanh quốc gia của họ.Tiếp đó là các quốc gia duyên hải, thứ đến các quốc gia có vùng lãnh thổ giáp biển. Những quốc gia không có đường bờ biển dĩ nhiên ít liên quan nhất đến các quyền lợi biển và những tranh chấp trực tiếp trên biển. Cũng là điều tự nhiên khi các quốc gia biển từ trong lịch sử lâu đời đã hình thành nên các truyền thống văn hóa biển, ở đó in lại dấu vết của nhiều chặng mà quốc gia đó coi biển là không gian sinh tồn tự nhiên của họ. Nhưng trong lịch sử nhân loại, cần lưu ý răng các cộng đồng cư dân chủ yếu xác định không gian sinh tồn của họ gắn với đất, với lục địa. Các đảo quốc cũng được hình dung bằng việc tồn tại của các đảo, nghĩa là được hình dung bằng lãnh thổ chứ không ở đâu được xác định bằng lãnh hải!Trước cả việc hình thành nên các quốc gia – dân tộc như ngày nay, các nền văn minh tối cổ thông thường nhất là được định danh gắn với các con sông lớn,cũng tức là gắn với những nguồn nước lớn và các vùng bình nguyên lớn mà các con sông đó thành tạo nên.Các bộ luật biển, các điều ước, công ước về biển đảo đều phải quy chiếu với “đường bờ biển”, nói khác là phải quy chiếu với đất liền, là vì thế.
Văn hóa và các truyền thống văn hóa ở các cộng đồng tộc người được hình thành và bảo lưu trong suốt quá trình tiếp xúc và hành xử với giới tự nhiên – môi trường sống và kiếm sống, tiếp xúc và hành xử với các cộng đồng khác. Trong trường hợp ta đang bàn tới, tôi quan tâm hàng đầu đến hai bộ phận của truyền thống văn hóa là các giá trị văn hóa và các hành vi văn hóa của các cộng đồng và các quốc gia hữu quan. Phân loại các quốc gia và cộng đồng hữu quan theo giá trị văn hóa và hành xử của họ có thể nhận ra sự chi phối trong chiều sâu của những quan niệm thuộc các lớp và các thời kỳ khác nhau, sự tự ý thức về cộng đồng mình thông qua đại diện là các chính quyền đang cầm quyền ở đó. Sử dụng cụm từ “các nguồn gen văn hóa” mà anh đề nghị, có thể thấy trên biển Đông, qua tranh chấp và xung đột cũng như các đề nghị giải quyết xung đột, nổi lên mấy loại “gen” chính: gen “đế quốc – thực dân”, gen “văn hóa tiểu nông – nhược tiểu” và gen “pháp quyền dân chủ”.
Phan Văn Thắng: Giáo sư có thể xác định tính chất, bản chất gen văn hóa của một số quốc gia – cộng đồng liên quan mà ta đang bàn đến, như Trung Quốc, Nga, Nhật, Mỹ, Ấn Độ, các nước ASEAN và Việt Nam thể hiện qua tranh chấp ở biển Đông?Tôi nghĩ là có một trạng thái văn hóa mà lâu dần nó trở thành một thuộc tính của các nền văn hóa, đó là văn hóa trong chính trị, cũng có thể gọi là văn hóa chính trị. Và tương tự, có một loại gen đó là gen văn hóa chính trị. Ông có đồng tình với quan niệm này không?
Trần Ngọc Vương: Ở đâu cũng vậy, từ khi các cộng đồng phát triển đến trình độ tổ chức nên các quốc gia, thì đại diện cho cộng đồng, cho quốc gia trước hết là các nhà lãnh đạo, cũng gọi là tầng lớp cầm quyền. Lịch sử các quốc gia thường được các bộ sử, đặc biệt là sử của các quốc gia Đông Á, trình bày thành lịch sử của các triều đại, tức là các dòng họ kế tục nhau cầm quyền trong các quốc gia đó. Cai trị, lãnh đạo quốc gia là một công việc vô cùng hệ trọng, ở mọi thời điểm, chỉ trừ những trường hợp ngoại lệ, mọi cá nhân lẫn tầng lớp cầm quyền đều phải nỗ lực để hiểu biết và hành động sao cho phù hợp tối đa- dĩ nhiên trước hết là theo quan điểm của họ - với tư cách người đại diện và kẻ thống trị cộng đồng. Hai bình diện hữu cơ của công việc cầm quyền, cai trị một cộng đồng là đối nội và đối ngoại, và liên tục trong lịch sử, các nhà cai trị phải “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”, vừa tác động vào thực tiễn chính trị vừa tổng kết, đúc rút nên các lý thuyết, ít ra cũng là các bí quyết, cai trị - lãnh đạo.Văn hóa chính trị đương nhiên, là một góc nhìn văn hóa quan trọng hàng đầu khi muốn tìm hiểu, muốn bàn bạc về một quốc gia, một “cộng đồng trưởng thành tới hạn” bất kỳ nào đó. Gen văn hóa chính trị, hiểu “gen” ở đây là gen di truyền xã hội chứ không phải di truyền sinh học, là chuyện có thật, không những thế, tìm biết về nó là hết sức quan trọng để có thể giải mã thành công một cộng đồng quốc gia.
Phan Văn Thắng: Như vậy là chúng ta đã đồng ý với nhau rằng trong lịch sử xã hội đã và đnag có một loài “gen văn hóa chính trị”. Vậy bây gời chúng ta hãy nói tới cái mà ta gọi là “gen văn hóa chính trị” nàycủa các quốc gia can dự vào tình hình biển Đông hiện nay. Xin giáo sư hãy bắt đầu từ nhân tố Trung Quốc.
Trần Ngọc Vương: Trong các bài viết của tôi, bắt đầu từ năm 1979 “Chủ nghĩa duy tâm của một quan niệm về lãnh thổ”(tạp chí Triết học số 4/1980) và các bài viết, các bài trả lời phỏng vấn, đặc biệt trong cuốn sách “Sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 và tham vọng của Trung Quôcđộc chiếm biển Đông” (2014, chủ biên), tôi đã kiên trì khẳng định luận điểm rằng nền văn minh Trung Quốc từ đầu và trải qua gần 5000 năm phát triển là một nền văn minh lục địa, lấy điểm xuất phát là vùng thượng và trung lưu sông Hoàng Hà.Biển và đại dương vốn là những thành tố xa lạ, nằm ở ngoại vi hoàn toàn trong sự chú ý của giới cầm quyền lẫn não trạng cư dân của họ.Từ sau ngày phát động cải cách 1978, giới cầm quyền Trung Quốc đại lục mới ráo riết và cấp bách nhận thức lại vai trò của thành tố biển. Tuy nhiên, khi phát động lên một chiến dịch tuyên truyền thấm đẫm sắc thái dân tộc chủ nghĩa nhắc nhở với toàn dân về thế kỷ “quốc nhục” (từ gữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) bị các cường quốc xâu xé và bắt nạt hay xâm lược, khi hô hào và phất lên ngọn cờ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa” cũng tràn ngập tinh thần dân tộc chủ nghĩa, không phải lập tức giới cầm quyền Trung Quốc và các nhà hoạch định “đại chiến lược” của họ, cả chính thống lẫn lực lượng ngoại vi, đã ấn định mục tiêu làm chủ biển và đại dương như là chìa khóa then chốt mở ra con đường tới vị trí siêu cường cho quốc gia của họ.Ngoài bộ máy tuyên truyền chính thức của Đảng và Nhà nước Trung Quốc trực tiếp điều hành và quản lý, tôi lưu ý tới hai xuất bản phẩm được sự cổ vũ nhiệt tình của truyền thông nhà nước và hệ thống xuất bản, làm thành những chiến dịch tuyên truyền rầm rộ cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, là cuốn tiểu thuyết khảo cứu của nhà văn – nhà dân tộc học Khương Nhung mang tiêu đề “Tôtem sói” và cuốn chuyên luận mang màu sắc luận cương chính trị“Trung Quốc mộng” của Giáo sư, Đại tá Lưu Minh Phúc – cuốn sách này và tác giả của nó không dấu diếm tham vọng sẽ trở thành “Tân Thiên hạ thái bình quốc sách” và bậc minh sư chiến lược thời nay của Trung Quốc đại lục. Hai cuốn sách này, với hai hình thức trước tác khác nhau, đều đặc biệt chú trọng việc phục hồi lại bản chất “bị mai một” của nền văn minh truyền thống, trên hai bình diện dường như tự mâu thuẫn: “sói tính” trong huyết quản ngàn năm của người Trung Hoa, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, khôn ngoan và bất khuất nữa qua tính biểu tượng của con vật “tổ” làm chủ thảo nguyên, và tính khoan hòa, hướng nội, yêu hòa bình của một nền văn minh trồng trọt có độ ổn cố cao nhất thế giới! Gạt đi sắc thái dân tộc chủ nghĩa cực đoan của họ, tôi chia sẻ luận điểm chung giữa họ rằng bản chất, “gen văn hóa” của nền văn hóa, văn minh Trung Hoa là văn hóa lục địa!
Nhưng từ đỉnh cao nhất của hệ thống quyền lực, từ năm 2009, Tập Cân Bìnhđã để “lọt vào mắt xanh” một tài liệu quan trọng thứ ba: hình vẽ mang tính phác thảo (khá tùy tiện) đường lưỡi bò trên biển Đông từ kho lưu trữ của chính quyền Quốc dân đảng. Tôi cứ hình dung với họ Tập, đường “lưỡi bò” như một thứ phát hiện mang tầm “Eureka” để giới lãnh đạo tối cao của Trung Quốc bám víu vào đó, khởi động cả một bộ máy và huy động một nguồn nhân tài vật lực khổng lồ, quyết tâm hiện thực hóa cho bằng được thứ chỉ là “sản phẩm trên giấy lộn của trí tưởng tượng” ấy. Sức thôi miên của đường lưỡi bò kia lớn đến mức,dù tôi nghĩ là Tập Cận Bình biết rất rõ một đòi hỏi khắc nghiệt về hành xử đối với một bậc quân vương trong mấy nghìn năm lịch sử chính trị Trung Quốc: “Quân bất hồ ngôn” (vua không nói chơi!), thì rốt cuộc đã bật lên từ cửa miệng ông ta, một lời khẳng định hoàn toàn sai sự thật lịch sử “Người Trung Quốc đã làm chủ biển Đông từ thời cổ đại”. Có lẽ không một phát ngôn nào của bất cứ chính khách nào đương đại lại làm dấy lên trên khắp thế giới một làn sóng phản biện, bác bỏ sôi sục và nhiệt tình đến thế, trên toàn thế giới!
Nhưng chủ nghĩa dân tộc hóa thân vào gen văn hóa chính trị và được thể hiện đặc biệt rõ rệt ở các nhà cầm quyền tối cao và ôm ấp nhiều tham vọng ở Trung Quốc là một thứ đặc biệt, là dạng thức cực đoan và phức tạp bậc nhất của chủ nghĩa dân tộc đế chế (nationalism emperial).Quốc gia Trung Quốc như ta thấy ngày nay là kết quả của một quá trình kết tủa lịch sử rất lâu dài và phức tạp. Đan xen giữa các thời kỳ của các triều đại quốc gia – đế chế (Tần, Hán, Tùy – Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh) là những thời kỳ dường như mang tính chu kỳ của một lịch sử khác, đó là những thời cát cứ, loạn ly, ở đó tràn ngập những cuộc chiến lớn nhỏ, những xung đột của các tập đoàn quân phiệt cát cứ, mang hay không mang nội dung sắc tộc, nhiều lúc rất khó phân định là nội chiến hay ngoại xâm,và một khi lập ra được hay tái lập được một triều đại đế chế thì lại xuất hiện một nỗ lực đồng hóa khủng khiếp của các bậc “đại hoàng đế sáng nghiệp” đối với các cộng đồng tộc người hay các quốc gia bên cạnh,khiến cho các quốc gia ấy hoặc bị nội thuộc hẳn, hoặc bị “quy thuộc” thành “chư hầu”, thành “phiên quốc”, bị ước thúc, đồng hóa ngặt nghèo hay chỉ là “ky my”(ràng buộc lỏng lẻo). Cũng đáng chú ý rằng trong lịch sử Trung Quốc, nhiều triều đại lớnlại không hẳn do những thế lực xuất thân là người Hán lập nên. Nước Tần trước khi trở thành thế lực đế chế diệt sáu nước để lần đầu tiên thống nhất Trung Quốc vốn bị coi là “Tây Nhung”, nhà Nguyên, như đã biết, là “Nguyên Mông”, và nhà Thanh cho tới thời điểm cuối cùng của lịch sử triều đại, vẫn là Mãn Thanh.Ba thế lực “ngoại tộc, dị tộc” đến từ ba phía, ba phương trời (Tần từ phía Tây, Nguyên Mông từ phía Bắc, Mãn Thanh từ phía Đông) đã có những đóng góp rất to lớn và quan trọng làm nên một “đế chế vĩ đại”, và lần lượt bị Hán tộc đồng hóa, những sắc dân dị tộc “tự hào mình được là người Hán”.
Nhưng cả ba phương ấy, đối với Trung Quốc, đều không là “từ phía biển”! Nhà Tần, nhà Nguyên, nhà Thanh đều không đưa lại cho Trung Quốc lãnh thổ trên biển, tri thức, kinh nghiệm, nói chi đến văn hóa biển. Vùng lãnh thổ trên biển đáng kể nhất về quy mô của Trung Quốc là đảo Hải Nam, có thổ dân thuộc nhóm Bách Việt khác Hán, vốn từng bị các triều đại , kể cả triều đại lớn, cân nhắc “nhè ra hay nuốt vào”. Tôi muốn nói tới cuộc nghị đàm nổi tiếng được ghi trong Hán sử - Khí châu Nhai nghị (nghị bàn về việc bỏ châu Nhai, tên thời Hán của đảo Hải Nam) - ở đó bộc lộ rất rõ giới hạn của một nhãn quan biển và tri thức biển của một trong những triều đại đế chế hùng cường bậc nhât của lịch sử Trung Quốc.
Khối cư dân Bách Việt định cư ở hạ lưu Trường Giang và các tỉnh duyên hải Trung Quốc mới xứng đáng được coi là có văn hóa biển. Tuy nhiên, như nhiều lần được chỉ ra, họ vốn bị coi là Nam Man, và tuy không cưỡng lại nổi sức đồng hóa khủng khiếp của văn hóa Hán tộc, trên thực tế họ vẫn bảo lưu nhiều đặc điểm văn hóa và lịch sử đặc thù. Trong danh sách thập đại đế vương chỉ có Minh Thái tổ và mãi tới thời cận đại ở vùng này mới lại xuất hiện một “đại nhân vật” gốc Bách Việt, đó là Tôn Trung Sơn, mà điều lạ lùng nhưng cũng dễ hiểu là ở nhân vật lịch sử này, chất Đại Hán lại không hề ít!
Như vậy, gen văn hóa chính trị chi phối cách hành xử và các quyết sách của Trung Quốc trong tranh chấp biển Đông chính là gen của một thứ chủ nghĩa dân tộc đế chế, “giấc mộng Trung Quốc” không gì khác hơn là giấc mộng trở thành đại cường quốc, và nếu có thể, là giấc mộng trở thành siêu cường vượt qua vị trí của nước Mỹ, trở thành Thiên triều của toàn thế giới.Phương thức hành xử “kinh điển” của các bậc đại đế vương trong lịch sử chinh phục “tứ di” là “gia ân” và “thị uy” đang được lặp lại hầu như nguyên vẹn ở giới cầm quyền Trung Quốc đại lục hiện nay.Lối hành xử bạo ngược kẻ cả kết hợp nét hãnh tiến của loại “nhà giàu mới nổi” của giới cầm quyền Trung Quốc ngày nay tuy vẫn có sức chi phối đối với một bộ phận giới cầm quyền ở một số quốc gia có vốn văn hóa chính trị yếu kém và đang duy trì ở quốc gia của họ tính chất độc tài, tham nhũng nhưng với các quốc gia phát triển thì bị đánh giá là lố bịch, một lối ứng xử thuộc về “một thời đã qua”!
Phan Văn Thắng: Sau thế chiến II, Mỹ đã vươn lên và trở thành cường quốc biển số một của thế giới. Đó là là một sự kế tục và phát triển xứng đáng của Mỹ với tư cách là hậu duệ các quốc gia biển “tiền thân” phương Tây như Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha. Ông hãy nhận dạng “gen văn hóa chính trị” của Mỹ và sự thể hiện của nó trong môi trường biển Đông hiện nay?
Trần Ngọc Vương: Không có một lịch sử quốc gia dân tộc đa tạp và lâu dài như Trung Quốc, nước Mỹ đang hành xử ở biển Đông vừa có một số biểu hiện của một thứ chủ nghĩa quốc gia đế chế tuy không phức tạp đến khó hiểu như chủ nghĩa dân tộc đế chế của Trung Quốc do vị trí siêu cường quốc duy nhất của họ trong thế giới đương đại, vừa được dẫn dắt và chịu sự ước thúc của một nền văn hóa pháp quyền và dân chủở trình độ phát triển hàng đầu của thế giới. Cần lưu ý rằng sự khác biệt giữa cái gọi là công pháp quốc tế với pháp luật một quốc gia là sự vắng thiếu những phương thức và biện pháp chế tài mạnh mẽ để có thể buộc các “bị đơn” phải thực thi phán quyết của các tòa án, vậy nên thế giới rất cần những “tiếng nói quốc gia” đủ sức nặng để hiện thực hóa phần nào các đòi hỏi mà các tòa án quốc tế đã tuyên.Với cục diện phức tạp, đa cực hóa của thế giới ngày nay, để kiềm chế tham vọng vô độ và phi lý của một Trung Quốc đang “trỗi dậy một cách không hòa bình”, “nhân tố Mỹ” là nhân tố không thể thiếu để hóa giải các xung đột trên biển Đông.
Phan Văn Thắng: Nhật Bản là một đảo quốc, trong thời cận hiện đại đã vươn lên trở thành một cường quốc thế giới. Dĩ nhiên họ có một hải sử phong phú, một nền văn hóa biển đa dạng và đặc sắc. Thời gian gần đây, trước sự thách thức và lộng hành của Trung Quốc, Nhật bản đã trở mình để khẳng định lại vị thế của mình, không chỉ đối đầu với Trung Quốc ở biển Hoa Đông mà còn can dự ngày càng tích cực hơn vào tình hình biển Đông. Giáo sư đánh giá như thế nào về sự ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, gen văn hóa của người Nhật khi can dự vào thế sự biển Đông nói riêng và công việc quốc tế nói chung?
Trần Ngọc Vương: Sau hai cuộc chiến tranh thế giới, Nhật Bản để lại nhiều ân oán với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực. Từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt, từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Nhật Bản đã thực hiện được một cuộc “tái sinh huy hoàng” và hiện thời là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Trong ứng xử về biển Đông, nước Nhật vừa thể hiện được tư thế của một cường quốc kinh tế - khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển cao, vừa bảo lưu những nét đặc sắc của một nền văn hóa võ sĩ đạo – Thần đạo lại cũng vừa tự biết kiềm chế, thể hiện được những sắc thái của một thứ “văn hóa biết hối lỗi”. Chắc chắn rằng Nhật Bản cũng có một vị trí, một vai trò quan trọng trong việc khắc chế, hóa giải những xung đột ở biển Đông. Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản vốn từng là một trong những cội nguồn của chủ nghĩa quân phiệt Nhật nhưng trong điều kiện của một xã hội đã được dân chủ hóa cao độ (tuy về hình thức nước Nhật vẫn theo thể chế quân chủ lập hiến như Anh, như Thái Lan và một vì quốc gia dân chủ khác!), lòng tự trọng và tính kỷ cương ở quốc gia này sẽ là một sức mạnh quốc gia đáng nể của họ.
Từ góc độ lịch sử, điều đáng nói về quan hệ quốc gia giữa Trung Quốc và Nhật Bản là trong số các quốc gia “đồng văn” thuộc “Hán tự văn hóa quyển” thì chỉ có Nhật Bản chưa từng bị Trung Quốc xâm lược, chưa từng là “chư hầu” hay “phên dậu” của Trung Quốc, Hoàng gia Nhật Bản cũng chưa bao giờ “ nộp cống xưng thần” cho các triều đại ở Trung Quốc.Ngược lại, trong lịch sử khu vực, có những thời kỳ Nhật Bản được đánh giá cao hơn Trung Quốc và quan trọng hơn, quốc gia này đã từng xâm lược, cai trị toàn cõi Trung Quốc. Đó có lẽ là nỗi niềm “quốc sỉ” lớn nhất mà người Trung Quốc phải chịu đựng trong thế kỷ XX. Một bí ẩn lớn cuả quốc gia này từ lúc xuất hiện nhà nước tập quyền cho tới tận ngày nay, nước Nhật chỉ có một dòng họ duy nhất nắm quyền lực tối cao,tự nhận và được dân chúng thừa nhận là hậu duệ của Thái Dương thần nữ.Sự sùng bái đối với Nhật Hoàng ở đất nước này là một tín ngưỡng, gần như một tôn giáo, mặc dù vị thế của Nhật hoàng sau Thế chiến thứ hai đã thay đổi đáng kể!Lý thuyết về sự chu chuyển của ngũ hành liên quan tới việc hưng phế của các dòng họ cầm quyền, vì vậy, không có đất sống ở Nhật Bản.Tất cả những điều vừa nói kết hợp lại dường như trở thành ưu thế văn hóa chính trị tự nhiên của Nhật Bản so với Trung Quốckhiến những người mang trong mình một thứ chủ nghia dân tộc cực đoan ở Trung Quốc nhìn vào Nhật Bản vừa tức tối nhưng lại vừa nể trọng.
Phan Văn Thắng: Và Nga, tôi nghĩ đây là một trường hợp rất đáng bàn vì gần đây họ đã can dự vào tinhg biển Đông với rất nhiều bất ngờ, nghi ngờ, nhất là với truyền thống quan hệ với Việt Nam. Trở lại lịch sử, Nga cũng có hải sử đáng trọng mặc dù đã từng thua hải quân Nhật trên chính Hoa Đông – Biển Đông từ đầu thế kỷ XX. Dẫu sao, hải quân Nga vẫn là một lực lượng rất mạnh, có lẽ chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Giáo sư có nhận định như thế nào về nguồn gốc văn hóa chính trị của các hành động của Nga ở Biển Đông trong thời gian gần đây?
Trần Ngọc Vương: Đứng là nhiều người người bất ngờ về thái độ và lập trường của Nga gần đây về biển Đông. Nhưng nếu bình tĩnh suy xét, chúng ta sẽ thấy điều đó cũng không có gì đáng bất ngờ. Như chúng ta thấy, những cơn địa chấn chính trị trong ba thập kỷ vừa qua đã khiến mối quan hệ trước hết là quan hệ “tay ba” giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô cũ hay nước Nga ngày nay, rộng hơn nữa giữa Nga và Trung Quốc, Nga và Nhật Bản...trải qua những thử thách và biến sắc, biến dạng nghiêm trọng. Nhìn từ góc độ sự chi phối của văn hóa chính trị truyền thống, hoặc gen văn hóa chính trị như đang đề cập, thì điểm chung lớn nhất trong văn hóa chính trị ở hai quốc gia này chính là tinh thần quốc gia đế chế.Nước Nga cũng từng có sự tồn tại của một quốc gia đế chế trong ngót 1000 năm và cũng từng “hun đúc”lên niềm tự hào ngùn ngụt khi trở thành những kẻ cai trị tối cao ở một quốc gia như thế. Liên Xô là một nhà nước Liên bang, mà trong mắt của những người am tường lịch sử chính trị khu vực, nó thừa kế khá trọn vẹn, không những thế, còn phát huy thêm, những thành tố văn hóa chính trị của mô hình nhà nước đế chế kiểu Sa hoàng.Những người cầm quyền ở Nga hậu xô-viết đều bảo lưu trong tâm lý cai trị của mình những đặc điểm ấy. Nước Nga hơn hai mươi năm qua không còn là nhà nước xã hội chủ nghĩa nhưng cũng chưa phải là nhà nước dân chủ pháp quyền. Chủ nghĩa dân tộc Đại Nga lúc âm ỉ lúc công khai vẫn bền bỉ hiện hữu.Thái độ bảo hộ kiểu Đại Nga đã là nguyên động lực làm bùng phát nhiều cuộc chiến giữa các cộng đồng gôc Nga hoặc nói tiếng Nga với chính quyền và cư dân của các nước cộng hòa sở tị làm cho nước Nga lâm vào những xung đột “ lợi ích quốc gia” không lối thoát, Đỉnh điểm của những xung khắc ấy chính là mối quan hệ càng ngày càng chìm sâu vào khủng hoảng giữa nước Nga với các quốc gia còn lại trong cộng đồng các quốc gia độc lâp (SNG) mà một sự kiện kịch tính diễn ra trong thời gian gần đây là việc Nga “thu hồi Crưm”, tạo ra sự đối đầu căng thẳng giữa Nga với quốc gia “đồng văn” gần gũi nhất là Ukrain, vốn được gọi là “”Tiểu Nga”, cũng là lý do trực tiếp của việc cấm vận kéo dài do Mỹ và các nước phương Tây chủ trì, khiến nước Nga tiếp tục lao đao, đang loay hoay đối phó. “Đồng bệnh tương lân”, không có gì đáng ngạc nhiên khi chứng kiến những phát ngôn thể hiện lập trường của Nga thời gian gần đây. Ngoài việc nỗ lực thiết lập những cấu trúc mới, những liên minh mới, nước Nga của Putin, như một tất định nghiệt ngã và trớ trêu của lịch sử, lại cố tìm tiếng nói chung với một Trung Quốc giờ hoàn toàn ở “chiếu trên”trong một tâm thế còn đầy sự ngờ vực về những ân oán cũ!Trong những toan tính chính trị đó, một Việt Nam “tràn trề tình nghĩa” trong mắt của các chính trị gia Nga thực dụng và bối rối vì trạng thái mà họ đang lâm vào, phỏng còn mấy sức nặng để cân nhắc nhiều khi đặt lên bàn cân lợi ích?
Phan Văn Thắng: Giáo sư có nhận định gì về thái độ của Nga trong thời gian gần đây về Biển Đông?
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Quyết định ủng hộ lập trường của Bắc Kinh trên biển Đông trong thời gian vài ba tháng vừa qua, Maxcơva vừa hành động để “lấy lòng” Trng Quốc, vừa để qua đó “tự biểu quyết” chống lại sự tẩy chay và hơn thế, sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế đối với Nga do lối hành xử bất chấp dư luận và pháp lý quốc tế của họ trong vấn đề Crưm.Tuy nhiên, sau phán quyết của PCA ngày 12/7 vừa qua, những phát ngôn về biển Đông của Nga ít nhiều đã thay đổi, bởi trên thực tế, dù bày tỏ thái độ bất hợp tác quyết liệt với tòa trọng tài quốc tế với sự bảo trợ của Liên hợp quốc, Trung Quốc không thể cứ khư khư những lý lẽ riêng của mình mà trên thực tế cũng đã âm thầm tự điều chỉnh “ít nhiều” và người Nga không thể không nhận thấy điều đó. “Chính trị là nghệ thuật của những cái có thể”, dù có ngang ngạnh đến đâu, Trung Quốc cũng không thể không run sợ khi với sự cẩn thận kỹ lưỡng của mình, Tòa đã bác bỏ thẳng thừng một trong những “niềm hy vọng cuối cùng” của họ, rằng Trung Quốc không có bất cứ bằng chứng lịch sử nào (thứ mà họ vẫn thường mang ra “dọa” các quốc gia khác do cậy vào truyền thống sử học lâu đời và liên tục bậc nhất thế giới của mình) về việc thực thi chủ quyền lịch sử trên biển Đông “từ thời cổ đại” như chính họ, chính nhân vật cao cấp nhất ở thượng đỉnh quyền lực của họ, đã khẳng định! Họ Tập đã đặt cược uy tín chính trị của mình trước thế giới trong phát ngôn này và giờ đây, cái nhận về khiến họ ê chề và bẽ bàng biết bao! Đằng sau tuyên bố bác bỏ lý lẽ về quyền lịch sử này của Trung Quốc, tôi tin rằng các thẩm phán của Tòa đã có được “sự bảo lãnh bằng vàng” của rất nhiều những nhà Trung Quốc học xuất sắc bậc nhất thế giới.
Nhiều quốc gia trong liên minh châu Âu hiện nay vốn có đội ngũ những nhà Trung Quốc học hùng hậu như vậy. Pháp, Đức, Hà Lan, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha đều là những quốc gia có nhiều duyên nợ với đế chế Trung Hoa truyền thống và từ mấy thế kỷ nay đã rất kiên trì phát triển đội ngũ Trung Quốc học của mình. Đó cũng là “danh sách rút gọn” của các quốc gia từng tập hợp nhau trong nhóm “liệt cường” đánh bại và “xâu xé” Trung Quốc, làm nên cái “thế kỷ quốc nhục” mà giới cầm quyền Trung Quốc vẫn thường nhắc nhở dân chúng của họ. Thời đại chủ nghĩa thực dân đã qua đi nhưng những hậu, hệ quả và dư âm của nó thì vẫn còn và sẽ còn lại khá lâu dài. Trải nghiệm bằng chính lịch sử của quốc gia mình, người Trung Quốc biết điều đó.
Phan Văn Thắng: Gần đây nhất, Pháp, một thành viên của EU đã lên tiếng về tình hình biển Đông, họ kêu gọi và sẵn sàng can dự trực tiếp vào biến Đông. Có lẽ chúng ta nên lưu ý với trường hợp này vì Pháp vốn đã có lịch sử hàng trăm năm gắn bó với câu chuyện biển Đông ở nhiều tư thế khác nhau?
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Tôi cho rằng, trong các quốc gia khối EU, nước Pháp có nhãn quan riêng về biển Đông và rộng hơn, có những dự đoán về triển vọng giải quyết xung đột trên biển Đông gần sát với thực tế hơn cả. Có điều đó trước hết vì so với các quốc gia châu Âu khác thời chủ nghĩa thực dân, Pháp là nước có sự hiện diện đậm nét hơn cả ở khu vực này, và hơn thế, từng là “mẫu quốc” của ba nước Đông Dương trong ngót trên dưới một thế kỷ. Đây cũng là quốc gia châu Âu từng và hiện vẫn đang có truyền thống Trung Quốc học hàng đầu của thế giới. Hàng loạt tên tuổi lớn của các học giả Pháp trong thế kỷ XIX – XX xứng đáng ở vào hàng kinh điển, được biết tới như những “quyền uy học thuật” không chối cãi trên khắp thế giới:E.E.Chavanne, M. Granet, H. và G.Maspero …Các cơ sở nghiên cứu khoa học về Viễn Đông của người Pháp luôn là địa chỉ khoa học đáng tin cậy đối với giới Đông phương học quốc tế. Cần đặc biệt lưu tâm đến “cái nhìn Pháp” về biển Đông!
Phan Văn Thắng: Là quốc gia đang vươn tới địa vị một cường quốc, Ấn Độ tham gia vào câu chuyện biển Đông bằng một tư thế riêng, có tiếng nói xét chung là tích cực và mang tính xây dựng trong việc giải quyết những xung đột mang tính khu vực. Hệ thống lại quá trình lịch sử, giáo sư có ý kiến gì về ý kiến này?
Giáo sư trần Ngọc Vương: Nền văn hóa Ấn Độ cùng nền văn hóa Trung Quốc thường được giới nghiên cứu quốc tế đánh giá là hai nền văn hóa có sự tồn tại và phát triển không bị đứt gãy hiếm hoi trong suốt lịch sử các nền văn minh nhân loại. Biệt sắc của xứ sở này là tính chất tâm linh và tính chất tồn tại hòa bình của toàn bộ cộng đồng giữa vô số tôn giáo và tín ngưỡng. Chính từ nơi đây đã sản sinh một trong những phương thức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đặc biệt bậc nhất trong lịch sử, góp phần quan trọng làm sụp đổ hệ thống chủ nghĩa thực dân toàn cầu: đấu tranh bất bạo động. Người đề xướng và tổ chức thực hành phương thức đấu tranh này là Mahatma Gandhi, người mà ở Ấn Độ hàng thế kỷ nay được công chúng gọi một cách kính cẩn là “Thánh”. Là quốc gia dân chủ có dân số lớn nhất thế giới (hơn 1,2 tỷ người), mặc dù vẫn còn đối diện lâu dài nữa với những vấn đề quốc nội, trên rất nhiều bình diện Ấn Độ đang càng ngày càng có tiếng nói có sức nặng trên trường quốc tế, nhất là khi câu chuyện liên quan đến số phận chung của nhân loại.Trong lịch sử hàng mấy nghìn năm, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ tới khu vực Đông Nam Á rất to lớn, thậm chí có phần vượt trội hơn văn hóa Trung Quốc.
Phan Văn Thắng: Nhưng theo tôi, trực tiếp nhất và cũng là phức tạp nhất vẫn là thái độ và hành xử của cộng đồng ASEAN. Phức tạp cả về căn tính văn hóa, cả về lịch sử liên quan và nhất là lợi ích của các quốc gia thành viên. Giáo sư có thể phân tích về cộng đồng này trong vấn đề biển Đông?
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Cộng đồng ASEAN tuy nhìn chung có vai trò ngày càng quan trọng trong việc tác động tới số phận của các quốc gia thành viên, nhưng từ nguyên tắc tổ chức đến kết cấu nội tại của khối, vẫn tồn tại nhiều, thậm chí quá nhiều khác biệt, thậm chí dẫn đến bất đồng giữa các quốc gia thành viên. Trong tranh chấp và xung đột ở biển Đông, có đến một nửa số các quốc gia thành viên đáng được coi hoặc tự coi là “người ngoài cuộc”. “Bức khảm văn hóa Đông Nam Á” vốn ngay từ đầu đã không dễ hình dung, bởi xét về lịch sử các quốc gia Đông Nam Á không xuất phát từ, không chịu ảnh hưởng quyết định từ một hay một vài “nền văn hóa kiến tạo vùng” , các ngữ hệ ở khu vực này vốn đa tạp, cũng như có sự phong phú, phức tạp về số lượng tộc người, nhóm tộc người nhưng trong phần lớn các quốc gia, các nền văn hóa đều có sự tịnh tồn của ba tầng, lớp và thành tố văn hóa là thành tố bản địa, thành tố văn hóa Trung Quốc, thành tố văn hóa Ấn Độ. Cuộc tìm kiếm “sự đồng thuận ASEAN” về vấn đề biển Đông chắc chắn sẽ diễn ra đầy những sự khúc khuỷu, quanh quẩn và trở nên khó lường. Đi sâu vào tìm hiểu sự lựa chọn hành xử của các quốc gia thành viên trong cộng đồng này, tôi nghĩ cần có những tiếp cận chuyên sâu khác và trên những diễn đàn thích hợp khác!
Với tất cả những gì diễn ra trong nội khối ASEAN mấy năm vừa qua, với thực trạng lai nguyên phức tạp như đã trình bày, có lẽ đã đến lúc các nhà chính trị của khối cần xem xét lại nguyên tắc đồng thuận khi đưa ra những quyết định quan trọng để tránh rơi vào tình trạng bế tắc, bởi như đã biết, nguyên tắc đồng thuận khi ra các quyết định chỉ có thể đạt được trong một tập hợp nào đó khi tính chất đồng đẳng và đồng chất của các thành tố nội tại của tập hợp đó đã tồn tại từ trước như một tiên đề.
Phan Văn Thắng: Bản lĩnh văn hóa và bản lĩnh chính trị của mỗi quốc gia có mối liên hệ như thế nào? Bản lĩnh chính trị rõ ràng là phụ thuộc vào những người đứng đầu quốc gia - dân tộc ở các thời điểm lịch sử nhất định, còn bản lĩnh văn hóa thì sao?Giáo sư có thể cho một vài ví dụ thật nổi bật về mối quan hệ giữa bản lĩnh văn hóa và bản lĩnh chính trị của các quốc gia đang có can dự vào tình hình biển Đông?
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Nhà chính trị trong một ý nghĩa nào đó là một “phân số - tham số ngẫu nhiên” của một nền văn hóa chính trị. Họ có thể là số dương mà cũng có thể là số âm… “lưu xú diệc lưu phương” (để tiếng tốt mà cũng có thể để tiếng xấu) trong lịch sử. Nhưng bất cứ nhà chính trị nào nếu họ ở tầm chi phối được đến tiến trình lịch sử thì đều mang ý nghĩa đại diện cho một hay một vài bình diện “thường tồn” trong lịch sử nền chính trị quốc gia - dân tộc”, hành động chịu sự ước thúc chặt chẽ của hoàn cảnh có trước. “Tính cách dân tộc”, tuy về khoa học cho tới nay là một khái niệm còn gây tranh cãi, nhưng là điều có thật!
Khi ở thời điểm hiện nay, hàng ngày đau đáu với “câu chuyện biển Đông”, tôi vẫn cứ muốn ngoái lại câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”. Câu chuyện là thế này: “Trời sinh” Việt Nam là một quốc gia duyên hải, không là đảo quốc nhưng càng không phải là quốc gia lục địa, vậy mà sao xem kỹ lại những kết tủa văn hóa, thành tố biển lại mờ nhạt đến thế kia? Đọc lại lịch sử Việt tộc (người Kinh), chiêm nghiệm cả trong folklore, trong truyền thuyết, cổ tích, ca dao dân ca, phải cay đắng nhận ra rằng người Việt đau đáu với đất hơn là với nước, “úp mặt vào đất” là trạng thái thường hằng mà “xa rừng nhạt biển”. Cũng cần nói rõ hơn,người Việt “nhạt biển” còn rõ rệt hơn “xa rừng”. Sự thật này ám ảnh tôi nhiều năm về trước. Ở thời “biển còn yên, sóng còn lặng”, sau một thời gian dài bị ám ảnh, tôi đã cố tìm câu trả lời. Một phần kết quả của sự dò dẫm mang màu sắc “tâm linh” ấy là bài viết “Con đê và sự hình thành nên tính cách người Việt”. Tôi cho rằng nền văn hóa biển ở người Việt bị mai một khá nhanh chóng trong các thế kỷ “chuyển vùng” từ sự “tòng thuộc văn hóa Đông Nam Á” sang sự tòng thuộc “vùng văn hóa Đông Á”, chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa lục địa của Trung Hoa, lấy nền văn hóa Trung Hoa làm “nền văn hóa kiến tạo vùng”, nhất là trong não trạng của giới cai trị quốc gia, chỉ nhăm nhe học theo mô hình tổ chức xã hội và nhà nước của chuyên chế Trung Quốc. Chính người Việt tự đánh mất cái văn hóa biển vốn có của mình. Sự mất mát này vô hình, dường như chẳng ai chịu trách nhiệm, nhưng đau đớn lắm! Đến mức vài năm trước đây, khi nghe một “ông Tuyên giáo” ở thành phố Hồ Chí Minh, trong lúc “ra quân” dẹp biểu tình, đã cáu kỉnh “giải thích” cho nhiều bạn trẻ thành phố, rằng sao các bạn cứ phải “tranh chấp làm gì mấy cái đảo hoang chim ỉa” xa lắc tận “ngoài kỉa ngoài kia”. Tôi nghe, mà buồn đến phát khóc, phát phẫn. Dường như anh ta “phát ngôn đại diện” cho nhận thức của không ít người trong giới “có trách nhiệm” trước lịch sử! Người bạn gốc Chăm của tôi, nhà thơ Inra Sara, vài lần nói riêng với tôi không giấu niềm tự hào: nếu muốn tìm hải sử Việt Nam thì cần tìm chủ yếu và trước hết trong hải sử Chiêm Thành. Ở một góc độ nhất định, tôi cũng đồng tình với anh.
Nhưng đánh mất và bị lãng quên chứ không phải là không có, không từng có. Tôi tin có thể tìm lại Hải sử Việt theo nguyên tắc phục chế con khủng long của các nhà cổ sinh học.
Để giải quyết một cách căn cơ những va chạm, tranh chấp, xung đột trên biển Đông, về lâu về dài, không thể bỏ qua những tri thức và lý lẽ “thuộc về tự nhiên” này. Đó cũng là điều tôi muốn gửi gắm tới các nhà chính trị khu vực.
Lịch sử thế giới các thế kỷ XVII - XX cho phép đoan chắc rằng bất cứ quốc gia nào ở các thế kỷ đó muốn trở thành cường quốc, đế quốc đều trước hết phải trở thành cường quốc biển. Cho tới thời điểm hiện tại, biển và đại dương vẫn tiếp tục mang lại cho con người, cho các quốc gia vô số những ưu thế so với đất liền, nhất là các quyền tự do. Nhưng để thủ đắc được cơ hội trên biển thì sự chuẩn bị từ đất liền phải đủ quy mô và tầm mức. Trung Quốc ý thức về điều này khí muộn, nhưng lại đang vô cùng khẩn trương để “rút ngắn khoảng cách” với các cường quốc biển khác. Dù họ là mối đe dọa trực tiếp đối với quyền lợi quốc gia Việt Nam, tôi cũng phải thẳng thắn mà bày tỏ, ít nhất là sự khâm phục trước khát vọng biển của họ! Và thật chua xót cho Việt Nam!
Dĩ nhiên, các cường quốc biển khác không phải nhắm mắt làm ngơ trước khát vọng và những yêu sách thậm vô lý của Trung Quốc.
Phan Văn Thắng:Giáo sư dự đoán gì về tương lai của biển Đông? Và nếu những dự đoán đó trở thành hiện thực, liệu sẽ tác động thế nào đến hành trình tương lai của văn hóa Việt Nam?
Căn nguyên của những tranh chấp, xung đột ở biển Đông, ai cũng rõ, là từ sự “trỗi dậy không hòa bình” của Trung Quốc. Khát vọng đưa quốc gia mình trở thành siêu cường số một của thế giới trong một khoảng thời gian ngắn kỷ lục đã làm giới lãnh đạo tối cao của Trung Quốc trở nên thiếu tỉnh táo. Các kịch bản diễn biến tình hình trên biển Đông đã trở nên rất phức tạp, mà trong chính trị quốc tế, nhất là giữa bối cảnh của thông tin thời nay, thật khó mà đoan chắc một kịch bản đơn giản nào sẽ xảy ra. Dù thế nào chăng nữa, Trung Quốc chắc chắn không thể độc chiếm biển Đông như họ mong mỏi. Nhưng họ hoàn toàn có thể làm chủ cuộc chơi trên biển Đông theo cách có lợi nhất nếu họ không tư duy quá theo lối “cùng binh độc vũ”, “lấy thịt đè người”, “mạnh vì gạo bạo vì tiền” khiến “nén bạc đâm toạc tờ giấy” như lâu nay vẫn làm.Tôi cho rằng rốt cuộc, Trung Quốc vẫn cần và sẽ phải tính đến các “quyền tự nhiên” của các quốc gia đảo và duyên hải, không phải là nhân nhượng và nhường nhịn - điều không có trong từ điển chính trị của giới cầm quyền Trung Quốc hiện nay - mà là theo những quyết sách uyển chuyển hơn, bớt thô bạo hơn nhưng cũng có thể, càng thâm độc hơn! “Gia ân và thị uy”, đó sẽ vẫn là hai lá bài song trùng mà giới cầm quyền Trung Quốc tiếp tục sử dụng, không chỉ để giải quyết những xung khắc trên biển Đông mà còn trong rất nhiều những lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế.
Việt Nam nằm ở thế “cửa ngõ, chốt chặn” của “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc hiện nay. Những gì diễn ra trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có tác động rất lớn tới tương lai trên biển Đông cũng như tương lai của các mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia “đồng hình” khác. Người Việt cần biết “nghĩ cho mình, cho con cháu mình” nhưng cũng cần biết “nghĩ cho họ” nữa. Không tự đeo đẳng sứ mệnh “vì ba ngàn triệu” – bây giờ đã là “bảy ngàn triệu” – trên đời, Việt Nam vẫn cần, càng cần tới một sự trưởng thành vượt bậc về tư duy chính trị để vừa bảo vệ thành công chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc, vừa không chỉ phục hồi vị trí vốn có trong mắt bạn bè quốc tế, mà còn phải vươn tới đóng vai trò khả kính, khả ái thế giới đương đại. Trên quỹ đạo đó, sẽ có quá nhiều việc phải được đặt ra và thực hiện, trong đó có việc phục dựng và tân tạo một nền văn hóa biển, mặt khác, xây dựng một nền văn hóa chính trị pháp quyền và dân chủ, bởi chỉ có như thế mới huy động được sức mạnh của toàn dân tộc để bảo vệ và phát triển đất nước.
Phan Văn Thắng: Cảm ơn giáo sư. Hy vọng chúng ta lại có dịp trao đổi các vấn đề khác.