Tên bài khiến tôi phải đọc, bởi lẽ ai cũng biết, thời gian đầu, Nguyễn Ái Quốc được coi là bút danh tập thể của ba người: Phan Châu Trinh, Phan văn Trường, Nguyễn Tất Thành khi thảo bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles; nếu làm rõ được những bài viết sau đó, khoảng từ giưã năm 1919 sang đầu năm 1920, bài nào là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, bài nào là của Nguyễn Tất Thành, thì cũng là một đóng góp trong việc nghiên cứu, bởi cần phải “ trả lại những gì của César cho César”, đó là cách ứng xử sòng phẳng đối với các vấn đề của lịch sử nói chung, cũng là một thái độ cần có trong nghiên cứu khoa học.
Nhưng để làm được việc đó thật không đơn giản chút nào. Những bài viết ấy xuất hiện cách đây đã hơn 80 năm, các tác giả của nó đã đi vào lịch sử từ rất lâu, và những người đương thời- như những chứng nhân lịch sử- cũng chẳng còn ai. Để có thể làm rõ một cách thuyết phục, đòi hỏi phải rất công phu: phải đi sâu khảo sát thư tịch, sưu tầm, tra cứu bản thảo, bút tích của các tác giả từ những nguồn lưu trữ khác nhau trong và ngoài nước, so sánh đối chiếu nội dung, sự kiện được đề cập đến trong bài viết với cuộc đời hoạt động và văn phong của các tác giả,…để xem vào thời điểm đó, ai có thể viết, được công bố lần đầu tiên ở đâu, trên báo nào…Tóm lại, là phải có minh chứng, lập luận, lý giải thuyết phục, chứ không thể cứ một mực tùy tiện, nói liều!
Đọc xong bài viết 4 kỳ của Thụy Khuê, tôi hoàn toàn thất vọng, bởi tác giả của nó hình như không có ý định xuất hiện như một nhà khảo cứu với phương pháp làm việc khoa học mà chỉ muốn làm một nhà báo tuyên truyền cho động cơ chính trị của nhà Đài! Âu cũng là chuyện thường tình, như là “nợ áo cơm, phải trả hình hài” vậy thôi! Người đọc nhận thấy ngay, các chủ kiến và lập luận của Thụy Khuê đưa ra hoàn toàn không phải là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiêm túc, dựa trên các chứng cứ xác thực, được chứng minh cụ thể, có nguồn xuất xứ tin cậy, mà chỉ toàn xuất phát từ những thiên kiến chủ quan, những lập luận hời hợt, để rồi đưa ra những kết luận hồ đồ với cách thức diễn đạt không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học : có lẽ là, có thể là, rất có thể là, phải chăng là…(của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh,…) được tác giả lắp đi lắp lại hàng chục lần! Những lỗi thô thiển về logic và lập luận như vậy có lẽ chỉ những học sinh trung học đang tập viết văn chính luận mới thường mắc phải!
Tuy nhiên, người đọc vẫn hiểu được cái đích của bài viết mà Thụy Khuê muốn đi tới là: tất cả các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1923, thậm chí đến năm 1927, bao gồm cả những bài được đăng trên Inprekor - cơ quan thông tin của Quốc tế cộng sản-, cả hai cuốn Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp, cũng được quy cho là của Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn An Ninh mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào! Thật không thể tưởng tượng nổi có một người phụ nữ cầm bút, định làm nghiên cứu mà lại liều lĩnh đến như vậy!
Cơ sở xuất phát cho mọi thiên kiến cực đoan của Thụy Khuê bắt đầu từ
chỗ tác giả cho rằng: giữa năm 1919 Nguyễn Tất Thành mới từ Anh trở lại Paris, lúc đó anh mới đang học tiếng Pháp nên chưa thể viết những bài báo có nội dung chính trị phức tạp được!
Kể ra, đối với một bài viết tùy tiện như thế, thực không đáng phải tốn nhiều giấy mực về nó. Nhưng với nhiều bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, không có điều kiện trực tiếp với thư tịch gốc, đọc Thụy Khuê sẽ dễ bị ngộ nhận, nên tôi thấy cần thiết phải viết bài trao đổi này với Thụy Khuê và với các bạn đọc có quan tâm đến vấn đề được đặt ra.
2. Nguyễn Tất Thành trở lại Paris năm nào? Trình độ tiếng Pháp của anh ra sao?
2.1.Đúng là vấn đề thời gian Nguyễn Tất Thành trở lại Paris chính xác vào ngày tháng năm nào vẫn đang còn có ý kiến khác nhau. Tiến sĩ sử học Thu Trang, trong hai công trình nghiên cứu của mình về Phan Chu Trinh và về Nguyễn Ái Quốc, đều cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã đến Paris vào đúng lúc Hội người Việt Nam yêu nước ra đời. Nghĩa là vào cuối năm 1916 đầu năm 1917, chắc hẳn không phải là trường hợp ngẫu nhiên”[1].Một số người khác, trong đó có nhà sử học Pháp Daniel Hémery, lại cho là vào năm 1919 chứ không phải năm 1917[2]. Cả hai phía đều dựa vào những báo cáo khác nhau của mật thám. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng cần phân biệt thời điểm Nguyễn Tất Thành bí mật trở lại Paris với thời điểm mật thám phát hiện ra anh từ sau vụ anh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước đến trao bản Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị hòa bình Versailles. Nghĩa là mật thám Pháp chỉ phát hiện ra anh từ sau ngày 18-6-1919, sau khi Tổ chức giúp đỡ người lao động nhập cư của Đảng Xã hội đã lo xong cho anh những giấy tờ hợp pháp, để từ đó anh có thể xuất hiện công khai. Như vậy, Nguyễn Tất Thành đã phải có mặt ở Paris trước thời điểm nói trên từ lâu rồi.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết của một đảng viên Xã hội kỳ cựu, nguyên là công nhân xưởng in báo L’Humanité, có chân trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của Đảng Xã hội sau chiến tranh; ông đã kể cho biết: Lần đầu tiên tôi gặp anh Nguyễn là vào tháng 7-1918, khi anh mới từ Luân Đôn sang được mấy tháng, lúc đó anh đang phải sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ ở phố Charonne, có khi hàng tuần không dám ra ngoài, để tránh mọi sự khám xét.Tôi đã thu xếp cho anh một chỗ ở mới tại quận 13, nhà đồng chi Moktar, người Tunisie. Để đảm bảo an toàn, khi Moktar đi vắng, anh không được đốt lửa, thắp đèn, mùa đông năm ấy rất rét. Anh phải chịu đựng như thế cho đến khi Đảng thu xếp xong cho anh các giấy tờ hợp pháp: giấy quân dịch, thẻ lao động,…[3].
Thụy Khuê khẳng định thời điểm Nguyễn Tất Thành đến Paris là tháng 6-1919 vì nó phù hợp với chủ kiến của mình: mãi giữa năm 1919 Nguyễn Tất Thành mới đến Paris, tiếng Pháp chưa thạo, làm sao viết được những bài báo chính trị phức tạp!
2.2.Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19-3-1920, ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc”[4][5]. Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp.Tại Marseille ngày 15 tháng 9 năm 1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ:
biết tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài gòn ngày 31 tháng 10 năm 1911 và tại New York ngày 15 tháng 12 năm 1912, anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15 $, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả-ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp
Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ
Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2-9-1919, đã xác nhận “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français)
[6].
Không lâu, sau khi xuất hiện công khai, Nguyễn Ái Quốc đã hăng hái đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng Pháp với thính giả Pháp, xin đơn cử:
-Ngày 14-1-1920, tại số 3 đường Château-Paris, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài “Sự tiến triển trong xã hội các dân tộc châu Á và những yêu cầu của nước Nam”(Theo báo L’Humanité các số ra ngày 13 và 14-1-1920 và báo cáo của mật thám Jean).
-Ngày 11-2-1920, Nguyễn Ái Quốc thuyết trình đề tài “Chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và vấn đề ruộng công điền ở Trung Quốc và Việt Nam”, tại Hội nghị những người thanh niên CS Quận 2 (Theo b/c của mật thám Jean).
-Tại cuộc mit tinh kỷ niệm 1-5-1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn nói về “Chương trình hoạt động của Nhóm Xã hội đòi ngừng gửi người thuộc địa sang Pháp” (Báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 25-12-1920, Nguyễn Ái Quốc, đại biểu duy nhất là người bản xứ, được mời tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, khai mạc tại thành phố Tours. Ngay buổi chiều hôm sau, anh được Chủ tịch phiên họp-Emile Goude - mời lên phát biểu. Lần đầu tiên trong đời, anh được dự một Đại hội lớn với sự có mặt của những trí thức tên tuổi của nước Pháp bấy giờ, nên không tránh khỏi xúc động, có lúc hơi thiếu bình tĩnh. Bài phát biểu ứng khẩu, được biên bản tốc ký ghi lại cho thấy ở anh một tư duy và ngôn ngữ Pháp sắc sảo, súc tích, sáng sủa, mạch lạc, tập trung vào mục tiêu tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi sự ủng hộ thiết thực sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Bài phát biểu đã được Đại hội nhiều lần vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Phát biểu tiếp theo đại biểu Đông Dương, chủ tịch phiên họp- E. Goude đã nhận xét: “
Bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt vời (En un excellent français), ông đã tố cáo những tội ác, những hành động đàn áp và chuyên chế mà hai mươi triệu người An nam là nạn nhân, họ bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, bị bóc lột và truy nã bởi một thứ công lý tư sản đè nặng lên họ.Tất cả những đảng viên xã hội nhất trí phản kháng, chống lại những bất công và tội ác của thứ công lý tư sản ở Đông Dương” (
Vỗ tay)
[7].
Đưa ra một vài dẫn chứng để hiểu được trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào quãng 1919-1920 khi ông bước vào hoạt động chính trị ngay tại thủ đô Paris. Tất nhiên, từ văn nói đến văn viết còn phải qua một chặng đường học tập và rèn luyện nữa. Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng hoạt động chính trị công khai giữa Paris phải sử dụng được vũ khí tuyên truyền sắc bén là sách báo, nên đã ra sức học viết, trước hết là học với người thày trực tiếp ở ngay cùng nhà là Phan Văn Trường, sau đó là miệt mài ở các thư viện. Nhờ khiêm tốn và dày công học hỏi, nên ông Nguyễn đã tiến bộ rất nhanh trong viết báo. Dấu ấn phong cách Phan Văn Trường trong những bài viết đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là rất rõ, hoặc do Phan Văn Trường hướng dẫn hoặc được Phan trực tiếp sửa chữa, nên sự khó phân biệt cũng là dễ hiểu (Chính Hồ Chí Minh sau này đã công khai nói rõ điều đó). Vì vậy, ngày nay mới cần đến sự thẩm định của nhà nghiên cứu.
Thụy Khuê xuất phát từ cái nhìn miệt thị, cho rằng Nguyễn Tất Thành tuy cũng xuất thân con quan, nhưng khi xuất dương đã phải sống một cuộc sống nghèo khổ, cực nhọc, không được học hành, không có bằng cấp như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, nên không đủ kiến thức và Pháp văn để viết, vai trò của ông trong tờ báo
Le Paria chỉ là “
giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn” thế thôi! Những câu viết khinh thị với đầu óc nặng bằng cấp này chứng tỏ Thụy Khuê tuy sống ở Pháp đã lâu nhưng lại không có được cái nhìn tiên tiến của giới trí thức Pháp. Người Pháp thứ thiệt lại rất coi nhẹ bằng cấp mà coi trọng thực tài, đề cao tư duy độc lập, khả năng phản biện và cá tính sáng tạo. Hãy nghe một trí thức Pháp, ông Daniel Hémery, đánh giá về Nguyễn Ái Quốc -Hồ Chí Minh sau này: “Hồ Chí Minh không hoàn thành trọn vẹn một chương trình giáo dục nào, ông cũng không tiếp nhận đầy đủ một nền tri thức hiện đại cũng như nền nho học cổ truyền mà đứng giữa hai nền văn hóa đó. Ông là một người tự học đầy tài năng, là hình mẫu của giới trí thức không bằng cấp, sẽ giữ vai trò quyết định trong phong trào cách mạng”
[8].
3.Bút danh Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành như thế nào và từ bao giờ?
3.1.Bút danh Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tháng 6-1919 trong bản Thỉnh nguyện thư gửi hòa hội Versailles, đồng thời cũng được gửi đến Tổng thống Hợp chúng quốc và các đoàn đại biểu nhiều nước tham dự Hội nghị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sáng kiến đưa thỉnh nguyện thư là của Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành và do Phan Văn Trường chấp bút, dưới ký một bút danh chung là Nguyễn Ái Quấc, nhưng địa chỉ ghi bên dưới không phải 6 villa des Gobelins mà là 56 phố Monsieur le Prince, nơi cư trú lúc đó của Nguyễn Tất Thành. Ngày 14-11-1919, Bộ Thuộc địa Pháp có thư mời Nguyễn Ái Quấc đến gặp để kiểm tra lý lịch, đã gửi thư về địa chỉ này, nhưng khi đó anh Thành đã chuyển đến số 6 Villa des Gobelins, nhà của Phan Văn Trường
[9]. Nhận được thư mời, Nguyễn Tất Thành ung dung đến trụ sở Bộ Thuộc địa kiến diện Bộ trưởng A. Sarraut - người đã có hai nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương - và sau đó với P. Pasquier (người sau này cũng trở thành Toàn quyền Đông Dương). Qua những cuộc gặp gỡ và đối thoại thẳng thắn này, cùng với kết quả xác minh của những mật thám người Việt bủa vây quanh anh, người mang tên Nguyễn Ái Quấc hiện diện bằng xương bằng thịt đã được khẳng định chính là Nguyễn Tất Thành.
Tất nhiên, bút danh Nguyễn Ái Quấc có thể vẫn được Phan Văn Trường tiếp tục sử dụng trong một thời gian nữa, từ cuối 1919 đến đầu năm 1920, một là vì thời gian đó, bản
Yêu sách vừa mới được công bố trên
l’Humanité, các thế lực thực dân đang có phản ứng mạnh về nội dung bản
Yêu sách, bút danh Nguyễn Ái Quấc đang nổi như cồn, ký bút danh đó sẽ được người đọc chú ý hơn; hai là xét về nội dung các bài báo xuất hiện cuối năm 1919 như
Ở Đông Dương, vấn đề dân bản xứ (l’Humanité, ngày 2-8-1919), bài
Đông Dương và Triều Tiên (Le Populaire ngày 4-9-1919), bài
Thư gửi ông Outrey (Le Populaire, ngày 14-10-1919), nói chung đều xoay quanh nội dung bản
Yêu sách, cùng một mạch văn, nên có thể vẫn do Phan Văn Trường viết. Điều này cũng đã từng được Tiến sĩ sử học Thu Trang nêu lên qua sự phân tích sự khác nhau trong lối hành văn, cách lý luận giữa Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc, một bên là luật sư, “có một túi luật lệ”, nên thỉnh thoảng ông đưa sự hiểu biết chuyên môn của mình ra để đấu khẩu với những tên thực dân” (như bài
Thư gửi ông Outrey); còn Nguyễn Ái Quốc, trong những bài báo về sau, “không mấy khi Nguyễn dùng luật lệ để bắt bẻ thực dân, mà phần nhiều hay dùng những chứng cớ hiển nhiên, dễ hiểu, thực tế đập vào mắt độc giả. Nội dung giản dị, dễ đọc, không đi vào chuyên môn; khi cần dẫn chứng thì mới trích đoạn chỗ này, chỗ khác, hoặc trích vài con số để chứng minh sự thật”
[10].
Thu Trang nghi vấn các bài này có thể là của Phan Văn Trường, chứ không hề nghĩ đến Nguyễn An Ninh hay Nguyễn Thế Truyền như Thụy Khuê đã gán một cách vô căn cứ cho hai người này, đơn giản là vì vào năm 1919-1920 Nguyễn Thế Truyền vẫn chưa có mặt tại Paris. Theo Đặng Hữu Thụ
[11], từ năm 1916-1920, ông Truyền đang học đại học ở Toulouse, miền nam nước Pháp; năm 1920 tốt nghiệp kỹ sư hóa học và cử nhân khoa học ban Lý Hóa, sau đó ông về nước cưới vợ và ở lại trong nước hơn một năm. Ngày 23-8-1921, ông lại được học bổng của Thống sứ Bắc Kỳ, tiếp tục đi du học lần thứ ba, theo học tại Đại học Sorbonne , cuối năm 1922 đậu cử nhân triết học và bắt đầu kết giao thân thiết với Nguyễn Ái Quốc và viết báo
Le Paria; có một thời gian ngắn ông tá túc ở số 6 villa des Gobelins, sau đó ông Truyền thuê nhà ở tại số 6 đường Saint-Louis-en-l’Ile Paris. Như vậy, những bài báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền sẽ chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 1922 trên tờ
Le Paria.
Còn Nguyễn An Ninh, sinh năm 1900, 18 tuổi ông mới sang Paris, tiếp tục học luật tại Sorbonne, hai năm sau (1920) đậu xuất sắc bằng cử nhân luật, nhưng chưa thấy nói đến những hoạt động chính trị của ông vào thời gian này. Như vậy, khó có thể nói võ đoán như Thụy Khuê rằng Thư gửi ông Outrey là của Nguyễn An Ninh viết, với một lập luận “kỳ khôi” rằng: “Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh,…khi đọc văn, y đoán chắc là của Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh”(sic)! Thụy Khuê cần biết rằng Outrey là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ viện Pháp, rồi làm Thống đốc Nam Kỳ, đang dòm ngó chức Toàn quyền Đông Dương; còn Nguyễn An Ninh khi ở trong nước mới chỉ là một học sinh Cao đẳng pháp chính thuộc Đại học ĐD, chưa đến 18 tuổi, hãy còn vô danh, nghĩa là chưa viết lách và chưa có hoạt động chống đối tiếng tăm gì, vậy tại sao một quan chức thực dân cao cấp như Outrey lại có thể “biết rõ gốc gác và hành tung của Nguyễn An Ninh, khi đọc văn y nhận ra ngay để có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh? (Những lập luận kiểu “tự do sáng tác” như thế này không hiếm trong bài viết của Thụy Khuê, có dẫn ra nữa cũng chỉ làm mất thêm thì giờ của độc giả).
3.2.Vậy bút danh Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành từ bao giờ? Cần nói ngay rằng “nhóm Ngũ Long” là do người đời sau đặt ra để tôn vinh năm nhà hoạt động yêu nước nổi tiếng có mặt tại Paris trong những năm 20 của thế kỷ trước ( ví như người ta vẫn đặt : “Nam Đàn tứ hổ”, “Thăng Long tứ kiệt”,…) chứ không phải là một “nhóm”có ý nghĩa về tổ chức, hình thành và hoạt động bên nhau cùng một lúc. Mỗi người có một vai trò và nổi lên ở một giai đoạn nhưng không phải khi nào họ cũng nhất trí với nhau về xu hướng, quan điểm và phương pháp hành động. Nguyễn Ái Quốc từ khi gia nhập Đảng xã hội rồi trở thành người cộng sản thì xu hướng ngày càng cấp tiến, hoạt động ngày càng mạnh mẽ; Phan Văn Trường là một trí thức có quốc tịch Pháp nên chủ yếu muốn dựa vào pháp luật và báo chí công khai để đấu tranh; Phan Châu Trinh thì chủ trương cải cách ôn hòa, mềm mỏng, không muốn làm mất lòng người Pháp. Họ thường tranh luận, có khi to tiếng với nhau, từ đêm này qua đêm khác, khiến hàng xóm phải than phiền. Tranh luận mãi mà không thuyết phục được nhau cũng mệt mỏi, cuối cùng đành mỗi người tạm đi một nơi: Cụ Phan dọn về ở 21 Pernety rồi cuối năm đó xuống Marseille làm việc hơn một năm; Nguyễn Ái Quốc dọn về số 9 Ngõ Compoint, Phan Văn Trường đi Mayence, ngôi nhà ở Gobelín bỏ trống. Tuy vậy, về mặt tình cảm, họ vẫn kính trọng nhau và duy trì quan hệ với nhau hết sức tốt đẹp.
Thực tế đó cho thấy Nguyễn Ái Quốc đã đi theo một con đường riêng, xu hướng thiên tả của anh được bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ trong hoạt động cũng như trong các bài viết, điều đó làm cho một số người e ngại. Phan Châu Trinh nhận xét về anh Thành là còn quá trẻ và có bầu máu quá nóng; Khánh Ký thì cho là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cảnh sát đã làm rầy rà cho những người An Nam ở số 6 villa des Gobelins (mật báo của Devèze ngày 27-12-1920). Có thể nói, từ khi gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919, rồi sau Đại hội Tours (tháng 12-1920), trở thành người cộng sản, bút danh Nguyễn Ái Quốc ký dưới những bái báo có xu hướng xã hội chủ nghĩa, thường hay nhắc đến Quốc tế cộng sản, đã trở thành bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Đó là điều dễ thấy, không ai có thể xuyên tạc được.
4.Về tác phẩm Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp.
4.1.Trong bài viết của mình, Thụy Khuê có nói đến cuốn La France en Indochine của Nguyễn An Ninh được viết và xuất bản tại Pháp tháng 4-1925, nhưng thừa nhận nay không còn dấu tích (nghĩa là Thụy Khuê cũng chưa từng nhìn thấy, chưa nói là từng đọc), chỉ còn bài viết La France et l’Indochine của ông đăng trên Europe, số 31, ra ngày 15-7-1925 cho ta biết tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh. Thế mà Thụy Khuê đã vội phỏng đoán một cách hồ đồ rằng: “Cuốn sách mang tên Đông Dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?”(sic!).
Để tránh những kết luận liều lĩmh như trên, tôi khuyên Thụy Khuê nên dến Trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử Nga, vào phông Quốc tế cộng sản, mở cặp tư liệu về Nguyễn Ái Quốc, đọc Hồ sơ số 7, sẽ thấy bản thảo bút tích, đánh máy tiếng Pháp, cuốn sách nhỏ nhan đề “Đông Dương” của Nguyễn Ái Quốc được lưu tại đó. Trang bìa in nền hoa văn, có chữ viết tay của thủ thư bằng tiếng Nga, dịch ra như sau:
ĐÔNG DƯƠNG
Dự thảo cuốn sách nhỏ của đồng chi Quốc
(1923-1924)
Dự thảo có 18 bài, gồm 82 trang đánh máy tiếng Pháp, với các đề mục như sau: 1.Sa géographie. Les classes. L’histoire. 2.Sa vie économique. 3.Les méfaits du militarisme. 4.Les atrocités de la civilisation. 5.Mentalité coloniale. 6.Les administrateurs. 7.Parasitisme et pétaudière. 8.Le consortium des bandits. 9.Concessions et concessionnaires. 10.Les travaux publics. 11.Corvées ou travaux forces. 12.L’obscurantisme. 13.La presse. 14.Les impôts. 15.La résistance. 16.L’Eglise. 17.La Justice. 18.L’Annam vu par les français.
Đọc qua, người đọc có thể thấy ngay tên một số đề mục có sự trùng hợp với tên một số chương của “Bản án chế độ thực dân Pháp”, có điều cuốn “Đông Dương” chỉ giới hạn tố cáo tội ác chế độ thực dân trong phạm vi xứ Đông Dương, còn “Bản án” đã được tác giả bổ sung và phát triển, mở rộng sự tố cáo ra các thuộc địa Á-Phi khác thành một tác phẩm đầy đặn hơn. Ông D. Hémery đã cho rằng “Đông Dương” chính là tiền thân của tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
4.2.Trước khi đề cập đến tác phẩm “Bản án”, tưởng cũng nên nói qua về những bài viết trên báo Le Paria. Vẫn quen lối nói bất cần khảo chứng, Thụy Khuê cứ tùy tiện nói bừa: “những bài xuất hiện trên báo Le Paria và L’Humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprékorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền” (sic)! “Nói có sách, mách có chứng”, yêu cầu đó đối với người Việt Nam, ngay cả trẻ con, ai cũng đều biết cả. Nhưng vì quá hăng hái “lập công” nên Thụy Khuê đã liều lĩnh nói bừa, vì vậy cũng chẳng đánh lừa được ai! Cần nhắc lại rằng báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập, trực tiếp làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và viết chính, số đầu ra ngày 1-4-1922, ngay trong số 1 đã có giới thiệu về số 2: đón đọc bài “Động vật học” được viết rất hay của Nguyễn Ái Quốc, photographe-(chữ thợ ảnh được chú thích đàng hoàng như một chức danh, đó là bài viết của một thợ ảnh chứ không phải của một avocat hay licencié nào).
Còn Nguyễn Thế Truyền, như đã nói ở trên, mãi cuối năm 1922 mới kết thân với Nguyễn Ái Quốc và tham gia cộng tác với
Le Paria, khi đó bút danh Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành rồi. Trong 38 số báo
Le Paria, có tới 37 bài của Nguyễn Ái Quốc , không kể bài dịch, với văn phong giản dị, thiết thực nhưng không kém phần trào lộng tinh tế, châm biếm sắc sảo, dồi dào tình cảm cách mạng và có tính chiến đấu cao, không thể trộn lẫn được. Chính nội dung những bài viết này, sau đã được Nguyễn Ái Quốc sử dụng lại, đưa vào tác phẩm “
Bản án”.Có điều lạ là Thụy Khuê đều vơ tất cả các bài trên
Le Paria và trên các báo khác về cho Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh mà lại gạt Phan Văn Trường ra? Nên nhớ, mãi đến 6-12-1923, ông Phan Văn Trường mới lên tàu về nước. Dưới một bút danh mới là PHAN, ông đã viết nhiều bài cho
Le Paria, theo GS Nguyễn Phan Quang, trong cuốn “
Luật sư Phan Văn Trường”
[12], các bài đó được đăng trên
Le Paria các số: 11, 12, 13, 14, 16, 18-19, 21,…trong các năm 1922-1923.
Đối với tác phẩm “
Bản án”, lúc đầu, Thụy Khuê khẳng định rằng đó là của Nguyễn Thế Truyền, sau có lẽ thấy nói thế không thuyết phục được ai, nên đổi giọng: “có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm chủ biên và viết lời giới thiệu”. Thụy Khuê dẫn thêm một câu của Trần Dân Tiên: “Ông Nguyễn chỉ viết một cuốn sách duy nhất là quyển “
Bản án chế độ thực dân Pháp”, trich trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, để rồi lu loa lên rằng: viết như thế “chứng tỏ ông chưa đọc “
Bản án chế độ thực dân Pháp”vì “chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện để ông chép lại”(sic)! Ô hay! Thật kỳ lạ cho tư duy của một nhà phê bình! Chẳng lẽ ở Pháp, Thụy Khuê chỉ quen biết với toàn nhũng tên thực dân mà quên rằng nước Pháp còn là quê hương của lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, của những người xã hội và cộng sản, của những trí thức chân chinh theo đuổi lý tưởng nhân đạo và chính nghĩa, như J. Jaurès, A. France, M. Cachin, Vigné D’Octon và rất nhiều người khác nữa. Họ viết sách, viết báo lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, bênh vực các dân tộc thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc trích dẫn họ như là một cách dùng “gậy ông đập lưng ông” thì có gì là lạ? Đây là dụng ý của Nguyễn Ái Quốc, được mật thám Jean ghi lại và đưa vào mật báo ngày 19-1-1920: “Tôi không muốn tự mình viết lấy, vì như thế không có giá trị trung thực. Tôi sẽ dùng những đoạn văn trong số sách đã viết về thực dân Pháp. Tôi sẽ cố gắng làm cho đậm nét những đoạn ấy”
[13].
Có thể thấy chính Thụy Khuê chưa đọc, hơn nữa có thể còn chưa được nhìn thấy tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản năm 1925 (hay 1926?) tại Paris, nếu được nhìn qua thôi, chắc không dám liều lĩnh nói sách này là của Nguyễn Thế Truyền hoặc do ông Truyền làm chủ biên, đơn giản là vì ngay trước trang bìa bên trong, sách đã in trang trọng ảnh chân dung tác giả của nó là: Nguyễn Ái Quốc! Một điều cũng hiếm thấy ở phương Tây lúc bấy giờ. Chính Nguyễn Thế Truyền trong Lời giới thiệu cũng viết: chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra những bản án của các dân tộc là thuộc địa của Pháp trong một loạt các tập sách nhỏ mà mở đầu bằng bản án của một người An Nam: Nguyễn Ái Quốc.
Đề cập đến vấn đề tác giả của “Bản án”, ông Đặng Hữu Thụ, vốn người Hành Thiện, tác giả cuốn sách khá đầy đặn về “Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền”, cho biết: “Trước khi đi Mạc Tư Khoa, ông Nguyễn Ái Quốc có viết cuốn sách lên án chế độ thực dân Pháp bằng Pháp ngữ. Ông có giao bản thảo sách cho ông Nguyễn Thế Truyền nhờ sửa chữa lại bản thảo, đề tựa và cho in tại Pháp. Sách được in năm 1926 tại Paris, có bài tựa của ông Nguyễn Thế Truyền” (tr.120). Ông Truyền nhờ ông Bửu Nghi, du học ở Pháp, là bạn thân của ông Truyền, sửa dùm các lỗi chính tả, văn phạm, lời văn; sau ông Truyền xem lại, sửa chữa lần nữa, gọt dũa lại câu văn, viết lại nhiều câu ý tưởng còn thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in (tr.123-124).Ông Thụ kết luận:“Vậy tác giả cuốn sách trên là ông Nguyễn Ái Quốc” (tr.125).
Thụy Khuê chắc đã đọc kỹ cuốn sách này vì đã đôi lần trích ý kiến Đặng Hữu Thụ trong bài của mình, nhưng đến đoạn này lại lờ đi không nhắc đến chỉ vì nó không có lợi cho dụng tâm đang muốn thực thi. Cách trích dẫn của Thụy Khuê là như vậy, nhiều khi cố tình cắt xén cốt sao đạt được ý đồ của mình. Bản “Việt Nam yêu cầu ca” được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành văn vần để cho những người ít chữ dễ thuộc, dễ nhớ, nhưng không thể đưa in vì ở Pháp lúc đó không có chữ in quốc ngữ có dấu, nên Nguyễn Tất Thành phải viết tay, làm bản chụp rồi in ra. Bài ca viết theo thể lục bát, bản phôtô trong sách của Thu Trang cho thấy Nguyễn Ái Quốc viết liền 2 câu 6/8 cùng 1 dòng. Thụy Khuê chỉ chép lại trong bài viết của mình toàn các câu 6, bỏ các câu 8, làm cho nó trở nên ngô nghê, chẳng còn vần điệu gì, cốt để hạ một câu: Nguyễn Tất Thành do sớm bỏ học, nên tiếng Pháp sơ sài, quốc ngữ cũng kém!
Vở kịch
Le Dragon en bambou (chứ không phải
de bambou như Thụy Khuê viết) cũng đuợc gán cho là của Nguyễn An Ninh mà không đưa ra được chứng lý nào. Chúng ta được biết, Nguyễn Ái Quốc không chỉ viết báo chính luận mà còn sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như truyện, ký, kịch, tranh biếm họa để phục vụ cho tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 5-1922, Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc địa tại thành phố Marseille để khoe công lao khai hóa thuộc địa và có mời vua bù nhìn Khải Định sang dự để khoe như một món hàng triển lãm. Sự kiện này làm cho những người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp cảm thấy bị sỉ nhục. Một chiến dịch phản đối bùng lên, phê phán mạnh mẽ tên vua bù nhìn ươn hèn, ăn chơi trác táng. Phan Châu Trinh viết “
Thất điều thư”, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài báo và truyện ngắn châm biếm Khải Định, trong đó có vở kịch ba hồi “
Con rồng tre”(trước đó ông đã diễn thuyết về đề tài
Sân khấu Việt Nam tại CLB Faubourg buổi sinh hoạt tháng 4-1922). Vở kịch được nhóm Faubourg đem công diễn và đã được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Điều này được chính Léo Poldès, một trí thức phái tả, là chủ nhiệm CLB Faubourg thời bấy giờ thừa nhận, trong một bài viết đăng trên
Tuần báo Ici Paris số 53, ra ngày 11,12-6-1946
[14], sau khi được gặp lại Nguyễn Ái Quốc đang thăm chính thức nước Pháp thời gian đó. Bài viết có đoạn: “Tôi đã đọc tập bản thảo.Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm kiểu Aristophane…Thật không ngờ rằng 25 năm sau, người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint,
tác giả “Con rồng tre”, lại trở nên một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”.
Đỉnh cao của sự xuyên tạc được gói lại trong phần kết luận của bài viết cuối cùng, trong đó Thụy Khuê đưa ra danh sách những bài báo ký bút danh Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1922, tất cả đều được gán cho Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và nhiều nhất là cho Nguyễn Thế Truyền, không có bài nào là của Nguyễn Ái Quốc! Làm một cuộc phủ định sạch trơn như vậy, tác giả muốn nhằm mục đích gì? Thụy Khuê đã vu cáo một cách thâm độc: “Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của mình” vì “chính những bài báo đó đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh”, “đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh”! “Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận”!(sic).
Tuy nhiên, như bạn đọc đã thấy, âm mưu “lật đổ thần tượng” của Thụy Khuê đã thất bại thảm hại. Ở thời đại thông tin phát triển rộng rãi như hiện nay, mọi nguồn lưu trữ đã được bạch hóa, đến những tài liệu được coi là tối mật của Mỹ cũng đã được Wikileaks tung lên mạng, trình độ nhận thức của đa số người đọc ngày nay cũng đã khác xưa; thủ đoạn vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, tung hỏa mù,…của thời chiến tranh lạnh mà Thụy Khuê quen dùng đã trở nên cũ kỹ, rất gây phản cảm cho người đọc. Viết văn, viết báo-dù là tiểu trí thức-thường bao giờ cũng phải lấy sự thật làm đầu, theo đuổi chân lý, chính nghĩa; nếu cứ ngụy tạo một cách trơ trẽn, để lộ một nhân cách tầm thường, thì chẳng đánh lừa được ai.
5. Thay lời kết luận:
Mấy bài báo ở thời kỳ đầu khi Nguyễn Ái Quốc mới bước lên vũ đài chính trị chỉ là số rất nhỏ trong hàng vạn bài báo và tác phẩm Hồ Chí Minh viết sau này, nó chẳng có vai trò như Thụy Khuê suy diễn, nếu như có sự lầm lẫn một đôi bài nào đó thì chính là lỗi ở các sử gia, các nhà sưu tầm, cả Pháp lẫn Việt, chứ không liên quan gì đến Hồ Chí Minh. Huyền thoại Hồ Chí Minh đâu có thể hình thành từ vài bài báo? Đó là sản phẩm của một đời đấu tranh vào sinh ra tử, phải vượt qua bao thử thách hiểm nguy, phải đối phó với bao kẻ thù hung bạo, trong một bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, để lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập, tự do; đó cũng là sản phẩm của cuộc đời một chính khách trong sạch và liêm khiết có một không hai như Hồ Chí Minh . Đóng góp vào sự hình thành huyền thoại đó còn phải nói đến vai trò của các bạn bè Pháp, kể cả mật thám Pháp, như P. Arnoux,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một hệ thống quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi tới xây dựng thành công một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ , giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng đó là kết quả của quá trình học tập, thâu hóa tinh hoa tư tưởng nhân loại, của các vĩ nhân như Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,…để từ đó thăng hoa lên thành tư tưởng Hồ Chí Minh . Trả lời câu hỏi của một phóng viên: ông là ai, theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Hồ Chí Minh từng trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày trước - một người yêu nước”. “Tôi hiến dâng cả đời tôi cho Tổ quốc tôi”. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã kết tụ đầy đủ lý tưởng, bản chất, mục tiêu chiến đấu, phẩm chất đạo đức của cuộc đời Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không “vơ vào” cho mình một chút gì cả! Sinh thời, Người thẳng thắn từ chối mọi danh hiệu mà người đời khen tặng. Có một nhà văn nước ngoài gọi Người là nhà thơ, Người khoát tay: nhà thơ gì tôi, chẳng qua là trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi. Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất. Cũng cần nhắc lại: Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo Việt Nam duy nhất không có huân chương, người không tán thành dựng tượng đồng, bia đá, bảo tàng,… cho mình khi nhân dân còn thiếu bệnh viện, trường học.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống đau khổ hơn ba mươi năm, như một kẻ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng (Un excommunié). Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm nước Pháp, vào đúng lúc sự biến Đông Âu đang xảy ra. Phóng viên báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne” (cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng nhân cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
-GS NMT: Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hy vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực hiện nó.
-PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
-GS NMT: Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Xêauxetxcu với Hồ Chí Minh ? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo kaki đã sờn và một đôi dép lốp cao su đã vẹt gót.
-PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
-GS NMT: Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc[15].
Tôi muốn dẫn một người nữa, GS Hoàng Xuân Hãn, một học giả đáng kính, được coi như là lương tâm của trí thức Việt kiều ở hải ngoại. Một phóng viên của
Diễn đàn (Paris), trong một lần trao đổi với GS về sự đánh giá của ông đối với công lao của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được nghe ông tâm sự: “
Bây giờ lòng người còn phân tán, hận thù còn quá nhiều, nên sự đánh giá còn lệch lạc. Nhưng với con mắt của người nghiên cứu lịch sử dân tộc, bác tin rằng vài chục năm nữa, có lẽ sớm hơn, người ta sẽ nhìn nhận công lao của cụ Hồ”. Rồi ông nói cụ thể hơn: “
Cũng những anh thanh niên ấy mà bác đã quan sát, vì đã dạy học họ trong mấy năm, nhưng không tập hợp nhau được, hay tập hợp được cũng chẳng làm nên việc gì, thế mà hôm trước hôm sau, họ thay đổi hẳn”. Theo lời phóng viên được đối thoại thì ý này của GS Hoàng Xuân Hãn trùng hợp với nhận xét của viên tướng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương thời đó, trên đường từ Hà Nội vào Sài Gòn ngay sau ngày 19-8-1945, ông ta cũng nhận thấy “
những đôi mắt, những ánh mắt” trên khuôn mặt người Việt Nam chỉ “
hôm trước, hôm sau” đã
“hoàn toàn khác hẳn” (do GS Vĩnh Sính thuật lại). Sau khi ôn lại những cố gắng liên tiếp của các thế hệ cha ông từ cuối thế kỷ XIX, tìm đường giải phóng đất nước mà không thành, GS Hãn kết luận: “
Vì chưa bao giờ trong lịch sử của mình, dân ta phải đương đầu với một quốc gia xâm lược mà thế lực, trình độ phát triển, hơn hẳn ta đến như vậy”[16]. Vậy mà cụ Hồ đã thành công. Có lẽ, đó cũng là nhận thức chung của những trí thức Việt kiều có lương tri ở hải ngoại hiện nay.
Hàng chục năm nay, đã có không ít kẻ xấu xa bị thất bại ê chề trong âm mưu “lật đổ thần tượng”. Họ phải biết rằng Hồ Chí Minh, cũng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…là những thần tượng muôn đời của dân tộc, một vài đứa con lạc bầy, dù có hò hét điên cuồng đến đâu, cũng không thể nào đánh đổ được. Mong rằng Thụy Khuê sẽ không ăn phải đũa của những kẻ “bội tín”, sẽ tiếp bước lớp trí thức tinh hoa ở hải ngoại, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đoàn kết, hòa hợp dân tộc và phát triển đất nước./.
[1] Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 (tr.128) và Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), tr.47.
[2] D. Hemery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Descouvertes Gallimard, Paris, 1990. p. 42.
[3] Michèle Zecchini: Le Calligraphe (Người viết chữ đẹp). Tạp chí Planète-Action, số 3-1970, p. 24-28.
[4] Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé, Genese d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911. Approches-Asie, No 11-1992. Xem phần Documents Annexes, No 15, Déclarations de Nguyen Tat Dat, 19 mars 1920. p. 144.
[5] Xem D. Hémery: Sđd, phần Documents, các số 6, 7, 9 tr. 131, 132, 134.
[6] Dẫn lại theo Thu Trang-Gaspard: Ho Chi Minh à Paris, p. 69.
[7] Dẫn theo Alain Ruscio : “Le délégué de l’Indochine”(Nguyen Ai Quoc), Intervention au Congrès de Tours, 27 décembre 1920, trong cuốn Le Journal L’HUMANITÉ et l’Indochine coloniale 1904-1954 + quelque textes d’Histoire. Về bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc “Discours au Congrès de Tours”, (extrait du procès-verbal sténographié), xin xem “Hồ Chí Minh - écrits”, Édition en langues étrangères, Hanoi-1976, p.11-13.
[8] D.Hémery: Ho Chi Minh, De l’Indochine au Viet Nam, sđd, tr. 33.
[9] Trong Hồi ký “41 năm làm báo”, Hồ Hữu Tường có kể: Lúc đầu, các cụ chọn bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (có nghĩa là Nguyễn ghét Pháp); bút danh này bị các bạn Pháp phản đối,coi là sô vanh, cực đoan nên mới đổi ra là Nguyễn Ái Quấc. Giai thoại này cần được thẩm tra lại, vì đến nay vẫn chưa tìm được bài báo nào ký bút danh Nguyễn Ố Pháp trên các báo ở Paris trước năm 1919; theo thống kê của A. Ruscio trong “La question coloniale dans L’Humanité (1904-2004)”- La Dispute, Paris, 2005, cũng không thấy có. Bút danh này chỉ thấy xuất hiện trên Le Paria các số 31 (11,12-1924), số 32 (2-3-1925 và số 33 (4-1925). Số kép 36+37 (10,11-1925), có đưa tin Nguyễn Ố Pháp dự Đại hội lần thứ ba Quốc tế những người lao động trong ngành giáo dục, họp ở Paris sau chuyển sang Bruxellles tháng 8-1925, thời gian này Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường đã về nước, còn Nguyễn Ái Quốc đã rời Paris từ 6-1923 và lúc đó đang ở Quảng Châu.
[10] Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Nxb CTQG, H-2002, tr. 94-95.
[11] Đặng Hữu Thụ: Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng NguyễnThế Truyền, Paris,1993, chương I, phần gia thế.
[12] GS Nguyễn Phan Quang-Phan Văn Hoàng: Luật sư Phan Văn Trường, nxb TP Hồ Chí Minh ,1995, tr.78 và 169.
[13] Dẫn lai theo Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, sđd, tr.128.
[14] Léo Poldès: “Le Mystère de Ho Chi Minh”, Ici Paris Hebdo, No 53, 11,12-6-1946.
[15] Dẫn lại theo Bee.net.vn ngày 4-12-2010.
[16] Nguyễn Ngọc Giao: “ Hoàng Xuân Hãn: con người và chính trị”, bài đăng Diễn Đàn số 53-54, ngày 6-7-1996.