Nhìn ra thế giới
Điều chỉnh chến lược đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Tóm tắt: Bài viết này phân tích những điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII (2012) đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thông qua các chiến lược “Ngoại giao nước lớn”, “Ngoại giao láng giềng”, và “Vành đai, con đường”. Từ đó, bài viết đã luận giải những hàm ý chính sách cho Việt Nam trong thời gian tới.
1. Điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương từ sau Đại hội Đảng XVIII (2012)
Khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương có vị trí chiến lược, tiềm năng kinh tế vô cùng quan trọng. Vì vậy tại khu vực này đang diễn ra sự cạnh tranh vô cùng mạnh mẽ của 6 cường quốc gồm: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản, Ấn Độ, Nga, Australia. Trong đó, nổi bật nhất là sự tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc trên các lĩnh vực địa chiến lược, kinh tế, an ninh quân sự,... Riêng đối với Trung Quốc, kể từ sau Đại hội Đảng XVIII (2012), Trung Quốc đã thực hiện điều chỉnh chiến lược từ "Giấu mình chờ thời cơ", "trỗi dậy hòa bình" sang "hành xử nước lớn" thực hiện mục tiêu "giấc mộng Trung Hoa", xây dựng trật tự thế giới mới, muốn cùng Mỹ trong G2 lãnh đạo khu vực, tiến dần tới thay thế Mỹ lãnh đạo, thế giới vào năm 2050. Sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực này ngày càng nổi rõ, đặc biệt thể hiện qua chiến lược "vành đai, con đường", cùng với "chính sách ngoại giao nước lớn" và "ngoại giao láng giềng"...
1.1 Chiến lược “ngoại giao nước lớn”
Sự thay đổi của Trung Quốc trong chiến lược đối ngoại, thực ra được khởi đầu từ Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ XIV (năm 1992), khi Trung Quốc đưa ra khái niệm chiến lược ngoại giao nước lớn. Nhưng phải đến Đại hội XV (năm 1997) Trung Quốc mới công khai tuyên bố "Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm trong xã hội quốc tế", thì chiến lược ngoại giao nước lớn mới chính thức trở thành phương châm chiến lược chỉ đạo đối ngoại[1]. Từ năm 2010, Trung Quốc có GDP đứng thứ 2 thế giới (sau Mỹ), với thực lực lớn mạnh không ngừng về chính trị, kinh tế, quân sự quốc phòng an ninh, đến Đại hội XVIII (2012), Trung Quốc mới thực sự đưa ra các nội dung đầy đủ về chiến lược “ngoại giao nước lớn”. Chiến lược “ngoại giao nước lớn” của Trung Quốc tập trung vào các vấn đề sau: i) xây dựng khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với nước lớn, từng bước mở rộng dư địa chiến lược của Trung Quốc. Trong đó, Trung Quốc đặt quan hệ Trung - Mỹ lên vị trí hàng đầu, đồng thời tăng cường quan hệ với các nước lớn khác như Nga, EU, Nhật Bản, Ấn Độ để tạo thế đối trọng và kiềm chế vai trò, ảnh hưởng của Mỹ. Việc triển khai chính sách đối ngoại với các nước lớn được tiến hành đồng bộ theo ba hướng : (1) ưu tiên số 1 là ổn định quan hệ với Mỹ, tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ, dùng quan hệ kinh tế và hợp tác trong vấn đề an ninh chiến lược để ổn định quan hệ chính trị Trung - Mỹ; (2) củng cố quan hệ với các nước lớn khác, các tổ chức hợp tác khu vực và liên khu vực; tạo sự đan xen về lợi ích, qua đó nâng cao vai trò của Trung Quốc; (3) từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn khác ở khu vực, trước hết là ở Châu Á. ii) Thúc đẩy xu thế đa cực, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vừa tăng cường tập hợp lực lượng để Trung Quốc trở thành một cực trên thế giới, vừa chia rẽ phân hóa các tập hợp lực lượng kiềm chế Trung Quốc. (iii) Tích cực đấu tranh nhằm tạo ra luật chơi mới trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ kinh tế quốc tế nói riêng, phấn đấu xây dựng thể chế kinh tế quốc tế mới có lợi cho Trung Quốc; nhanh chóng đưa vốn ra bên ngoài để nắm thị trường thế giới, trước hết là thị trường năng lượng, tài chính, chứng khoán. (iv) xây dựng hình ảnh nước lớn có trách nhiệm, tích cực tham gia vào giải quyết các vấn đề toàn cầu và các vấn dề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, chống khủng bố, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, giảm đói nghèo, giải quyết cac điểm nóng khu vực, nhất là vấn đề hạt nhân Triều Tiên, Iran... (v) chú trọng phát huy sức mạnh mềm, đưa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa ra bên ngoài. (vi) Đẩy mạnh tập hợp lực lượng và mở rộng ảnh hưởng ở Trung Á, Đông Nam Á, Châu Phi, Mỹ la tinh.
Với từng nước lớn, Trung Quốc có những đánh giá và áp dụng những sách lược, biện pháp cụ thể khác nhau, mục tiêu làm giảm sức mạnh, kiềm chế các nước lớn, để Trung Quốc không ngừng lớn mạnh, phát triển trở thành lãnh đạo khu vực vào năm 2025 và lãnh đạo thế giới vào năm 2050.
1.2 Chiến lược "ngoại giao láng giềng"
Chiến lược "ngoại giao láng giềng"được xếp ở vị trí thứ 2, sau phần quan hệ với các nước phát triển, nhưng nội dung của nó rất phong phú, có xu hướng vận động nổi bật hơn, thể hiện ở các điểm sau:
(i) Mở rộng thêm nội hàm " phú lân" (láng giềng giàu có): trên cơ sở chính sách tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định phục vụ mục tiêu hiện đại hóa của Trung Quốc (an lân, mục lân) (láng giềng an ninh hòa bình) của giai đoạn trước. Đại hội XVII (2007) Trung Quốc phát triển thêm nội hàm "phú lân" với phương châm" hợp tác cùng thằng", "cùng phát triển, cùng phổn vinh". Điểm đáng chú ý là Trung Quốc muốn mở rộng thêm nội dung "hợp tác cùng thắng" không chỉ trong vấn đề kinh tế, mà cả trong các vấn đề nhạy cảm như biên giới lãnh thổ.
(ii) Mở rộng các lĩnh vực hợp tác theo hướng toàn diện và cân bằng hơn. Từ chỗ chỉ chú trọng quan hệ chính trị, chuyển sang coi thúc đẩy toàn diện cả quan hệ chính trị, kinh tế-thương mại, quân sự, an ninh và văn hóa, cả song phương và đa phương.
(iii) Thay đổi phương thức thực hiện từ "giấu mình chờ thời" sang tranh thủ chủ động giành và mở rộng ảnh hưởng; gắn chiến lược "ngoại giao láng giếng" với ngoại giao nước lớn", "ngoại giao năng lượng", "chiến lược biển"(Chủ trương gác tranh chấp, cùng khai thác); thể hiện nhất quán qua việc tranh giành tài nguyên, năng lượng ở các khu vực Trung Á, Nam Á, Đông Nam Á, trên biển
Trong triển khai chiến lược “ngoại giao láng giềng” xuất hiện trọng tâm, trong điểm khá rõ ràng:
a)Về trọng điểm, với khu vực Đông Bắc Á, Trung Quốc đặt mục tiêu xây dựng khu vực ổn định về chính trị - an ninh, tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại với các nước trong khu vực, tìm cách phá thế kiềm chế của liên minh Mỹ - Nhật - Hàn, thiết lập các cơ chế đối thoại hợp tác Trung - Nhật- Hàn về chính trị, kinh tế và loại bỏ các nguy cơ đối với an ninh ở khu vực Đông Bắc Á, chủ động phát huy vai trò chủ đọong trong tất cả các vấn đề ở khu vực, kể cả trong quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên.
Với khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc ra sức tranh thủ các nước ASEAN. Với phương châm "cầu đồng, tồn dị" (tìm kiếm điểm tương đồng, gác lại các điểm bất đồng) "lấy kinh tế thúc đẩy chính trị",thông qua nhiều biện pháp tổng hợp về chính trị, kinh tế,đầu tư, viện trợ, Trung Quốc đẩy mạnh việc nâng cấp quan hệ với các nước, tranh thủ mở rộng ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực, kể cả với các nước vốn là đồng minh của Mỹ (Philippin, Thái Lan, Singapore), đồng thời tăng cường ảnh hưởng về chính trị, kinh tế với các nước khác như Indonesia, Lào, Campuchia, Mianma, Đông Timo..
Về đa phương, Trung quốc tiếp tục ủng hộ các sáng kiến của ASEAN trong các lĩnh vực chính trị,an ninh, kinh tế, chủ động tham dự các cơ chế đối thoại về chính trị, kinh tế và an ninh trong khu vực, kể cả hợp tác quốc phòng để đối phó với nguy cơ về an ninh truyền thống và phi truyền thống; đề cao vai trò của ASEAN trong các cơ chế đối thoại, ASEAN +1, ASEAN +3, đối thoại châu Á và các cơ chế không có Mỹ tham gia.
Với các nước Trung Á,Trung Quốc hợp tác chia sẻ ảnh hưởng với Nga, cùng Nga thúc đẩy sự hợp tác trong SCO, tạo sự gắn kết về chính trị, an ninh, kinh tế, lôi kéo thêm các nước khác ở khu vực nhằm tạo thế đối trọng với Mỹ và các nước phương tây, đồng thời tập trung triển khai chiến lược "ngoại giao năng lượng" và đảm bảo an ninh ổn định cho khu vực biên giới phía Tây, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của cuộc "Cách mạng màu" ở Trung Á đối với vấn đề ly khai, sắc tộc của Trung Quốc.
Với khu vực Nam Á,Trung Quốc điều chỉnh chiến lược theo hướng giữ cân bằng quan hệ, một mặt tăng cường hợp tác hữu nghị với Ấn Độ. Nếu xảy ra tranh chấp biên giới, Trung Quốc cũng cố gắng tìm kiếm giải pháp đàm phán hòa bình, tránh biến Ấn Độ trở thành kẻ thù, gây thiệt hại cho Trung Quốc trong quan hệ quốc tế. Trung Quốc cũng tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác truyền thống với Pakistan và các nước trong khu vực
b) Về trọng tâm chiến lược,Trung Quốc ưu tiên ba trọng tâm chủ yếu là kinh tế, an ninh và tăng cường sức mạnh mềm.
(i) Kinh tế, Trung Quốc chú trọng tăng cường quan hệ kinh tế,thương mại, đầu tư; đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực năng lượng, khai khoáng, viễn thông, xây dựng cơ sở hạ tầng; đẩy mạnh hợp tác đảm bảo an ninh năng lượng, khoa học - kỹ thuật, công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái với các nước láng giềng có trình độ phát triển cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore ...) và tăng cường liên kết kinh tế khu vực.
(ii) Về an ninh, tại khu vực Đông Bắc Á, sau thất bại của đàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên, Trung Quốc tích cực thúc đẩy các bên liên quan tiến tới thành lập cơ chế an ninh chung khu vực, tiếp tục ủng hộ Triều Tiên duy trì sức mạnh quân sự làm vùng đệm an ninh cho Trung Quốc. Trong bối cảnh hợp tác giữa Triều Tiên với Mỹ và Hàn Quốc về loại trừ vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc tích cực ủng hộ các cuộc đảm phán đó, làm trung gian để giúp đỡ Triều Tiên trong đàm phán với Mỹ, vì lợi ích chung, và lợi ích của Trung Quốc.
Với Nga và các nước Trung Á,Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ quân sự với Nga, nhất là trong lĩnh vực buôn bán và chuyển giao công nghệ sản xuất vũ khí, thiết lập đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, tăng cường tập trận chung song phương và đa phương thông qua SCO.
Với Đông Nam Á,Trung Quốc tham dự đầy đủ các cơ chế an ninh khu vực như ARF, diễn đàn Shangrila, đề xuất các ý tưởng tăng cường quan hệ quân sự song phương, đa phương, trong đó có cả tập trận chung với một số nước ASEAN[2]. Tuy vậy, với việc Trung Quốc đưa ra đường lưỡi bò 9 đoạn ở Biển Đông, Trung Quốc đã bồi đắp và xây dựng 7 đảo nhân tạo chiếm đoạt của Việt Nam ở Trường Sa để biến thành căn cứ quân sự nhằm kiểm soát, chi phối các tuyến đường thông thủy trên Biển Đông, tất cả những điều đó đã xâm phạm trắng trợn chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đe dọa an ninh hòa bình của Việt Nam và các nước trong khu vực. Những ngày gần đây, Mỹ đã tuyên bố sẽ đưa tàu đi lại trong khu vực Trung Quốc chiếm kể cả ở Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đã khiến Trung Quốc đứng ngồi không yên, tìm mọi cách chống lại Mỹ. Những hành động của Trung Quốc đã gây tổn hại đến hòa bình hợp tác trong khu vực.
1.3. Chiến lược “vành đai, con đường”
Để tạo sự đột phát chiến lược phát triển quốc gia, đặt trong bối cảnh Mỹ sẽ tham gia thực thi hiệp định TPP (trước kia) và xây dựng chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (hiện nay), Trung Quốc đã đề xuất sáng kiến chiến lược “vành đai, con đường” (BRI) (vành đai kinh tế, con đường tơ lụa trên bộ và con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI). Sáng kiến này đã trở thành hiện thực, là chiến lược “vành đai, con đường” nhằm kết nối các lục địa Á - Âu- Phi, cả trên bộ và trên biển, do Trung Quốc khởi xướng xây dựng và lãnh đạo, chi phối toàn diện. Mục tiêu của chiến lược “vành đai, con đường” này là, i, Mở rộng không gian chiến lược và tạo dựng một khu vực sân sau của Trung Quốc để kiểm soát lục địa Á - Âu - Phi; ii) tạo đối trọng với chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ ở Châu Á - Thái Bình Dương; iii) Chi phối khu vực Ấn Độ Dương và khu vực nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương; iv) kiểm soát đường vận tải biển liên quan và hệ thống cảng biển khu vực, chi phối các nguồn cung cấp dầu khí, tạo lập các căn cứ quân sự tại những khu vực mà những con đường này đi qua; v) tạo môi trường kinh tế - xã hội cho việc “mở rộng sức mạnh mềm” của Trung Quốc; vi) Xây dựng vành đai an ninh xung quanh Trung Quốc để ngăn chặn Mỹ và đồng minh tiếp cận thâm nhập vào khu vực mà Bắc Kinh coi là “sân sau” của mình; vii) dựa vào hợp tác kinh tế để thúc đẩy quan hệ chính trị, tạo chất xúc tác để giải quyết các tồn tại trong quan hệ của Trung Quốc với các nước khu vực, ngăn chặn sự “co cụm” của các quốc gia trong khu vực có tranh chấp với Trung Quốc, kể cả vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo; viii) thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực; ix) tăng cường vai trò bàn đạp của kinh tế khu vực xung quanh Trung Quốc; x) hậu thuẫn cho Trung Quốc đi ra thế giới; xi) thông qua “5 thông” (thông chính sách, thông tuyến (trên bộ, trên biển), thông thương, thông tiền tệ, và thông lòng người) để tiếp cận, thâm nhập, kiểm soát kinh tế khu vực “láng giềng mở rộng” nhằm tiến tới nắm quyền chủ đạo mậu dịch quốc tế, quyền đánh giá và quyền phân phối tài nguyên quốc tế; xii) giải quyết vấn đề dư thừa năng lực sản xuất, tìm kiếm thị trường cho hàng hóa ứ đọng; xiii) tìm thị trường đầu tư, sử dụng hiệu quả dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc, tìm thị trường cho đồng nhân dân tệ, đẩy mạnh tiến trình quốc tế hóa đồng nhân dân tệ; xiv) tiếp cận các nguồn tài nguyên, năng lượng, nhất là dầu khí; xv) tận dụng môi trường xung quanh để tạo điều kiện phát triển đồng đều hơn giữa các vùng, miền trong nước, đặc biệt là khu vực biên cương, miền tây Trung Quốc[3].
Ngoài ra, Trung Quốc còn đưa ra những sáng kiến về lĩnh vực như: i) Thành lập hiệp định đối tác toàn diện RCEP (gồm 10 nước ASEAN cùng 6 nước là Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia, Newzealand; ii) khu vực mậu dịch tự do Châu Á- Thái Bình Dương (FTAP) gồm 21 nước thành viên APEC; iii) Thành lập ngân hàng Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) và quốc tế hóa đồng nhân dân tệ.
1.4. Những điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Trung Quốc tại Đại hội XIX (10/2017).
Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc XIX chỉ rõ những định hướng lớn trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc là: (i) thúc đẩy xây dựng quan hệ quốc tế kiểu mới (Bao gồm quan hệ nước lớn kiểu mới, quan hệ xung quanh kiểu mới, quan hệ chính đảng kiểu mới, quan hệ quân sự kiểu mới...), mở rộng điểm giao nhau về lợi ích, thúc đẩy hợp tác và hài hòa giữa các nước lớn. Cùng với các nước bắt tay xây dựng thể cộng đồng vận mệnh nhân loại. Cụ thể, Trung Quốc với tư cách là nước lớn sẽ tích cực tham gia vào xây dựng, cải cách hệ thống quản trị toàn cầu, tham gia giải quyết chính trị các điểm nóng ở khu vực và thế giới, cùng các bên bắt tay ứng phó với những thách thức toàn cầu, nâng cao ảnh hưởng và địa vị quốc tế của mình trong giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới, xây dựng “cộng đồng vận mệnh nhân loại” (bao gồm cộng đồng vận mệnh Trung Quốc - ASEAN, cộng đồng vận mệnh Lan Thương - Mê Kông...), “cộng đồng vận mệnh châu Á” (Năm 2014, Trung Quốc đưa ra quan điểm “an ninh châu Á mới” nhằm tìm kiếm vai trò chủ đạo của Trung Quốc trong hệ thống an ninh khu vực. Đây là nội dung của sự điều chỉnh tư duy an ninh chiến lược của lãnh đạo Trung Quốc, theo đó, Trung Quốc chủ trương” công việc của châu Á sẽ do nhân dân châu Á tự giải quyết” khác với những lần tuyên bố trước đây rằng Thái Bình Dương đủ rộng để dung nạp cả Trung Quốc và Mỹ)....
(ii) Đẩy mạnh “ngoại giao láng giềng”, thân thiện láng giềng, coi láng giềng là bạn, với quan niệm “Thân, thành, huệ, dung” (Thân thiện, chân thành, ưu đãi nhau, dung hòa , thôn tính). Cụ thể, Trung Quốc giành quyền chủ động với các nước xung quanh và các nước đang phát triển, dùng sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, sử dụng chính sách phân biệt đối xử để lôi kéo, trấn áp, uy hiếp các nước láng giềng. Với chiêu bài thực hiện việc “bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia “ Trung Quốc đã thể hiện thái độ cứng rắn với các nước mà họ cho là đã làm tổn hại đến chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Văn kiện tại Đại hội XIX đã khẳng định về những thành tích 5 năm “lấp biển xây dựng đảo tích cực” để “nhanh chóng xây dựng cường quốc biển”, với mục tiêu kiểm soát thực tế ở biển Đông.
2. Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Trước những điểu chỉnh trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc hiện nay, Việt Nam hơn bao giờ hết cần nhận thức sâu sắc cả phần đối tác và đối tượng của Trung Quốc, trên cơ sở đó đưa ra những hoạt động chính sách phù hợp, đúng đắn. Cụ thể là:
- Dưới góc độ đối tác, Việt Nam cần nhận rõ các mặt sau: i) Về an ninh, Trung Quốc là đối tác quan trọng để giữ gìn an ninh trên biển, trên biên giới, đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống. Kể cả vấn đề tranh chấp lãnh thổ, biển đảo, Việt Nam cũng cần nhận thức rõ mặt “đối tác” của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc không có lợi ích, không có quyết sách chính trị và cả thiện chí hợp tác thì ta không thể đạt được Hiệp định hòa bình về biên giới với Trung Quốc; ii) Về kinh tế, Trung Quốc trỗi dậy về kinh tế, cũng là một cơ hội khá lớn cho phát triển thương mại và đầu tư hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc. Khi quan hệ kinh tế phát triển, sẽ gia tăng đan xen lợi ích và củng cố lòng tin lẫn nhau. Với vị trí là một nước láng giềng, cửa ngõ quan trọng, các nước, các tập đoàn lớn của thế giới sẽ quan tâm đầu tư vào Việt Nam để hướng sản phẩm vào Trung Quốc; iii) Về vị thế quốc tế, Trung Quốc càng lớn mạnh thì nguồn “tài nguyên địa - chính trị” của Việt Nam có khả năng tăng nhanh. Các nước muốn hợp tác hay cạnh tranh với Trung Quốc sẽ chú ý nhiều hơn đến nhân tố Việt Nam. Trong khi Việt Nam và Trung Quốc cũng đang phải xử lý một số thách thức liên quan đến “ diễn biến hòa bình”, vấn đề dân chủ, nhân quyền do Mỹ và phương tây áp đặt thì việc phối hợp giữa hai nước này trên các diễn đàn quốc tế là điều cần thiết.
- Dưới góc độ đối tượng, Trung Quốc là đối tượng trực tiếp nhất, phức tạp nhất trên cả ba góc độ: an ninh, kinh tế, vị thế quóc tế. i) Về an ninh: Trung Quốc là thách thức lớn nhất đối với an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Yêu sách đường lưỡi bò được Trung Quốc chính thức đưa ra từ năm 2009 về các hoạt động trên biển, cũng như ban hành hàng loạt các văn bản pháp lý khẳng định chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển Đông, đe dọa trực tiếp không gian sinh tồn của Việt Nam. Không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ gây ra xung đột vũ trang lớn ở Biển Đông nhằm chiếm đóng mới, quấy rối các vị trí Việt Nam đang sở hữu. Trung Quốc đã đặt giàn khoan ở khu vực Tư Chính, Hoàng Sa, gây sức ép với công ty nước ngoài làm ăn trên thềm lục địa của Việt Nam, bắt giữ ngư dân, đẩy Việt Nam vào tình trạng luôn “bất ổn” về an ninh; ii) Về kinh tế: Trung Quốc có thể là một thách thức lớn đối với nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam. Do cơ cấu ngành nghề tương đối giống nhau và khả năng cạnh tranh của Việt Nam còn thấp, nên hàng hóa của Trung Quốc có thể bóp chết nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam. Việt Nam có thể trở thành “thuộc địa”, thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và cung cấp nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Hơn nữa, Trung Quốc có thể sử dụng quan hệ kinh tế (xuất nhập khẩu, đầu tư) để tạo sức ép kinh tế, chính trị và ngược lại; iii) Về vị thế: Trung Quốc không muốn Việt Nam có vai trò lớn ở Lào, Campuchia. Trung Quốc cũng không muốn Việt Nam có vị trí lãnh đạo trong ASEAN (do quan ngại Việt Nam tác động để ASEAN độc lập hơn đối với Trung Quốc và nhất là tập hợp ASEAN thành một khối chống lại yêu sách của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông và Sông Mê Kông). Chính vì Trung Quốc vừa là nước láng giềng, vừa là nước lớn, vừa là đối tác, vừa là đối tượng lớn nhất, phức tạp nhất của Việt Nam, nên chiến lược đối ngoại của Việt nam từ nay đến năm 2025 cần coi việc xử lý quan hệ với Trung Quốc là hướng chính và cần có sự quan tâm đặc biệt. Trước hết cần quán triệt phương châm: khai thác tối đa khía cạnh đối tác để đẩy lùi và hóa giải mặt đối tượng. Theo đó, mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc là tiếp tục hợp tác trên tinh thần bình đằng, cùng có lợi, hóa giải những mâu thuẫn để duy trì môi trường hòa bình và củng cố tình hữu nghị quan hệ láng giềng.
- Về hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, Việt Nam tích cực mở rộng hợp tác trong lĩnh vực an ninh truyền thống và phi truyền thống, tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa các cơ quan an ninh, quốc phòng, sử dụng có hiệu quả đường dây nóng đã được thiết lập giữa hai bên. Tuy nhiên, đây là vấn đề đặc biệt nhạy cảm, nên cần có bước đi thích hợp để mang lại tính hiệu quả, tránh hình thức. Tiếp tục triển khai thực hiện tốt các Hiệp định đã ký về biên giới và thúc đẩy đàm phán phân định vùng Biển Vịnh Bắc Bộ và vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Tăng cường các biện pháp bảo vệ các công ty dầu khí nước ngoài đang hợp tác với Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí trong thềm lục địa và vùng biên của Việt Nam. Kiên quyết giữ vững lập trường và đấu tranh với Trung Quốc trong việc bảo vệ chủ quyền, biển đảo, nhất là về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tránh mắc mưu của Trung Quốc trong việc họ đưa ra lập luận “chống quốc tế hóa Biển Đông” (Muốn gạt Mỹ ra khỏi vấn đề giải quyết Biển Đông), “COC sẽ giải quyết trong vòng 3 năm tới” (đợi đến khi CPC làm chủ tịch luân phiên ASEAN để thông qua COC), “chống lại phán quyết tòa án quốc tế về giải quyết vụ kiện của Phillipin về biển Đông”...[4]
*PGS.TS. Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế, Trường Đại học Đại Nam
[1]Lê Văn Mỹ "Những điều chỉnh chiến lược ngoại giao của Trung Quốc từ cải cách mở cửa đến nay (1978 - 2018)", Tạp chí nghiên cứu Trung Quóc, số 12 (208), 2018 (4) trang 28.
[2] Phạm Sao Mai “Trung Quốc và chiến lược đối ngoại đến 2020”; trong cuốn sách“Cục diện thế giới đến 2020” do Phạm Bình Minh chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012, trang 437-445
[3] http://css.hcmussh.edu.vn/?ArticleId-16d8fc56-4445-46b7-8b1d-đab9ca7 và Hoàng Văn Đồng “Chiến lược của các nước lớn đối với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương hiện nay…” và Bùi Quảng Bạ “Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tác động đến độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia ngày 11/1/2019 tại Bộ Công An, trang 83-98 và trang 99-110.
[4]Nguyễn Thị Quế “Chủ trương và đối sách của Việt Nam trước tác động cạnh tranh Mỹ - Trung ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia ngày 11/1/2019 tại Bộ Công An, trang 281-292.
tin tức liên quan
Videos
Người Amish ở Mỹ
Quê hương Nghệ Tĩnh trong lòng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Hình như kiến gió cũng có linh hồn
Đền Hồng Sơn
Khu di tích Kim Liên hành trình đến với trẻ em miền núi
Thống kê truy cập
114511023
222
2359
21397
217896
121356
114511023