Những góc nhìn Văn hoá

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đặt vòng hoa viếng các Liệt sỹ tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội ngày 2/9/1955. Ảnh TL

“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Đây cũng là một trong những nguồn gốc hình thành tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nói chung, đồng thời là tình cảm, tư tưởng thể hiện tính nhân văn cao cả của Người trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công nói riêng.

75 năm qua, quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phù hợp nhằm bảo đảm ưu đãi cho các đối tượng chính sách là thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Thông qua việc thực hiện các chính sách làm tỏ rõ sự tôn trọng, tôn vinh, ghi nhớ, đền đáp công ơn về những mất mát, hy sinh của những người đã đóng góp công sức, của cải và mồ hôi, xương máu cho cách mạng. Những kết quả đạt được từ thực tiễn đã khẳng định giá trị to lớn, tính đúng đắn, sáng tạo cũng như định hướng vận dụng tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Một truyền thống, đạo lý được hình thành và phát triển theo suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, mang đậm dấu ấn, nét đẹp văn hóa, tinh thần của con người Việt Nam. Truyền thống, đạo lý đó đã được lưu giữ và được phát huy mạnh mẽ thành phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó là sự kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa thế giới trong việc tỏ lòng biết ơn và đền đáp công lao của những người đã hy sinh tính mạng, tài sản của mình vì chính nghĩa, vì Nhân dân, vì đất nước, mà trở thành những truyền thuyết, những huyền thoại, những tượng đài bất hủ trong lịch sử nhân loại. Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn phong trào cách mạng, sự hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, hằn sâu trong đó một yếu tố không kém phần quan trọng là từ phẩm chất, nhân cách Hồ Chí Minh. Từ những phẩm chất đặc biệt của Người, như tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương, chia sẻ đau thương, niềm tôn kính sự hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ; sự mất mát của các thương binh, bệnh binh, của người có công lao đóng góp cho cách mạng. Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công biểu hiện trên một số nội dung sau:

Một là, sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ với những mất mát, hy sinh của thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng

Trên cương vị Chủ tịch nước, Người thấu hiểu, đồng cảm với những đau thương, mất mát của thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Vì vậy, nghe tin con trai Bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, Người đã viết thư động viên “Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam”[1]. Người thấu hiểu những đau thương, mất mát, hy sinh của những đối tượng chính sách. Người bày tỏ sự đồng cảm và sự chia sẻ sâu sắc trước những đau thương, mất mát đó; vì vậy, Người luôn ân cần viết thư thăm hỏi thương binh, gia đình liệt sĩ. Đồng thời, Người thường xuyên nhắc nhở đến trách nhiệm và động viên, biểu dương các địa phương, các đơn vị, cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Ngày 16 tháng 2 năm 1947, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ; chọn ngày 27 tháng 7 làm “Ngày Thương binh toàn quốc”, ngày đó là dịp để đồng bào cả nước “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh”[2], đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa, nó đã phát huy được truyền thống nhân ái của dân tộc, để tạo thành một phong trào xã hội có tính chất sâu, rộng trên phạm vi toàn quốc để chia sẻ và giúp đỡ thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Để nâng cao trách nhiệm của mọi người trong việc thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công, trong Thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc, Người đã đặt ra câu hỏi để mỗi người dân có trách nhiệm trả lời: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta”[3]. Và tận sâu trong trái tim mình, Người đã lý giải cho chúng ta thấy rằng, thương binh phải chịu mất mát, hy sinh là “Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”[4]. Người cho rằng, để giúp đỡ đối tượng chính sách thì không có điều gì to lớn, mạnh mẽ hơn đó là sự đồng tâm, hiệp lực của đồng bào, đồng chí cả nước, sự góp công, góp sức của cả dân tộc. Sức mạnh đó phải được xuất phát từ cội nguồn dân tộc đó là tinh thần biết yêu thương con người, biết chia sẻ khó khăn, biết đồng cam cộng khổ, vì nghĩa lớn mà tạo nên sức mạnh về cả vật chất, tinh thần góp phần động viên, chia sẻ những mất mát, hy sinh của đối tượng chính sách và người có công.

Hai là, tỏ rõ lòng biết ơn, đền đáp và tri ân công lao của thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng

Người luôn đánh giá cao công trạng của đối tượng chính sách. Người yêu cầu toàn Đảng, toàn dân phải thực sự tôn vinh, ra sức đền đáp xứng đáng cho những mất mát, hy sinh của thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng cả về vật chất và tinh thần. Đây là, sự kế thừa và phát triển mạnh mẽ truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc. Và từ những giá trị truyền thống, đạo lý đó Người đã chỉ ra cho toàn Đảng, toàn dân phương hướng thực hiện việc ghi nhớ, đền đáp công ơn của những người đã đóng góp, hy sinh xương máu cho cách mạng.

Tháng 6-1947, trong khi cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, trước những mất mát, hy sinh cũng như những đóng góp hết sức to lớn của cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân; dựa trên chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, ý nguyện của Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương binh” để Nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở trung ương, khối và tỉnh đã họp, thảo luận và nhất trí lấy ngày 27-7-1947 làm “Ngày Thương binh toàn quốc”; đến năm 1954, Đảng, Nhà nước ta đã đổi thành “Ngày Thương binh liệt sĩ”.

Trải qua cuộc các kháng chiến trường kỳ, chiến đấu vì lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hàng triệu đồng bào, đồng chí đã hy sinh, hàng chục vạn người đã cống hiến một phần thân thể, những mất mát ấy không có gì bù đắp được. Cảm động trước những hy sinh to lớn đó, tại Lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Người đã chỉ ra cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức sâu sắc hơn về mất mát, hy sinh của thương binh, liệt sĩ “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”[5]. Người căn dặn, đối vớinhững người con trung hiếu ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ những người con anh dũng ấy, phải học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã để lại.

Đến nay, có thể khẳng định việc tỏ rõ lòng biết ơn, đền đáp và tri ân công lao của thương binh, liệt sĩ và người có công của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bước khởi đầu cho việc thực hiện một chính sách lớn, hợp ý Đảng, lòng dân nhằm đền đáp công ơn cho các đối tượng chính sách. Vì vậy, trong quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách đúng đắn này luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân và đã nhanh chóng trở thành phong trào xã hội sâu, rộng thu hút toàn dân tích cực tham gia để giúp đỡ các đối tượng chính sách vượt qua khó khăn, tiếp tục hy sinh, cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và tương lai dân tộc.

Ba là, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng

Với hai mươi bốn năm trên cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo cho các đối tượng chính sách. Lời nói, việc làm của Người đều thấm đẫm tư tưởng nhân văn, thể hiện sâu sắc đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, làm cho toàn xã hội có nhận thức sâu sắc, đời đời ghi nhớ công ơn của các thế hệ đã đóng góp, hy sinh mồ hôi, xương máu cho cách mạng. Chủ trương của Người là mọi việc phải bắt đầu từ những suy nghĩ, việc làm nhỏ nhưng góp lại nó sẽ thành việc lớn, việc có ích mà từ cụ già đến em nhỏ đều có thể làm được. Người kêu gọi: “Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm, tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương”[6]. Đến nay, Nhân dân cả nước vẫn luôn cảm động khi nhìn lại hình ảnh vị Chủ tịch nước hàng năm cứ đến Ngày Thương binh, liệt sĩ lại gửi thư cùng một tháng lương của mình; kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh.

Người đề ra phương châm, chỉ đạo thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công rất rõ ràng, cụ thể, phù hợp với truyền thống dân tộc và hoàn cảnh đất nước:“Đồng bào sẵn sàng giúp, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm, thì anh em nhất định dần dần tự túc được”[7]. Do đó, 75 năm qua, kể từ Ngày Thương binh toàn quốc, hàng năm toàn Đảng, toàn dân lại thêm tự hào về bước phát triển của chính sách thương binh, liệt sĩ. Với sự mở đầu của Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 2 năm 1947 ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ, qua từng giai đoạn được bổ sung, sửa đổi cả về đối tượng, tiêu chuẩn và nội dung ưu đãi; đến nay chính sách thương binh, liệt sĩ đã phát triển thành các Pháp lệnh được thực hiện trong cả nước: Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

Từ trại “An dưỡng” đường số 1 và một bộ phận làm chân tay giả ra đời ở vùng tự do trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hệ thống cơ sở sự nghiệp của ngành thương binh - xã hội được mở rộng ở nhiều tỉnh phía Bắc. Phát triển qua thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đến nay cả nước có hàng trăm cơ sở sự nghiệp từ Trung ương đến địa phương, trang thiết bị được đổi mới, phục vụ tốt cho việc phục hồi chức năng, nuôi dưỡng, đào tạo, dạy nghề và tổ chức sản xuất cho thương binh, thân nhân liệt sĩ và người có công với cách mạng.

Bốn là, có cách nhìn lạc quan về thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng

Từ cách nhìn lạc quan tàn nhưng không phế, Người gặp gỡ, động viên và khuyên anh em thương binh khi đã khôi phục sức khỏe phải tham gia công tác sản xuất để trở nên người công dân kiểu mẫu, các gia đình liệt sĩ phải trở thành những gia đình cách mạng gương mẫu. Hồ Chí Minh coi thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng là nhữngngười anh hùng, vì họ đã làmrạng rỡ dântộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi, vật chất họ mất nhưng tinh thần họ sẽ luôn sống với non sông Việt Nam. Do đó, công tác thương binh, liệt sĩ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Mỗi người Việt Namphải biết ơn, thương yêu và giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng. Điều đó có tác động tích cực trở lại, làm cho đối tượng chính sách nhận rõ trách nhiệm, thái độ của mình đối với Nhân dân, đối với đất nước làm cho tinh thần của Nhân dân và bộ đội thêm vững vàng, dù phải còn chịu đựng nhiều gian khổ, hy sinh.

Đồng thời, Người căn dặn, nhắc nhở anh em thương binh phải biết ơn sự chăm sóc của đồng bào, phải hòa mình với Nhân dân, tôn trọng Nhân dân; tránh tâm lý công thần, coi thường lao động, coi thường kỷ cương, pháp luật. Chớ bi quan, chán nản, mà phải luôn cố gắng, bao giờ cũng phải là những chiến sĩ anh dũng trên các mặt trận. Đặc biệt là phải giữ gìn, có ý thức tổ chức, kỷ luật, luôn đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giữa anh em thương binh với nhau, giữa thương bệnh binh với đồng bào; giữ vững truyền thống tốt đẹp, vẻ vang của dân tộc, của quân đội.

Đồng thời, Người đã có nhiều sáng kiến để phát động các phong trào với những mục tiêu cụ thể và thiết thực để giúp đỡ các đối tượng chính sách. Năm 1948, Người gửi thư cho các cháu nhi đồng phát động phong trào công tác Trần Quốc Toản nhằm giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ. Năm 1951, Người phát động phong trào “Đón thương binh về làng” để Đảng, chính quyền, đoàn thể và Nhân dân các làng, xã giúp đỡ thương binh làm những công việc nhẹ, phù hợp để có thể tự sinh sống, hòa nhập với cộng đồng, động viên anh chị em thương binh thấy rõ, hiểu đúng, phấn đấu trở thành những người “tàn nhưng không phế”, hăng hái, lạc quan đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc v.v…

Hiện nay, việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng không chỉ thể hiện sự trân trọng, tri ân của Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn là hình thức giáo dục về ý thức trách nhiệm, lòng biết ơn của các thế hệ đối với những người, những gia đình đã có cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Khắp cả nước, Nhân dân ta đã xây dựng nên những tượng đài chiến thắng, tượng đài, nghĩa trang liệt sĩ là nhằm mục tiêu giáo dục tinh thần, ý thức xã hội để tôn vinh, biết ơn những người đã hy sinh xương máu cho đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm thực hiện tốt chính sách đối với người có công. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình cán bộ, chiến sĩ chiến đấu ngoài mặt trận, gia đình có công với cách mạng”[8]. Và các kỳ đại hội tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán với quan điểm này và thường xuyên bổ sung, hoàn thiện, nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội chăm lo đời sống cho thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Đảng ta chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến...”[9].

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đại hội tổng kết 30 năm quá trình đổi mới đất nước (1986 - 2016), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên”[10]. Tinh thần đó được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”[11].

Từ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Các chính sách đó từng bước được luật hóa thành hai pháp lệnh: Pháp lệnh phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (nay là Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng). Hai pháp lệnh về người có công, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ ra đời là cơ sở, căn cứ quan trọng để Nhà nước và Nhân dân không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong chăm lo cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, giúp cho họ từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.

Tính đến năm 2021, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng gần 1,4 triệu người; trên 500 nghìn thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng. Phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” ngày càng được xã hội hóa sâu rộng. Nhiều cơ sở sự nghiệp, chăm sóc sức khỏe được xây dựng phục vụ các đối tượng chính sách. Nhiều nghĩa trang liệt sĩ và các công trình tưởng niệm liệt sĩ đã được xây dựng, trong đó có nhiều nghĩa trang trở thành những công trình văn hóa - lịch sử của đất nước, như: Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ, Nghĩa Trang Hàng Keo (Côn Đảo)... 

Ngày nay, dưới ánh sáng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, các chính sách đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng luôn bảo đảm công khai, công bằng, phù hợp với từng đối tượng, đều khắp, không để quên, để sót một ai; Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan ban ngành đã luôn nghiêm túc, kiên quyết bài trừ, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lợi dụng chức quyền để ban phát lợi lộc cho những đối tượng gian trá, lừa đảo không xứng đáng được hưởng sự ưu đãi của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân. Trong thời gian tới, để chính sách đối với người có công được thực hiện ngày một tốt hơn, các cơ quan, ban ngành cần phải tích cực đổi mới, từng bước nâng cao chất lượng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất chính sách, trước mắt cần có các công trình, đề tài nghiên cứu và triển khai các dự án vĩ mô, để bao trùm, phủ kín về diện cho các đối tượng chính sách nhằm bảo đảm công bằng, bình đẳng và từng bước nâng cao chất lượng thụ hưởng cho thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng./.

 


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 49.

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 204.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 204.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 204.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr. 401.

[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 204.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr. 546.

[8] ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.47, tr.558.

[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.229-230.

[10] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr.136

[11] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr.43

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114511019

Hôm nay

218

Hôm qua

2359

Tuần này

21393

Tháng này

217892

Tháng qua

121356

Tất cả

114511019