Bồi dưỡng nhân tài giờ đây đã được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong ba mục tiêu chiến lược của nền giáo dục quốc dân Việt Nam. Hà tất phải bình luận về tầm quan trọng của công việc này đối với tương lai của đất nước, vận mệnh của dân tộc.
Bồi dưỡng nhân tài giờ đây đã được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong ba mục tiêu chiến lược của nền giáo dục quốc dân Việt Nam. Hà tất phải bình luận về tầm quan trọng của công việc này đối với tương lai của đất nước, vận mệnh của dân tộc.
Những nỗ lực của nhà nước, gia đình và xã hội trong những năm gần đây đương gặp nhau trên lĩnh vực này, hứa hẹn nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, đây là một công việc hết sức to lớn, phức tạp và tinh vi. Gắn liền với chiến lược phát triển đất nước, nó đòi hỏi những cố gắng hết sức bền bỉ dẻo dai, những biện pháp mạnh bạo và đồng bộ trên cơ sở xác định đúng đắn những mục tiêu trước mắt và lâu dài phù hợp với nhu cầu của xã hội, hoàn cảnh của đất nước và cục diện thế giới. Có những công việc tưởng chừng giản đơn hơn nhiều, được đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng, nhưng đến nay, sau nửa thế kỷ, chúng ta vẫn chưa hoàn thành, thí dụ, việc xoá nạn mù chữ. Cho đến nay, ở mọi miền đất nước, ngay cả ở thủ đô Hà Nội, vẫn còn không ít người mù chữ hoặc, điều đáng lo lắng hơn, mù chữ trở lại. Thế thì làm thế nào để cho quốc sách bồi dưỡng nhân tài sớm đem lại những thành quả vững chắc và ngày càng to lớn, giúp con rồng Việt Nam cất cánh, như mọi người Việt Nam yêu nước mơ ước? Dưới đây chỉ là một vài suy nghĩ nông cạn và vụn vặt, không ngoài mục đích góp thêm một tiếng nói công dân về một vấn đề quốc sự.
Trước tiên, vẫn cần xuất phát từ một sự thật hiển nhiên: người tài bao giờ cũng hiếm, nhân tài là của quý hiếm. Năng khiếu đã không thể là phổ biến, nhưng từ năng khiếu trở thành tài năng là cả một quãng đường dài khúc khuỷu, đầy trắc trở và tai biến, với những quy luật chọn lọc, đào thải khắc nghiệt. Khoa học hiện đại nói rằng cứ một ngàn người ra đời trên hành tinh này thì có một người sinh ra với những tiềm năng thiên tài, nhưng chỉ một trong mười nghìn thiên tài tiềm năng ấy sau này trở thành thiên tài thực thụ. Tôi không tin lắm vào những số liệu thống kê bình quân ấy. Sự ra đời của những thiên tài hình như tuân theo những quy luật bí ẩn nào đó, mà khoa học chưa và rất có thể cũng chẳng bao giờ khám phá ra được. Nhưng dưới góc độ của vấn đề mà chúng ta đương đề cập thì các thiên tài đều có một đặc điểm chung, nhất quán là họ chỉ cần được đào tạo, bồi dưỡng ở mức tối thiểu, họ tự mình làm nên những kỳ tích, những “phép lạ” ở cõi trần thế này. Còn tài năng thì lại khác. Tài năng nếu không được chăm sóc, vun đắp, trọng dụng thì hoặc sẽ thui chột, hoặc không phát huy được hết năng lực sáng tạo của mình, những rủi ro, những thiệt thòi cá nhân của họ hợp lại có thể làm nên những bi kịch quốc gia - bi kịch của sự lạc hậu, dốt nát, đói nghèo - cho nên tất cả các quốc gia văn minh đều thực hiện chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, những chính sách khôn khéo, tinh vi, được cân nhắc từng ly từng tý nhưng thường không tuyên bố thành lời, thành văn bản. Với nhiều hình thức, phương thức đa dạng, với những hệ thống ưu tiên khác nhau tuỳ thuộc mục tiêu chiến lược và hệ giá trị của từng quốc gia, từng dân tộc, có một nguyên tắc và một phương pháp được quán triệt trong công việc đào tạo tài năng, đó là nguyên tắc đặc tuyển (tuyển chọn vào những cơ sở đào tạo đặc biệt) và phương pháp làm việc với từng cá nhân (sản xuất những độc bản, chứ không hàng loạt). Hãy lấy một nước phát triển có quan hệ lâu đời với ta làm ví dụ.
Ở Pháp, trong hệ thống đào tạo đại học, bên cạnh mạng lưới các Viện đại học quốc gia (université) đào tạo đại trà lực lượng lao động tinh nhuệ cho các ngành khoa học, công nghệ, kinh tế v.v... có hai ba trường đặc biệt tuyển đào tạo những nhân tài đích thực (ấy là chưa kể mạng lưới các trường năng khiếu nghệ thuật chuyên ngành). Những trường ấy mang những tên cổ rất khiêm tốn, tương phản với uy tín của chúng: École normale (trường sư phạm), École polytéchnique (trường bách nghệ). Nếu để vào học các Viện đại học, sinh viên chỉ cần đăng ký (rồi nếu không đủ sức học sẽ bị đào thải trong quá trình đào tạo), thì ở các trường đặc tuyển này người ta tổ chức thi tuyển qua ba-bốn vòng (với các lớp bồi dưỡng ngắn hạn và trung hạn giữa các vòng) để cuối cùng chọn lấy 1 trong 200-300 thí sinh. Nếu sinh viên các Viện đại học không được hưởng học bổng (ai có hoàn cảnh nghèo khó thì được trợ cấp theo tuyến bảo hiểm xã hội), thì học sinh các trường đặc tuyển được cấp học bổng rất cao, kèm theo các điều kiện học tập, sinh hoạt tương xứng. Thí dụ, sinh viên trường École Normale - trung tâm đào tạo các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản và các giảng viên cho các trường đại học - được hưởng học bổng bằng 1800 USD/ tháng, tương đương với lương một viên chức cấp vụ ở các bộ. Sinh viên trường Polytéchnique đào tạo chuyên gia cho các ngành khoa học ứng dụng và công nghệ, hưởng học bổng thấp hơn - 1400USD/ tháng; chỉ riêng sự chênh lệch về học bổng giữa học sinh hai trường “quý phái” này cũng đủ nói lên định hướng và hệ giá trị mà nhà nước và xã hội Pháp theo đuổi (khác với Mỹ và Nhật chẳng hạn). Nếu sinh viên các Viện đại học, cũng như ở ta, rất nhiều khi tốt nghiệp là thất nghiệp thì các normaliens và polytechniciens khi còn ở trường đã được mời mọc cộng tác với các viện nghiên cứu, các công ty, doanh nghiệp nổi tiếng và được dành sẵn chỗ làm việc ở những nơi sang trọng ấy. Cả hai trường: Normale và Polytechnique đều được sáng lập từ cuối thế kỷ XVIII, sau thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản dân quyền và hoạt động liên tục từ ấy đến nay dưới nhiều chính thể khác nhau, hun đúc nên hàng trăm nhân tài đã trở thành danh nhân của nước Pháp. Romain Rolland, con một gia đình thợ mộc cha truyền con nối ở vùng Bourgone mà hình ảnh người cha và quê hương ông đã làm sống lại rực rỡ trong tiểu thuyết bất hủ Colas Breugnon, học qua trường Normale và sau đó được đào tạo thêm 3 năm tại Viện hàn lâm Pháp tại La Mã - một trung tâm lâu đời hợp tác văn hoá-khoa học giữa Pháp với các nước châu Âu - không những đã trở thành một nhà văn lớn, tên tuổi lẫy lừng khắp năm châu mà còn là một nhà khoa học nhân văn, một tư tưởng gia kiệt xuất - một đại trí thức tầm vóc thế giới mà với ông, các vĩ nhân thế kỷ này như Gandhy, Tagor, Einstein, Albert Schweitzer... thấy vinh dự được trao đổi thư từ. Macxim Gorki, một người Nga cùng lứa tuổi và cũng xuất thân từ nhân dân lao động như Romain Rolland, nhờ tài năng kiệt xuất của mình cũng sớm nổi tiếng toàn cầu, giao du với các danh nhân thế giới, chơi thân với Rolland; nhưng, chỉ kinh qua các “trường đại học của cuộc sống”, càng giao du với trí thức thượng lưu trong và ngoài nước, Gorki ngày càng cảm nhận sâu sắc sự thiếu hụt nền học vấn hàn lâm ở mình. Chính vì thế ông đã có những cố gắng phi thường để giữ gìn cho nước Nga nhiều trí thức lớn trong những năm cách mạng và nội chiến, chính vì thế cũng trong những năm khói lửa ấy, ông đã kiến nghị với Lênin mở ngay một trường đại học đặc biệt đào tạo bồi dưỡng những văn tài cho xã hội mới. Trường ấy mang tên Gorki đã ra đời năm 1933 và trong 60 năm hoạt động đã đào tạo cho các dân tộc trong Liên bang Xôviết trước đây và cả các nước anh em một đội ngũ những người cầm bút đông đảo, trong đó không ít nhà văn, nhà thơ có biệt tài (chỉ cần nhắc đến tên tuổi Simonov, Triphonov, Aitmatov, Gamzatov, Blaga Dimitrova...). Nhưng nếu sau sáu thập kỷ, dưới mái trường ấy chưa trưởng thành một danh nhân văn hoá nào có tầm cỡ như Gorki và Rolland thì có lẽ một trong những nguyên nhân chính là vì nó đã được tổ chức và hoạt động không hoàn toàn theo đúng những ý đồ, chủ kiến của Gorki. Một trường mà sinh viên là đặc tuyển, thì thày giáo lại phải càng được đặc tuyển như thế nào? Một trường mà những người học nghề là những tài năng và những bầu tâm huyết thì những người truyền nghề phải có tài và có tâm như thế nào? Một trường mà sứ mệnh là xúc tác cho sự ra đời những tác phẩm nghệ thuật chân chính thì trong đó phải ngự trị một không khí sáng tạo lành mạnh, không khí văn hoá đích thực không bị khuấy động bởi những nhân tố phi nghệ thuật, phi văn hoá như thế nào? Một trường mà phương thức hoạt động của nó, như đã nói ở trên, là sản xuất những độc bản, chứ không phải hàng loạt thì phải được Nhà nước đầu tư, xã hội trợ giúp như thế nào? Những vấn đề hệ trọng hàng đầu ấy và một loạt vấn đề khác luôn luôn được đặt ra trước các trường năng khiếu nghệ thuật ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ở nước ta hôm nay. Ở đâu những vấn đề ấy được giải quyết đúng đắn, thông minh và đồng bộ thì sự nghiệp đào tạo nhân tài ở đấy đạt được những thành tựu rực rỡ, như thí dụ ở nhạc viện Chaikovski, nhạc viện Rimski-Korsakov ở Liên Xô trước đây.
Xin trở lại vấn đề bồi dưỡng nhân tài nói chung. Các nước phát triển thực hiện quốc sách này cùng với nhiệm vụ đào tạo nhân lực và nâng cao dân trí trong mấy thế kỷ liền theo một quy trình thống nhất: trước hết, người ta lập ra các viện hàn lâm khoa học-nghệ thuật, các viện hàn lâm ấy đào tạo nên đội ngũ giảng viên, giáo sư cho các trường đại học và cao đẳng được lần lượt mở sau đó, rồi các trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên cho các trường trung học và tiểu học mà mạng lưới dần dần mở rộng, tiệm tiến nhưng vững chắc, có nền nếp, quy củ, chất lượng giáo dục đào tạo luôn luôn được giữ vững. Khi Piotr Đại Đế chủ trương khai hoá nước Nga còn chìm đắm trong dốt nát, ngu tối ông cũng làm đúng như thế: việc đầu tiên, ông lập Viện hàn lâm khoa học ở Peterburg, mời nhiều nhà bác học lớn của châu Âu (Euler, Bernoulli) sang giúp nước Nga xây dựng nền khoa học và đào tạo lực lượng giảng dạy cho các trường đại học tổng hợp mà trường đầu tiên được mở ở Mátxcơva năm 1755, sau 30 năm hoạt động của Viện hàn lâm, trường thứ hai mở ở Kazan năm 1804, trường thứ ba mở ở kinh đô năm 1819... Các trường đại học tổng hợp ấy và các trường chuyên ngành được mở sau này trong suốt thế kỷ XIX, với trình độ, chất lượng đào tạo không thua kém các Viện đại học lâu đời hơn ở châu Âu, đã tạo nên cho nước Nga một tầng lớp trí thức tinh hoa bao trùm mọi lĩnh vực, đa số những thức giả và nhân tài ấy đã đi theo cách mạng và đã đóng góp rất lớn vào việc xây dựng và phát triển nền khoa học-kỹ thuật, nền nghệ thuật Xôviết. Nhiều trí thức Việt Nam ngày nay được thừa hưởng một nền đào tạo là thành quả của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và của cả 2 thế kỷ phát triển liên tục và rực rỡ của nền văn minh Nga, một nền văn minh đã trở nên vĩ đại nhờ nội lực dồi dào của nó và nhờ nó biết học hỏi những nền văn minh tiến trước nó, tiếp thụ nhuần nhuyễn những thành tựu và kinh nghiệm của họ, biến cái của người thành cái của mình.
Hiện nay, 50 năm sau cách mạng tháng Tám, đội ngũ trí thức của nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau đã không còn thưa thớt và trong đội ngũ ấy có không ít tài năng đích thực. Có điều nó bị phân tán quá rời rạc về hàng trăm cơ sở nghiên cứu và đào tạo mà giữa các cơ sở ấy còn quá thiếu sự đồng tâm hiệp lực, sự hợp đồng tác chiến nhịp nhàng dưới sự chỉ đạo thống nhất của nhà nước. Cái đó không thể không hạn chế nghiêm trọng hiệu quả của công tác nghiên cứu, đào tạo. Việc tập hợp các trường đại học vào các Đại học quốc gia, hợp nhất các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở đào tạo là hết sức cần thiết, nó cho phép tập trung những lực lượng nghiên cứu, giảng dạy tinh nhuệ, dần dần hình thành những trung tâm đào tạo đặc tuyển, hun đúc cho đất nước ngày càng nhiều những tài năng thực sự. Việc tuyển chọn những học sinh giỏi cử đi học ở nước ngoài vẫn luôn luôn là một hướng hữu hiệu. Tuy nhiên, có nhiều chuyên ngành, chuyên môn, trước hết trong lĩnh vực văn hoá-nghệ thuật, khoa học xã hội và nhân văn chỉ có thể đào tạo được ở trong nước. Nâng cao chất lượng, trình độ đào tạo ở những khu vực này là nhiệm vụ hết sức bức xúc. Trong cơ chế hiện nay, ngay việc cử những học sinh ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài cũng cần được tính toán, xếp đặt lại. Một thần đồng của chúng ta, Ngô Bảo Châu hiện đang học ở École Normale ở Paris, nhưng có gì bảo đảm là sau khi thành tài, nhà toán học ấy sẽ về nước làm việc, góp sức xây dựng trường phái toán học Việt Nam, chứ không nhận lời mời của một trung tâm khoa học hay một Viện đại học nào đó của nước Pháp, y như Nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn đương dạy ở nhạc viện Tokyo chứ không phải Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh? Kẻ viết bài này mơ ước thấy ngày nhà nước Việt Nam sẽ cấp những học bổng đặc biệt cho những thanh niên tuấn kiệt đi du học nước ngoài, còn ở trung tâm thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến thì một số toà nhà cũ kiến trúc rất đẹp hiện nay là trụ sở của một số cơ quan hành chính sẽ được chuyển cho các trường bồi dưỡng, đào tạo các nhân tài trẻ tuổi. Những hành động thiết thực và đầy ý nghĩa như thế sẽ tác động mãnh liệt đến ý chí phụng sự Tổ quốc ở các tài năng.
Từ “văn hiến”, như mọi người đều biết, bao hàm ý nghĩa về một xã hội có văn tự, có sách và có nhiều người hiền tài. Hiền tài, chứ không phải chỉ có tài. Đây là một khái niệm rất cơ bản làm nền cho lý tưởng nhân văn, cho hệ giá trị của dân tộc chúng ta cùng các dân tộc phương Đông và có ý nghĩa toàn nhân loại. Người hiền tài, như cha ông ta quan niệm, khác biệt một trời một vực với người bác học hoặc kỹ sư cao cấp trong xã hội hiện đại, những người đã vừa làm nên những thành tựu kỳ diệu làm giàu, làm đẹp, làm tiện nghi cuộc sống của con người lại vừa chế tạo ra những phương tiện có sức tiêu hủy vĩnh viễn sự sống trên trái đất này. Sự mất đi những người hiền tài, mất đi tầng lớp “quý tộc tinh thần” là một tai hoạ xã hội mà những bộ óc ưu thời mẫn thế ở phương Tây đã cảm nhận sâu sắc từ lâu. Erich Fromm, một triết gia Đức-Mỹ nổi tiếng, người hâm mộ Mác và am hiểu văn minh phương Đông, viết trong cuốn sách Nghệ thuật yêu: “Chúng ta dạy kiến thức, nhưng bỏ quên mất một kiểu dạy quan trọng nhất cho sự phát triển con người, kiểu dạy ấy chỉ có thể thực hiện được nhờ sự có mặt đơn thuần của một nhân cách lớn, hoàn chỉnh. Ở những thời đại xa xưa của nền văn hoá của chúng ta, ở các nền văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ người được ngưỡng mộ hơn cả là con người có những phẩm giá tinh thần siêu việt. Người thầy ở đấy không chỉ và thậm chí trước hết không phải là nguồn thông tin: nhiệm vụ của anh ta là truyền thụ những tâm thế, những phép ứng xử nhất định cho con người. Trong xã hội tư bản hiện đại (...) những con người được hâm mộ, được bắt chước có thể là ai cũng được, nhưng chỉ không phải là những con người có những phẩm chất tâm hồn kiệt xuất... Nếu chúng không thay đổi được cục diện, nếu chúng ta không gìn giữ được cách nhìn đúng đắn về giá trị của cuộc sống thì chúng ta sẽ đứng trước nguy cơ hiện thực đoạn tuyệt toàn bộ với truyền thống văn hoá của chúng ta. Truyền thống ấy trước hết dựa trên cơ sở truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác không phải những kiến thức này hay kiến thức kia, mà là những phẩm chất con người nhất định. Nếu những thế hệ mai sau không còn được thấy những phẩm chất ấy nữa thì nền văn minh ngàn năm của chúng ta sẽ tử vong, ngay cả nếu tri thức vẫn tiếp tục được truyền thụ và ngày càng trở nên phong phú hơn, quyền lực của con người đối với thiên nhiên ngày càng lớn hơn”. Những lời cảnh cáo ấy được phát biểu cách đây bốn thập kỷ. Các nhà tư tưởng phương Tây hôm nay nói rất nhiều về sự tất yếu của một cuộc “cách mạng nhân bản” mà theo họ chỉ có nó mới cứu vãn được nền văn minh hiện đại. Cuộc cách mạng nhân bản ấy bao hàm sự thay đổi cơ bản những định hướng giá trị của con người, sự trở về với nhiều giá trị truyền thống đã bị vứt bỏ hoặc bị lãng quên. Trong cục diện toàn cầu ấy, thực hiện quốc sách bồi dưỡng nhân tài nhằm mục đích “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, thiết tưởng rất nên làm sống lại lý tưởng hiền tài của cha ông chúng ta, gắn chặt khăng khít không thể tách rời chữ “tài” với chữ “tâm” trong giáo dục, đào tạo, sử dụng, đánh giá con người. Muốn thế một việc làm thiết thực là cần tôn vinh những người hiền tài đích thực làm gương cho xã hội noi theo. Một trong những người hiền tài như thế mới đột ngột từ giã chúng ta là giáo sư Trần Đình Hượu. Trong tang lễ, giữa rất nhiều vòng hoa bên linh cữu có một vòng hoa to nhất, đẹp nhất với lời ghi chú: “Những môn sinh của thầy”. Chi tiết nhỏ ấy cho thấy truyền thống tôn sư trọng đạo, ngưỡng mộ hiền tài vẫn sống trong xã hội Việt Nam hôm nay và là một nhân tố góp phần bảo đảm cho quốc sách bồi dưỡng nhân tài không đi chệch đích, đạt được thắng lợi mà tất cả chúng ta đều mong ước.
1995
2274
2359
21649
218148
121356
114511275