Nhìn ra thế giới

Sự Biến đổi Vĩ đại của Trung Đông Âu: Thành công và Thất vọng*(Kỳ 1)

1. Dẫn nhập
Bài báo khảo sát riêng tám nước đã trở thành thành viên của EU năm 2004. Đấy là Cộng hòa Czech, Estonia, Ba Lan, Latvia, Lithuania, Hungary, Slovakia, và Slovenia. Tôi sẽ tự tiện nhắc đến các nước này một cách tập thể như Trung Đông Âu hay khu vực Trung Đông Âu, dù cho tất nhiên điều này hơi không chính xác về mặt địa lí.

Khi tôi viết những dòng này, EU đang trải qua thời gian thử thách và là không thể phỏng đoán tương lai sẽ mang lại gì. Số phận cuối cùng của EU sẽ có bất cứ ảnh hưởng nào lên tám nước đang được xem xét là một vấn đề tách biệt khỏi đề tài của tiểu luận này. Mặt khác, có lẽ đáng ngó đến khu vực này một cách tách biệt, vì tình trạng của mỗi nước này đã được các tổ chức khác nhau của EU khảo sát tỉ mỉ trước khi gia nhập. Tư cách thành viên có thể được xem như các giấy chứng nhận được giả thiết là đã chứng thực rằng cả hệ thống chính trị dân chủ và nền kinh tế thị trường hoạt động ở các nước này.

Sau 1990, chế độ độc tài của Đảng Cộng sản đã chấm dứt trong 10 nước, cụ thể là ở Liên Xô và ở các nước có liên kết quân sự và kinh tế mật thiết với nó như Bulgaria, Czechoslovakia, Ba Lan, Hungary, Mông Cổ, Cộng hoà Dân chủ Đức và Romania; ngoài ra, ở Nam Tư trước đây và Albania, những nước đã có quan hệ khá lỏng lẻo với Liên Xô lúc đó. Tôi thậm chí không giám thử xem xét toàn bộ khu vực ấy trong bài này, nếu không vì các lí do khác, — thì chủ yếu từ quan điểm của các kết cấu chính trị của chúng— có những khác biệt khổng lồ giữa các nước khác nhau. Từ lập trường này, thì tám nước tạo thành đối tượng nghiên cứu của tôi là khá đồng nhất. Như thế dù cho chúng có chung nhiều đặc trưng với nhóm lớn hơn này, tập hợp các nước mà tôi tập trung vào không thể được coi như “mẫu đại diện” của nhóm rộng hơn này. Khi vạch ra đề tài phân tích của mình tôi đưa ra một lựa chọn có chủ ý: tôi đã muốn tập trung vào khu vực nơi các cuộc cải cách là nhất quán nhất và sâu rộng nhất. Liên quan đến tám thành viên mới, tôi chỉ giới hạn mình để thảo luận những nét giống nhau của chúng, và tôi không đề cập đến việc mô tả và giải thích những khác biệt đáng kể giữa chúng.
Hãy quay lại theo thời gian vài thập niên và nhớ lại tâm trạng và những mong đợi của những người dân phản đối hệ thống Cộng sản, sống trong vùng này. Lúc đó, họ đã cảm thấy là giấc mơ ban ngày vô vọng rằng trong tương lai có thể thấy trước được đất nước của họ sẽ trở thành các nền kinh tế thị trường dân chủ. Ngày nay tuy vậy, dù cho điều này đã trở thành sự thực, nhiều người bị thất vọng và cay đắng.
Nhiều phân tích — cả chính thức và hàn lâm — đã được xuất bản rồi về đề tài này. Chúng chứa những số liệu thống kê quan trọng, tiết lộ nhiều về tình hình chính trị và kinh tế hiện thời của mỗi nước được xem xét, cũng như vị trí tương đối của chúng. Những nghiên cứu đáng chú ý cũng đã xuất hiện, cung cấp những phân tích nhân quả của những kết quả này[1]. Tôi sẽ không thử tổng kết khối tài liệu phong phú và có giá trị này, cũng chẳng là mục đích của tôi đi xác nhận hay bác bỏ những nghiên cứu trước này. Thay vào đó, tôi hi vọng bổ sung cho chúng bằng tập trung vào những khía cạnh của sự biến đổi vẫn chưa nhận được đủ sự chú ý.
Trong thảo luận dưới đây, tôi sẽ đặc biệt thận trọng để tách sự mô tả của tôi về những sự thực khỏi những phán xét chuẩn tắc mà tôi sẽ đưa ra về các sự thực ấy, và khỏi sự sắp xếp các giá trị tạo cơ sở cho các phán xét ấy. Sự thận trọng về những vấn đề như vậy là quan trọng cả cho việc hiểu số liệu, lẫn cho việc định vị đúng đắn những điểm không thống nhất nằm ở đâu.
Bài báo chia làm hai phần: trong phần đầu tiên, tôi sẽ xem xét sự biến đổi về mặt lịch sử; trong phần thứ hai, tôi sẽ xem xét nó từ khía cạnh của đời sống thường nhật của người đương thời.
2. Trong khung cảnh lịch sử thế giới
Trước hết, chúng ta sẽ xem xét các giai đoạn lịch sử dài. Các đơn vị đo thời gian lịch sử sẽ là tương đối lớn — thập niên, thậm chí thế kỉ. Và mặc dù sự tập trung vẫn sẽ là Trung Đông Âu, tôi sẽ nhìn sang các vùng khác của thế giới với mục đích so sánh. Phương pháp luận ở phần đầu của phân tích được diễn đạt súc tích bởi đầu đề cuốn sách của Charles Tilly (1984): “Big structures, large processes, huge comparisons.” [Những cấu trúc to, các quá trình lớn, những so sánh đồ sộ].
2.1. Hướng chính của biến đổi kinh tế trong nền văn minh phương Tây
Trong thiên niên kỉ qua nhiều hình thức tư bản chủ nghĩa khác nhau của nền kinh tế ngày càng phổ biến trong nền văn minh phương Tây.[2] Những dấu vết của điều này đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại rồi và tạo thành các cấu kiện quan trọng của xã hội cổ xưa từ ban đầu. Các thể chế đặc trưng của chủ nghĩa tư bản — sở hữu tư nhân, lao động được thuê, bán và mua theo kiểu thị trường, một hệ thống tín dụng, và một hệ thống pháp luật bảo vệ tính thiêng liêng của tài sản và các thỏa thuận (hợp đồng) tư nhân — đã tiến triển ở nhiều nước khác nhau với tốc độ khác nhau. Sự biến đổi thể chế đã gắn không thể tách rời khỏi các quá trình sâu sắc như đô thị hóa, công nghiệp hóa và thương mại hóa. Tất cả những thứ trên tạo thành cái được biết đến như nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.[3]
Giữa các nhà sử học không có sự nhất trí về thời Trung cổ kết thúc khi nào và thời Hiện đại bắt đầu khi nào.[4] Hơn nữa, thậm chí không có sự thống nhất về chủ đề liệu có thể cung cấp bất cứ các tiêu chuẩn nào để tách sự kết thúc khỏi sự bắt đầu, và nếu có như thế, thì liệu phải tìm nó trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, hay tôn giáo-ý thức hệ-tư tưởng. Tuy nhiên, có sự nhất trí khá rộng rãi về sự thực rằng hầu hết các nhà sử học nhắc đến Thời Hiện đại, hay tính hiện đại, là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chiếm ưu thế. Nền kinh tế ở trong trạng thái liên tiếp chuyển động và biến đổi. Cho nên sự biến đổi này có một hướng chính đặc trưng, cụ thể là, sự bành trướng của trật tự kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự bành trướng đi cùng với sự làm sâu thêm các ảnh hưởng của nó.
Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản đã chậm và phức tạp. Trong một số trường hợp các hình thức tư bản chủ nghĩa và tiền-tư bản chủ nghĩa cùng tồn tại một cách ổn định. Trong những trường hợp khác, có sự tăng tốc nhanh, tiếp theo là sự trì trệ, thậm chí đảo ngược. Và khi sự tăng tốc có xảy ra, nó có thể có nhiều nguyên nhân: cách mạng chính trị, sự xuất hiện của một chính khách vĩ đại với thiên hướng đổi mới, các quy chế mới do một nhóm chính trị tạo ra, những khám phá địa lí (như sự chinh phục Thế giới Mới), hay sự đưa vào các sáng chế lớn (như máy hơi nước, đường xe lửa, hay việc áp dụng điện).
 

Bảng 1
Tốc độ tăng trưởng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
 
 
GDP trên đầu người
 
Tốc độ tăng trưởng trung bình
GDP trên đầu người (phần trăm)
 
 
(dollar 1990)
 
(1950=100)
 
 
 
 
 
 
 
 
Nước
1950
1989
1990
các năm 1950
các năm 1960
các năm 1970
các năm
1980
 
Tiệp Khắc
 
3501
 
8768
 
250
 
3,9
 
2,9
 
2,1
 
1,2
Ba Lan
2447
5684
232
2,4
3,2
3,4
–0,4
 Hungary
2480
6903
278
 4,0
3,8
2,1
1,0
Liên Xô
2841
7098
250
3,4
3,6
2,2
0,9
4 XHCN
2819
7013
239
3,3
 3,5
2,3
0,8
Áo
3706
16369
442
6,3
4,2
3,9
2,0
Bỉ
5462
16744
307
2,4
4,2
3,3
1,9
Đan Mạch
6943
18261
263
2,9
3,8
2,0
1,8
V.Q. Anh
6939
16414
237
1,7
2,5
2,2
2,2
Phần lan
4253
16946
398
3,3
4,4
3,3
3,2
Pháp
5271
17730
336
3,7
4,6
3,0
1,7
Hi Lạp
1915
10086
527
5,0
6,6
4,4
1,3
Hà Lan
5996
16695
278
2,8
4,0
2,5
1,3
Irelvà
3453
10880
315
1,7
4,2
3,2
2,7
Italia
3502
15969
456
5,6
5,4
2,9
2,3
B.Đ. Nha
2086
10372
497
3,1
6,0
4,5
3,0
T.B.Nha
2189
11582
529
3,5
7,1
4,2
2,5
Thụy Điển
6739
17593
261
2,5
3,8
2,0
1,8
EU–13
4688
15519             
337
3,2
4,3
2,9
2,1
 
Ghi chú: Không có số liệu của Luxemburg. Số liệu của Đức bị loại trừ bởi vì chỉ có từ 1991 (khi thống nhất). Số liệu năm 1949 không có cho Ba Lan để tính phần trăm tăng trưởng trong năm 1950; tốc độ tăng trưởng trung bình của các năm 1950 là cho giai đoạn 1951-59.
Nguồn: OECD database accompanying Maddison (2003).

 
Do ảnh hưởng của học thuyết Marx, các đảng Cộng sản trước khi lên nắm quyền đã nhận làm của mình nguyên lí rằng, thực sự có tồn tại xu hướng chính của lịch sử kinh tế. Xu hướng này, tuy vậy, theo các nhà Marxist, chỉ quá chủ nghĩa tư bản. Các đảng cộng sản coi là phần cơ bản của cương lĩnh của họ để tạo ra một hệ thống thay thế chủ nghĩa tư bản. Họ cung cấp tiêu chuẩn tường minh để so sánh hai hệ thống: sự tăng năng suất lao động và tất cả những cái đi cùng nó, đặc biệt, tốc độ tăng sản xuất, và tăng mức sống.
Nỗ lực chứng minh khổng lồ đã kéo dài 70 năm ở Liên Xô và khoảng 40 năm ở Đông Âu, cuối cùng đã thất bại. Đã có những lúc trong cuộc đua giữa các hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa ngay cả một số trong những người ủng hộ hệ thống tư bản chủ nghĩa đã trở nên không chắc chắn. Hãy nhớ lại rằng sau Đại Suy thoái 1929 hầu hết các nước phát triển đã rơi vào suy thoái sâu sắc, trong khi Kế hoạch 5 Năm đầu tiên của Liên Xô đã mang lại những kết quả ngoạn mục và đã tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Và hãy nhớ rằng khi Sputnik đầu tiên được phóng thành công, nhiều người đã coi đấy là bình minh của một thời đại về ưu thế kĩ thuật và quân sự Soviet. Tuy nhiên, nếu chúng ta đo các sự kiện này trên quy mô của các thập niên dài và nhìn vào toàn bộ giai đoạn tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa, thì có thể coi là đã được chứng minh: chủ nghĩa tư bản hiệu quả hơn, đổi mới sáng tạo hơn, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn đã tạo ra mức sống cao hơn. Bảng 1 cho một so sánh gữa sự tăng trưởng của các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong bốn mươi năm trước sự sụp đổ. Các đại diện của các nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, cũng như ba nước thành viên mới của EU (Czechoslovakia, Ba Lan và Hungary), còn nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được đại diện bởi 13 thành viên cũ của EU.[5] Bảng cho thấy rő sự tăng trưởng hơn hẳn của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Lưu ý rằng khi nói điều này, chắc chắn tôi không cho là chúng ta đã tới sự kết thúc của lịch sử, tôi cũng chẳng ngụ ý rằng chủ nghĩa tư bản sẽ chẳng bao giờ bị vượt quá ở thời điểm nào đó trong tương lai. Tôi không đảm nhận việc tiên tri. Tuy nhiên, một sự thực không thể bác bỏ là chủ nghĩa xã hội hiện tồn (hay, đã tồn tại đến lúc đó) đã thua trong cuộc chạy đua với chủ nghĩa tư bản hiện tồn (hay, đã tồn tại đến nay). Đây không phải là một phán xét giá trị; nó là một sự thực có thể quan sát được, tính được về mặt thống kê: cho đến nay, trong thế giới văn minh phương Tây, xu hướng chính của lịch sử đã chỉ theo hướng bành trướng của chủ nghĩa tư bản.
 

Bảng 2
 
Tăng trưởng trước và sau 1989, và suy thoái sau biến đổi
 
 
Chỉ số GDP/NMP (1989 = 100)
 
Tốc độ tăng bình quân năm
 
Nước
 
1980
 
1990
 
1995
 
2003
 
1980–1989
 
1995–2003
 
 
C. H, Czech
 
85
 
99
 
94
 
106
 
1,8
 
1,5
Estonia
75
92
66
101
3,2
5,5
Ba Lan
91
88
99
135
1,1
4,0
Latvia
69
103
51
79
4,2
5,6
Litva
65
97
56
81
4,9
4,7
Hungary
86
97
86
116
1,7
3,8
Slovakia
85
98
84
117
1,8
4,2
Slovenia
99
92
89
120
0,1
3,8
TĐÂ-8
86
94
91
121
1,7
3,6
EU-15
..
103
111
132
..
2,2
 
Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng trước 1990 cho TĐÂ-8 dựa trên Sản phẩm Vật chất Ròng (NMP: Net Material Product) mà người ta đã dùng làm chỉ số tăng trưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Số liệu năm 1980 của Czech và Slovakia là của Tiệp Khắc.
Nguồn: Dựa vào UN Economic Commission for Europe (UN ECE), Economic Survey of Europe 2001, n.1, p. 254 và UN ECE Economic Survey of Europe 1999, n. 1, Table A.1.; cập nhật từ UN ECE Economic Survey of Europe 2005, n. 1, p. 117.

 
Chuỗi các hành động đau đớn và đắng cay trong việc tạo ra hệ thống xã hội chủ nghĩa đã là một sự trệch khỏi hướng chính. Bây giờ các nước vùng Trung Đông Âu đã quay lại. Sau khi rút ra khỏi ngő cụt mười lăm năm trước, bây giờ chúng ta lại hoàn toàn trên con đường chính.
Trong khi đây là một khẳng định về sự thật không mang tính giá trị, câu hỏi gắn mật thiết liệu có thể coi điều này là một thành công hay không chỉ có thể được trả lời bằng đưa ra một phán xét giá trị. Tôi sẽ quay lại vấn đề này muộn hơn.
Năng suất cao hơn và tốc độ tăng trưởng tăng lên đã không bắt đầu ngay lập tức: chuyển đổi sang hệ thống kinh tế mới đã khởi hành với một sự thụt lùi nghiêm trọng. Tuy vậy, bây giờ tăng trưởng đã tăng tốc. Tại sáu trong tám nước tốc độ tăng trưởng trong mười năm vừa qua đã cao hơn đáng kể so với thập niên trước 1990 như có thể thấy trong Bảng 2. Trong thời kì giữa 1995 và 2003, GDP trên đầu người trong vùng của tám thành viên mới này, cùng với năng suất lao động (GDP trên người lao động) và tiêu dùng thực trên đầu người đã tăng với tốc độ cao hơn nhiều so với ở các nước EU khác như được chỉ ra ở Bảng 3. Sự chênh lệch là đặc biệt ấn tượng trong năng suất lao động; nhịp độ tăng năng suất lao động trong các thành viên mới là hơn bốn lần so với các thành viên cũ.
Chúng ta hãy thận trọng với diễn giải các con số này. Tại điểm này trong phân tích của chúng ta, chúng ta muốn so sánh một hệ thống với một hệ thống khác, so sánh các thuộc tính lâu dài của một hệ thống với các thuộc tính lâu dài của một hệ thống khác. Đo bằng thước đo lịch sử, mới chỉ có một giai đoạn rất ngắn đã trôi qua. Chúng ta vẫn chưa có khả năng khẳng định sự tăng trưởng nhanh này có bao nhiêu phần là do chế độ mới đã sử dụng những dự trữ tiềm ẩn mà hệ thống không có hiệu quả cũ đã chưa khai thác. Tốc độ tăng trưởng cao một phần có thể quy cho sự thực rằng những thăng tiến nhanh thường đi sau những cuộc suy thoái sâu. Những dự trữ hiển nhiên, dễ huy động này sớm muộn sẽ bị cạn kiệt. Sẽ gây lạc đường đi rút ra những kết luận cuối cùng dựa trên những số liệu của một thập niên duy nhất. Chúng ta cần thời gian dài trước khi tính ưu việt của hệ thống tư bản chủ nghĩa mới có thể được chứng minh một cách dứt khoát với sức mạnh thuyết phục. Tuy nhiên, nếu chúng ta đánh giá dựa vào kinh nghiệm quá khứ, chúng ta có thể lạc quan về tiềm năng tăng trưởng của hệ thống mới.

Bảng 3
Tốc độ tăng trưởng trung bình giữa 1995-2003
 
Nước
Tăng trưởng GDP thực tế trung bình trên đầu người
Tăng năng suất lao động trung bình (phần trăm)
Tăng tiêu dùng trung bình trên đầu người
 
 
 
 
C. H. Czech
2,2
2,6
3,0
Estonia
6,6
6,6
7,3
Ba Lan
4,2
4,8
4,5
Latvia
7,3
8,2
7,6
Litva
6,3
6,6
7,1
Hungary
4,1
3,2
4,5
Slovakia
3,9
3,6
3,7
Slovenia
3,8
3,3
2,6
TĐ–8
4,0
4,2
4,3
Áo
2,0
1,7
1,3
Bỉ
1,9
1,3
1,7
Đan Mạch
1,7
1,5
1,0
V. Q. Anh
2,5
1,7
3,2
Phần Lan
3,4
2,3
3,0
Pháp
1,8
1,2
1,8
Hi Lạp
3,6
2,5
2,7
Hà Lan
1,7
0,7
1,8
Irlvà
6,0
3,6
4,2
Luxemburg
3,9
3,4
2,6
Đức
1,2
0,9
1,0
Italia
1,3
0,3
1,7
Bồ Đào Nha
1,8
0,2
2,1
Thây Ban Nha
2,8
–0,2
2,9
Thụy Điển
2,4
2,0
2,1
EU–15
1,8
0,9
1,9
 
Nguồn: EIU (Economic Intelligence Unit) Country Data at www.eiu.com

 
 
2.2 Hướng chính của biến đổi chính trị trong nền văn minh phương Tây
Trong vài thế kỉ qua hướng chính của biến đổi trong nền văn minh phương Tây đã cảm thấy không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực chính trị. Bên cạnh quyền lực quân chủ được cả nhà thờ chuẩn y đã có thể thấy từ sớm những tiền thân hạn chế của nền dân chủ: các tổ chức tự quản và các hình thức đại diện khác nhau của tầng lớp trung lưu đô thị và của các định chế nhà thờ. Trong một số nước, các luật hạn chế quyền lực tuyệt đối của chế độ quân chủ đã được thông qua và các yếu tố đầu tiên của chế độ nghị viện – các biến thể “được khai sáng” của nền quân chủ - đã xuất hiện. Muộn hơn, ngày càng nhiều quyền đã rơi vào tay nghị viện và quyền bầu cử đã được mở rộng cho phần dân cư ngày càng tăng. Các định chế của nền dân chủ nghị viện được hình thành và củng cố dần dần. Qua các thế kỉ, ngày càng nhiều nước đã trở thành dân chủ.
Gắn mật thiết với những thay đổi của kết cấu chính trị là sự thực rằng một tỉ lệ dân cư ngày càng tăng đã có khả năng thực hiện những quyền con người cơ bản của họ, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp và quyền tham gia vào quá trình ra quyết định. Sự phân biệt đối xử theo các tiêu chuẩn khác nhau như giới tính, chủng tộc, tôn giáo v.v. lần lượt bị loại bỏ.
Nhiều tác giả đã mô tả “các làn sóng” dân chủ hóa đã xảy ra trong nửa sau của thế kỉ 20.[6] Làn sóng thứ ba đã lan ra Nam Âu, Mĩ Latin, và Châu Á từ các năm 1970 qua các năm 1980; làn sóng thứ tư chúng ta vừa chứng kiến tiếp sau sự sụp đổ của các chế độ cộng sản Soviet và Đông ÂU.[7]
Tất nhiên, diễn tiến lịch sử cụ thể là khác nhau ở từng nước. Như tôi đã nhắc tới ở trên, tiến bộ đến nền dân chủ có thể dừng lại hay đảo hướng. Nhưng ngay cả một sự thay đổi gây chấn Động địa cầu, như việc Hitler lên nắm quyền, việc đã dẫn đến sự hủy hoại nhiều triệu người và tai họa không thể đo lường được, tỏ ra – đo bằng thước đo lịch sử- là sự đi trệch ngắn ngủi khỏi quỹ đạo chính, và hướng chính rốt cuộc vẫn thắng.
Nhìn từ quan điểm của chủ đề, chúng ta phải xem xét kĩ lưỡng sự lên nắm quyền của đảng Cộng sản. Điều này gắn chặt chẽ với “sự đi trệch” khác vừa được thảo luận, cụ thể là trong các nước nơi những người Cộng sản lên nắm quyền họ đã làm cho nền kinh tế bị trật đường ray khỏi đường đi chính, và đã áp đặt cương lĩnh xã hội chủ nghĩa lên xã hội bằng cách nắm lấy quyền lực chính trị và thiết lập chế độ độc tài toàn trị.
Trong mười lăm năm qua, vùng Trung Đông Âu đã thành công thoát khỏi ngő cụt trong lĩnh vực chính trị và lại chuyển động theo hướng chính, tương tự như trong lĩnh vực kinh tế. Tuy đã có nhiều thảo luận về trật tự dân chủ hiện hành mạnh đến mức nào và về mức độ nó thỏa mãn những đòi hỏi khác nhau, cho mục đích của phân tích này, sẽ là đủ để áp dụng tiêu chuẩn “tối thiểu” của nền dân chủ. Tiêu chuẩn “dân chủ tối thiểu” được thỏa mãn nếu chính phủ của một nước lên nắm quyền như kết quả của sự cạnh tranh vì phiếu bầu của các công dân và có thể bị hạ bệ trong khuôn khổ của một quá trình “văn minh”[8] mà không có chính biến trong triều đình, đảo chính quân sự, ám sát, hay cách mạng. Các cuộc bầu cử dựa trên cạnh tranh chính trị, cùng với sự đảm bảo các quyền con người, tạo ra các thủ tục và cơ chế để phế truất các nhà lãnh đạo và chuyển quyền lãnh đạo cho những người khác. Điều này đảm bảo sự loại bỏ sự cai trị chuyên chế. Tuy nhiên, đúng là ngoài các tiêu chuẩn tối thiểu này ta còn có thể đòi hỏi thêm những tiêu chuẩn khác nhau trong một nền dân chủ phồn thịnh, được củng cố. Tuy vậy, hãy đừng quên rằng đối với người vừa mới thoát khỏi những nanh vuốt của chế độ bạo ngược, thì ngay cả mức dân chủ tối thiểu cũng có nhiều ý nghĩa. Trong nghiên cứu được trình bày ở đây, chúng ta áp dụng trắc nghiệm sau: quá trình lên nắm quyền thỏa mãn tiêu chuẩn dân chủ tối thiểu, nếu các chính phủ đương nhiệm đã được thay thế ít nhất hai lần kể từ 1989 như kết quả của các cuộc bầu cử. Vùng Trung Đông Âu đã vượt qua ngưỡng bằng số được xác định trong trắc nghiệm này một cách dễ dàng: Trong cả tám nước ít nhất đã có ba lần thay thế chính phủ đương nhiệm thông qua quá trình bầu cử văn minh đưa chính phủ mới được bầu một cách dân chủ lên nắm quyền. Như Bảng 4 minh họa, 30 trong số 38 cuộc bầu cử kết thúc sự cạnh tranh của các đảng chính trị đã dẫn đến sự thay thế lực lượng chính trị, đảng hay liên minh đương quyền.
Hai loại thay đổi lịch sử đã được thảo luận đến đây liên kết với nhau một cách không đối xứng. Sự xuất hiện của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa không tự động đảm bảo cho sự nổi lên của nền dân chủ; đã có và vẫn có những nước mà hệ thống kinh tế của nó là tư bản chủ nghĩa, nhưng cấu trúc chính trị của nó không thỏa mãn các đòi hỏi tối thiểu của một nền dân chủ. Thật vậy, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa có thể tương thích với các chế độ chính trị độc tài một phần, hay thậm chí hoàn toàn. Nhưng khẳng định ngược lại là rất quan trọng: nền dân chủ chỉ có thể trở thành hình thức cai trị chính trị vĩnh cửu ở nơi nền kinh tế hoạt động bên trong một hệ thống tư bản chủ nghĩa. Không có nền dân chủ mà không có chủ nghĩa tư bản.[9]

Bảng 4
 
Sa thải qua bầu cử
 
 
Nước
 
Số lần bầu cử 1989-2004
 
“Số lần sa thải qua bầu cử”
 
Các năm sa thải
 
 
 
 
C.H. Czech
5
3
1990,1992,1998
Estonia
5
4
1990,1995,1999,2003
Ba Lan
4
4
1991,1993,1997,2001
Latvia
5
4
1990,1995,1998,2002
Litva
5
4
1990,1993,1996,2000
Hungary
4
4
1990,1994,1998,2002
Slovakia
5
4
1990,1992,1994,1998
Slovenia
5
3
1990,1993,2004
TĐ–8
38
30
 
 
Ghi chú: “sa thải qua bầu cử” xảy ra khi (i) có sự sắp xếp lại lớn của liên minh cầm quyền sau bầu cử, bao gồm (ii) thay đổi lãnh đạo chính phủ và (iii) có sự dịch chuyển trong các ưu tiên chính sách; xem giải thích đầy đủ ở website sau của Zdenek Kudrna .
Nguồn: Tập hợp trên cơ sở Economist Intelligence Unit – Country reports tại www.eiu.com.
 

 
Chúng ta đi đến một khẳng định sự thực lịch sử không mang tính giá trị sau: kết cấu chính trị mới của khu vực Trung Đông Âu phản ánh chiều hướng chính của diễn tiến lịch sử trong hai thiên niên kỉ qua. Liệu điều này có đáng ca ngợi hay không, và nếu có thì vì sao, là câu hỏi mà chúng ta sẽ quay trở lại muộn hơn.
Ý tưởng, rằng những thay đổi chính trị và kinh tế quy mô lớn có những hướng chính, được một số trường phái sử học và khoa học xã hội khác công nhận và bị các trường phái khác bác bỏ. Ý tưởng này tuyệt nhiên không tầm thường, hiển nhiên. Tôi đã cố tránh xa các biến thể cứng nhắc và phiến diện của ý tưởng này; tôi không thấy bằng chứng nào rằng diễn ra loại chuyển động đơn giản, tuyến tính và một chiều mọi thời. Tôi đã nói thẳng, liên quan đến cả lĩnh vực kinh tế và chính trị, rằng có thể có sự đình trệ và chuyển động lùi, cũng như sự cùng tồn tại lâu dài của các hệ thống kinh tế và chính trị khác nhau.[10] Tất cả sự thừa nhận hạn chế này tuy vậy không cắt xén một trong những ý tưởng chính của tiểu luận này, rằng có thể quan sát thấy chiều hướng chính của những thay đổi trong thế giới các thể chế cả kinh tế lẫn chính trị. Sự biến đổi xảy ra sau sự sụp đổ của các chế độ Soviet và Đông Âu cung cấp một bổ sung mới và quan trọng cho tranh luận về các chiều hướng chính.
2.3 Sáu đặc trưng
Như điểm xuất phát cho phân tích tiếp theo, tôi muốn tổng kết sáu đặc trưng quan trọng nhất của sự biến đổi đã xảy ra ở khu vực Trung Đông Âu trong 15 năm qua.
1. và 2. Những thay đổi đi theo các chiều hướng chính của sự phát triển của nền văn minh phương Tây: trong lĩnh vực kinh tế theo hướng hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, và trong lĩnh vực chính trị theo hướng dân chủ.
3. Đã là một sự biến đổi hoàn toàn, song song trong tất cả các lĩnh vực: trong nền kinh tế, trong cấu trúc chính trị, trong thế giới ý thức hệ chính trị, trong hệ thống pháp luật và trong sự phân tầng xã hội.
4. Sự biến đổi đã là phi-bạo lực.
5. Quá trình biến đổi đã diễn ra trong hoàn cảnh hòa bình. Đã không có chiến tranh đi trước. Những sự thay đổi không bị áp đặt lên xã hội như kết quả của sự chiếm đóng quân sự nước ngoài.
6. Sự biến đổi đã diễn ra với tốc độ không thể tin được, trong khoảng thời gian 10 đến 15 năm.
Đây đã không phải là “sự biến đổi lớn” đầu tiên trong lịch sử thế giới, tôi mượn cách diễn đạt của Karl Polányi.[11]Ông cũng đã nhấn mạnh sự thực, mà chúng ta đã biết rồi từ nghiên cứu lịch sử thế giới, rằng “những biến đổi lớn” khác đã xảy ra ở những thời điểm khác nhau và ở những khu vực khác nhau của thế giới, những biến đổi sâu rộng từ một loại hình thái xã hội sang hình thái khác. Trong sáu đặc trưng được liệt kê ở trên, có thể thấy rő ba hay bốn đặc trưng cả trong các quá trình biến đổi khác nữa. Nhưng sự hiện diện cùng lúc của cả sáu đặc trưng là độc nhất trong lịch sử thế giới.
Bây giờ tôi chỉ nêu trước khẳng định này. Tôi muốn biện hộ nó bằng những so sánh lịch sử dưới đây.
2.4 Những so sánh lịch sử
Tôi sẽ so sánh năm loại “biến đổi lớn” điển hình với cái đã xảy ra ở Trung Đông Âu. Hiển nhiên là, làm như vậy chúng ta thậm chí đã không bắt đầu vét cạn tất cả các khả năng so sánh; nhiều trường hợp lí thú và quan trọng đã bị bỏ qua. (Thí dụ, những thay đổi xảy ra ở Nga trong 15 năm qua, sự biến đổi của các chế độ độc tài Nam Âu sang nền dân chủ, hay một thí dụ mới tinh: những thay đổi xảy ra ở Iraq kể từ khi chế độ Saddam Hussein sụp đổ.) Trong mọi trường hợp, năm sự biến đổi sẽ được nghiên cứu kĩ cho chúng ta những bài học quan trọng. Không dễ theo dői nhịp của những so sánh này. Để làm cho việc hiểu điều này dễ hơn, Bảng 5 giới thiệu một tổng quan về cấu trúc logic của những so sánh này.

Bảng 5
So sánh các đặc trưng
 
 
 
 
 
 
Đặc trưng
Vùng Trung Đông
Âu
A.
Liên Xô biến đổi từ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa
B.
Hungary: Sự phục hồi Horthy
Chilê:
Sự phục hồi Pinochet
 
C.
Trung Quốc:
Biến đổi sau Mao
D.
Tây Đức:
Biến đổi sau Thế Chiến lần thứ 2
E.
Biến đổi lịch sử lớn ở Châu Âu: từ Trung cổ sang Hiện đại, từ tiền Chủ nghĩa tư bản sang Chủ nghĩa tư bản
1. Theo hướng chính của sự phát triển của hệ thống kinh tế?
 
Y
 
N
 
Y
 
Y
 
Y
 
Y
2. Theo hướng chính của sự phát triển của hệ thống chính trị?
 
Y
 
N
 
N
 
N
 
Y
 
Y
(trễ thời gan)
3. Song song ở mọi lĩnh vực?
Y
Y
Y
N
N
Y
 
4. Không có bạo lực?
Y
N
N
Y
N
N
 
5. Không có chiếm đóng quân sự nước ngoài?
 
Y
 
Y
 
Y
 
Y
 
N
 
N
6. Nhanh?
Y
Y
Y
N
Y
N
(rất lâu)

 
A. Đầu tiên hãy khảo sát biến đổi mà chúng ta đang đánh giá bằng so sánh nó với sự vận động trước chuyển động theo chiều ngược lại: sự tiêu diệt hệ thống tư bản chủ nghĩa và thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa. Để cho ngắn gọn tôi sẽ giới hạn mình chỉ ở lịch sử Soviet. Có sự giống nhau trong đặc trưng số 3: ở đó những thay đổi song song cũng đã làm biến đổi hoàn toàn tất cả các lĩnh vực của xã hội. Sự giống nhau gây sửng sốt trong đặc trưng số 6, tốc độ mà những thay đổi đã diễn ra. Đảng Cộng sản chiếm quyền lực vào năm 1917. “Sự biến đổi lớn” đã hoàn tất vào cuối năm 1932, với tập thể hóa nông nghiệp khi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã bị xóa bỏ. Đã chỉ cần 15 năm để sắp xếp mọi thứ cho việc tạo ra cái chúng ta gọi là “chủ nghĩa xã hội cổ điển”.[12]
Sự khác biệt bi thảm ẩn náu trong những đặc trưng số 1, số 2 và số 4. Vào cuối Chiến tranh Thế giới lần I, nước Nga sắp bước lên con đường tiến đến thiết lập một nền dân chủ nghị viện theo kiểu phương Tây. Cuộc cách mạng đẫm máu đã lật đổ quyền lực chính trị trước đó, sa hoàng và gia đình ông bị xử tử và giới ưu tú của chế độ trước hoặc bị giết hoặc bị lưu đày vào các trại lao động bắt buộc. Bạo lực và khủng bố đã áp đặt một trật tự chính trị và xã hội mới lên xã hội. Đây là cái đối lập 180 độ của cuộc cách mạng nhung 1989-1990 và tính phi-bạo lực của sự biến đổi hiện thời của chúng ta.
Trong phần còn lại của thảo luận của mình, tôi sẽ chỉ tập trung vào những biến đổi có chung đặc trưng số 1 với những biến đổi xảy ra ở Trung Đông Âu, nói cách khác nơi những thay đổi trong nền kinh tế đi theo hướng chính (hay chí ít không rời khỏi hướng chính) của những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế.
B. Đặc trưng số 4, tính phi-bạo lực của sự biến đổi không thể được coi là hiển nhiên. Đáng minh họa điều này bằng hai thí dụ lịch sử.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ I, những người Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Kun Béla đã nắm quyền ở Hungary và tuyên bố nền Cộng hòa Soviet Hungary. Vài tháng sau, dưới sự lãnh đạo của Đô đốc Horthy Miklós, người sau này trở thành Thủ hiến (tức là người đứng đầu nhà nước), nền cai trị Cộng sản đã bị đánh bại và trật tự tư bản chủ nghĩa trước đó được khôi phục. Khủng bố Đỏ được thay bằng Khủng bố Trắng trong những tháng đầu. Hành hình kiểu lynching (không xét xử), treo cổ và bỏ tù đã đi cùng với sự thay đổi chế độ và cần vài năm để đạt được sự củng cố chính trị nào đó.
Thí dụ thứ hai là của Chilê. Ở đây Allende và chính phủ của ông bước lên con đường có lẽ đã có thể dẫn tới sự hình thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa. Nhưng trước khi nó được triển khai hoàn toàn, nó đã bị tiêu diệt bởi một cuộc đảo chính do Tướng Pinochet cầm đầu năm 1973. Chiến dịch trả thù, những cuộc đàn áp trả thù không xét xử, các vụ ám sát chính trị và tra tấn đã đi cùng với sự khôi phục nền kinh tế trước-Allende. Chỉ sau nhiều đau khổ và sau nhiều năm dài các thể chế dân chủ mới có thể phát triển ở đất nước đó.
Chúng ta hãy so sánh hai tình tiết lịch sử này với cái vừa xảy ra ở Trung Đông Âu. Trong tám nước là đối tượng của bài báo này, các chính trị gia của chế độ trước đã chẳng bị xử tử cũng không bị bỏ tù và đã không có chiến dịch trả thù nào được tiến hành chống lại họ. Trong nhiều nước, để chuẩn bị cho một hiến pháp mới, đã có các cuộc thảo luận văn minh giữa các lãnh đạo của đảng cầm quyền trước kia và các lãnh đạo đối lập mới, những người đã sẵn sàng nắm lấy quyền lực chính trị. Sự dịch chuyển quyền lực đã xảy ra mà không có đổ máu và không có hỗn loạn ở các mức quyền lực cao nhất.
Như trong các trường hợp khác của chúng ta, mục đích của tôi đến đây chỉ đơn giản là trình bày các sự thực: đánh giá giá trị của chúng sẽ được đưa ra trong các mục muộn hơn.
C. Việc thủ tiêu hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục được tiến hành trong các khu vực phía nam và phía đông của tám nước được khảo sát. Sẽ hợp với logic phân tích của tôi đi xét tất cả các quá trình biến đổi từng cái một và đưa ra những so sánh. Do giới hạn về thời gian, tôi sẽ so sánh những thay đổi xảy ra ở khu vực Trung Đông Âu với những thay đổi chỉ của một nước, Trung Quốc. Tất nhiên, chỉ tương lai mới sẽ cho biết xu hướng phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Trung Quốc sẽ đi xa đến đâu, và sẽ nhất quán thế nào.
Trong trường hợp của đặc trưng số 1 – và điều này có tầm quan trọng cơ bản —những biến đổi của Trung Quốc và Trung Đông Âu là y hệt nhau: cả hai đều chỉ theo hướng lịch sử chính, đến nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Sự khác biệt quan trọng nhất, tuy vậy, có thể thấy trong trường hợp của đặc trưng số 2. Liên quan đến kết cấu chính trị, sự phát triển của các nước Trung Đông Âu cũng chỉ theo hướng chính của nền văn minh phương Tây: nó rời xa khỏi hệ thống trước đó, đến nền dân chủ và sự tôn trọng các quyền con người. Ngược lại, ở Trung Quốc, độc quyền quyền lực của Đảng cộng sản vẫn còn nguyên, và đi cùng với nó là sự áp bức và sự hạn chế các quyền con người. Trong khi những thay đổi đáng kể tiếp tục diễn ra hầu như trong mọi lĩnh vực xã hội, ta không thể nói ngay cả về tính song song được nhắc đến dưới đặc trưng số 3.
Cũng có sự trái ngược nổi bật đối với con đường của Trung Quốc liên quan đến đặc trưng số 4, đến vấn đề phi-bạo lực. Người ta không thể nói về một cuộc cách mạng nhung. Sau cái chết của Mao Trạch Đông, kẻ bạo ngược trước đây, ban lãnh đạo đã giáng xuống những người xung quanh trực tiếp của ông với bàn tay sắt. Khi những đòi hỏi của các sinh viên Bắc Kinh đi quá xa so với nhịp do những người thống trị định ra, họ đã dùng lực lượng quân sự để bẻ gãy các cuộc biểu tình. Những người bày tỏ các quan điểm trái với ý của đảng bị bỏ tù.
Về đặc trưng số 5, không có sự khác biệt đáng kể: như ở Trung Đông Âu, những thay đổi của Trung Quốc không bị áp đặt bởi sự can thiệp quân sự từ bên ngoài. Lực lượng bên trong đã tiến hành những thay đổi đã xảy ra.
Sự khác biệt là rất cơ bản về đặc trưng số 6: nhịp độ của những thay đổi thể chế ở Trung Quốc đã chậm hơn rất nhiều so với ở Trung Đông Âu.
D. Cuối cùng chúng ta xem xét sự biến đổi của Tây-Đức trong thời kì sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Chúng ta bắt đầu với các đặc trưng số 1 và số 2. Dưới sự cai trị của bọn Nazi, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản vẫn tiếp tục hoạt động, song kết cấu chính trị đã trệch một cách tai họa khỏi hướng chính. Liên quan đến đặc trưng số 3, đã không cần đến một sự biến đổi hoàn toàn, chỉ cần đến biến đổi một phần. Những khác biệt quan trọng nhất có thể thấy trong các đặc trưng số 4 và số 5. Đây hiển nhiên đã không thể là một sự biến đổi phi bạo lực. Đầu tiên, quyền lực của bọn Nazi phải bị tiêu diệt trong một cuộc chiến tranh đòi hỏi những hi sinh to lớn, rồi tiếp theo là sự trừng phạt những tội phạm chiến tranh và các tội phạm chống loài người. Các Cường quốc Đồng minh đã chiếm đóng trong thời gian dài. Việc thiết lập các thể chế dân chủ cơ bản được áp đặt từ bên ngoài thông qua các điều khoản của hiệp ước hòa bình được thực thi bởi sự hiện diện quân sự của quân đội Đồng minh. Đây là điểm khởi đầu của các cuộc cải cách do các lực lượng bên trong gây ra sau này. Liên quan đến đặc trưng số 6, đến tốc độ, đo trên quy mô lịch sử, dân chủ hóa đã diễn ra rất nhanh.
E. Để kết thúc những so sánh này chúng ta quay lại đề tài mà chúng ta bắt đầu với: quá trình lịch sử lớn dài hàng thế kỉ đã dẫn đến sự hình thành ban đầu của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền dân chủ. Thực ra, nhiều đặc trưng của những biến chuyển lớn này giống như các đặc trưng của sự biến chuyển hiện thời (so với nó là chuyển biến “nhỏ”) xảy ra ở khu vực Trung Đông Âu. Theo định nghĩa, các đặc trưng số 1 và số 2 là hệt như nhau, bởi vì chúng ta xác định, rút ra “hướng chính” từ những chuyển biến lịch sử lớn. Về phần đặc trưng số 3, liên quan đến tính toàn thể của những thay đổi, rő ràng là sự biến đổi kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét những diễn tiến này không dưới hàng thế kỉ mà thay vào đó trong khung thời gian ngắn hơn nhiều, thì chúng ta không thể nói về tính song song chặt chẽ với cái có thể quan sát được ở khu vực Trung Đông Âu trong 10 đến 15 năm qua. Trong thứ tự thời gian khác nhau tùy từng nước và với độ trễ khác nhau, các sự kiện được tăng tốc hoặc ở lĩnh vực chính trị, hay trong thế giới tôn giáo-tinh thần-ý thức hệ, hay trong nền kinh tế. Về các đặc trưng số 4 và số 5 có những khác biệt theo từng nước và từng thời kì liên quan đến những biến đổi hòa bình hay tránh được bạo lực đến mức nào, và khi nào những thay đổi được tăng tốc bởi khởi nghĩa đẫm máu, cách mạng, chiến tranh và sự xâm chiếm của các nước ngoài. Một số trường phái lịch sử cho rằng Thời Hiện đại bắt đầu với sự phát minh ra (hiểu là: xâm chiếm) châu Mĩ, trong khi các trường phái khác tính từ khi Cách mạng Pháp, dẫn đến sự ngự trị của khủng bố, nổ ra năm 1789.
Sự khác biệt lớn nhất có thể thấy một cách tự nhiên trong đặc trưng số 6, tốc độ của sự thay đổi. Chủ nghĩa tư bản đã cần đến hàng thế kỉ để trở thành hệ thống kinh tế thịnh hành của toàn bộ một nước. Quá trình dài hàng thế kỉ đã đi trước sự thực hiện nền dân chủ nghị viện. Ngược lại, bây giờ tất cả những thứ này đã xảy ra với tốc độ không thể tin nổi trong khu vực Trung Đông Âu.
Trong khi do gợi ý của so sánh lịch sử chúng ta đánh giá sự biến đổi của khu vực Trung Đông Âu là đặc biệt nhanh. Nhưng tôi muốn nhắc nhở rằng đã có những chính trị gia và các chuyên gia kinh tế hối thúc những thay đổi thậm chí còn nhanh hơn. Các nước được khuyến khích để chạy đua với nhau. Hệt như trong cuộc chạy đua, người ta cân nhắc các triển vọng thắng: tư nhân hóa kết thúc đầu tiên ở nơi nào? Liệu những người Czech, người Hung, hay những người Ba Lan sẽ chạm băng đích vào cuối năm thứ sáu hay thứ chín? Nếu chúng ta phân tích các sự kiện này từ viễn cảnh lịch sử, chúng ta có thể cảm thấy tính kì quái của một cuộc đua như vậy.
Một phần công chúng cũng nhìn cuộc đua với sự nghi ngờ. Trong khuôn khổ của một dự án nghiên cứu quốc tế có ý định đo lường thang giá trị cá nhân, các công dân của nhiều nước Trung Đông Âu được hỏi họ thích cái nào hơn: tái tổ chức triệt để xã hội qua một hành động cách mạng lớn, hay sự cải thiện từ từ xã hội qua các cuộc cải cách. 75% những người Czech, 82% những người Sloven và 67% những người Litvan chọn cái sau (xem Halman, 2001, p. 170.)
2.5. Những nhân tố tăng tốc trong quá trình biến đổi
Phân tích so sánh tất cả sáu đặc trưng xứng đáng một nghiên cứu riêng. Ở dây, tôi chỉ thảo luận một cái – đặc trưng thứ sáu. Đánh giá sự biến đổi từ từ của 10 đến 15 năm qua là cực kì nhanh, chúng ta có thể nêu ra câu hỏi: cái gì đã làm cho tốc độ lớn này là có thể?
1. Trong nỗ lực đầu tiên chúng ta có khuynh hướng cho một trả lời đơn giản: làm cái gì đó thứ hai là dễ hơn tạo ra nó đầu tiên. Chúng ta có thể trích dẫn từ những kinh nghiệm nhiều người biết của tăng trưởng kinh tế. Tái xây dựng các nền kinh tế bị phá hủy luôn luôn là quá trình nhanh hơn xây dựng các nền kinh tế ban đầu.
Tuy nhiên lí lẽ "tái thiết" chỉ đúng một phần.
Chúng ta hay bắt đầu với kiến thức và kinh nghiệm. Ngay cả những người trong thời trẻ của mình đã có được kinh nghiệm nào đấy trong lĩnh vực chính trị hay kinh tế trước khi những người Cộng sản lên nắm quyền, thì đã gần ở tuổi về hưu khi sự biến đổi bắt đầu: hầu hết những người tích cực trong kỉ nguyên trước xã hội chủ nghĩa đã chết hay đã về hưu. Các gen không thừa kế loại kiến thức này. Đã không có nhiều gia đình nơi kiến thức kinh tế, kinh doanh hay chính trị của giai đoạn trước xã hội chủ nghĩa được tích tụ và được cha mẹ truyền lại cho con cái. Trong đầu và trong tư duy của các cá nhân đã không có sự “khôi phục” trí thức cũ, mà đúng hơn là thu nhận kiến thức mới.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy nhiều phản thí dụ. Đã có các gia đình trong thời kì xã hội chủ nghĩa, đã giữ gìn được các giá trị cũ và truyền lại cho các thế hệ trẻ hơn. Không hiếm, rằng cháu tiếp tục theo nghề của ông bà theo cách này hay cách khác. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tiêu hủy các thể chế chính trị, kinh tế và xã hội đã hoạt động trong thời kì trước. Chúng không được phục sinh ngay lập tức. Thế nhưng ở đây cũng có thể chỉ ra các phản thí dụ.
Tóm lại, có thể nói: tuy sự biến đổi đã được tăng tốc bởi sự thật rằng ở nhiều điểm đã có thể quay lại những truyền thống, ứng xử và thể chế được phát triển trước đây nhằm sử dụng chúng như các điểm xuất phát – thế nhưng sự trở lại này không phải là nhân tố mạnh nhất trong các nhân tố gây tăng tốc.
2. Phần đáng kể các cá nhân hầu như có khuynh hướng tự lo cho công việc của riêng mình một cách bản năng, và có tinh thần kinh doanh. Nhiều loại ràng buộc do thời trung cổ áp đặt đã hạn chế sự phát triển của các nỗ lực tự phát này, và những cản trở này chỉ được dỡ bỏ dần dần và chậm chạp. Việc nới lỏng và phá bỏ những sự hạn chế của trật tự phong kiến, và sự mở rộng quyền sở hữu tư nhân và điều phối thị trường là các quá trình đan xen vào nhau. Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa đã dựng lên những rào cản gây tê liệt hơn rất nhiều so với các trật tự xã hội trước nó. Nó hầu như trói gô sáng kiến, và các thiên hướng kinh doanh của các cá nhân lại. Trong thời kì biến đổi hậu xã hội chủ nghĩa, những sự cấm đoán quan liêu do các cơ quan chỉ đạo kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa áp đặt đã được dỡ bỏ không phải một cách chậm chạp và từ từ, mà với tốc độ vũ bão. Vì lí do này, tinh thần kinh doanh tự phát, bản năng kinh doanh, động lực đặc biệt này của chủ nghĩa tư bản, hầu như đã nổ tung vào đời sống kinh tế.
3. Đã không có sự phản kháng mạnh nào với sự biến đổi. Khi chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ nghị viện phát triển chậm chạp và từ từ lần đầu tiên, đã có các tầng lớp, các nhóm, và các giai cấp khác nhau của xã hội đấu tranh chống lại nó. Trật tự mới đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu chống lại những người hưởng lợi của ancien régime [chế độ cũ]. Sau những thắng lợi của trật tự mới, thường những người ủng hộ trật tự cũ đã kháng cự chính trị, ý thức hệ và, trong một số trường hợp, quân sự chống lại nó.
Lần này đã khác. Sáu năm sau khi Gorbachev bắt đầu các cuộc cải cách của ông, vào thời gian Tường Berlin sụp đổ, các nhà lãnh đạo của chế độ cộng sản ở Trung Đông Âu đã hạ vũ khí của họ rồi. Đã không xuất hiện các phong trào xúi bẩy chống trật tự mới, những người phản đối đã không cầm vũ khí, đã không có các chiến sĩ du kích hay những kẻ khủng bố. Đa số các thành viên của của đội ngũ lãnh đạo cũ cũng đã chán ngán các lí tưởng trước đây của mình. Những người khôn ngoan hơn đã chuyển phe, họ đã thử trở thành các nhà kinh doanh – nhiều người với thành công – thậm chí thành những người đóng vai trò tích cực trên vũ đài chính trị dân chủ. Những người khác đã về hưu một cách mệt mỏi.
4. Sự giải thích quan trọng nhất cho sự nhanh chóng của biến đổi có thể thấy trong những tác động của thế giới bên ngoài bao quanh các nước Trung Đông Âu. Cụm từ “thế giới bên ngoài” được dùng trong ý nghĩa rộng nhất có thể của nó để dẫn chiếu đến những ảnh hưởng bên ngoài khác nhau và hoàn cảnh.
Một trong những tác động đã là thu nhận khuôn mẫu nước ngoài. Từ các hình thức hoạt động quản lí doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng đến các thể chế chính trị, từ các chương trình truyền thông đại chúng đến quảng cáo, từ tổ chức các hoạt động giáo dục đến tài trợ nghệ thuật và khoa học, hiếm có lĩnh vực hoạt động xã hội nơi người ta không theo hình mẫu nước ngoài.
Đã có nhiều kênh qua đó các tấm gương này tìm được đường đến với người dân Trung Đông Âu. Người dân quen với chúng trong các chuyến đi nước ngoài của họ, nhiều người ngay cả trước 1990, sau thay đổi chế độ thì còn nhiều người hơn. Họ đọc về chúng, hay xem chúng trên phim ảnh. Việc dạy về các kinh nghiệm nước ngoài được tiến hành trong các trường học, các đại học, và ở các seminar đặc biệt. Các nhà tư vấn nước ngoài kiến nghị thâu nhận chúng.
Tôi không cho rằng việc tiếp nhận các hình mẫu nước ngoài là một việc dễ. Không đủ chỉ quan sát Quốc hội Anh hay Ngân hàng ở Zürich hoạt động thế nào và rồi kì vọng rằng tất cả mọi thứ sẽ xảy ra theo cùng cách ở Quốc hội Hungary hay Estonia, ở các ngân hàng Czech hay Ba Lan. Khá dễ để nhận ra mô hình, nhưng khó hơn rất nhiều để học sử dụng nó thế nào, để thích nghi nó với các điều kiện địa phương. Nếu giả như việc học không phải là quá trình khó và mâu thuẫn, thì việc thực hiện phần lớn sự biến đổi đã chẳng cần đến 15 năm để hoàn thành, và chúng ta chẳng cần đến công việc mệt mỏi để áp dụng mô hình một cách hiệu quả hơn.
Các nhà đầu tư nước ngoài cũng có tác động to lớn. Họ không chỉ mang vốn vào, mà – ngoài know-how kĩ thuật ra— họ còn đưa kiến thức về quản lí công ti như thế nào, về hệ thống pháp lí và các chuẩn mực ứng xử loại nào là những đòi hỏi cho hoạt động của một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Tám nước được khảo sát đã tham gia vào các tổ chức quốc tế quan trọng –dưới sự lãnh đạo phương Tây - như NATO, OECD, và WTO, và quan hệ của chúng trở nên tích cực hơn với World Bank và IMF. Đỉnh điểm của chuỗi tư cách thành viên khác nhau là sự gia nhập vào Liên minh Châu Âu, EU. Cái trong ngôn ngữ của Brussels được gọi là quá trình “hài hòa hóa” xảy ra không chỉ trong lĩnh vực lập pháp. Trong mọi khía cạnh, Trung Đông Âu cố đồng hóa các hình mẫu phương Tây. Trước hết là các động lực bên trong đã thúc đẩy sự thích nghi này. Tuy vậy, vô ích đi từ chối rằng cũng có thể thấy một mức nào đó của áp lực chính trị bên ngoài. Đặc trưng số 5 là xác đáng, đã không có sự chiếm đóng quân sự nước ngoài. Không nước ngoài nào, ngay cả các cường quốc lớn cũng không “ra lệnh” cho các nước nhỏ Trung Đông Âu. Thế nhưng đã “có điều kiện”. Các tổ chức tài chính có trụ sở ở Washington, và sau này EU ngày càng gắn việc cho vay hay viện trợ, việc thiết lập các quan hệ, sự đảm bảo các quyền với các điều kiện. Tuy vậy, đúng là, các điều kiện này nói chung được diễn đạt theo cách để phục vụ cho những lợi ích dài hạn của riêng các nước liên quan. Thế nhưng, nhiều thay đổi đã được áp lên họ bởi áp lực bên ngoài hay, chí ít, đã góp phần vào việc thực hiện nhanh hơn những thay đổi.
Sự gần kề về địa lí với thế giới phương Tây hẳn đã đóng góp cho cường độ của các áp lực bên ngoài. Sự biến đổi xảy ra nhanh nhất chính xác ở các nước nằm sát biên giới các nước châu Âu đã phát triển.
5. Công nghệ sẵn có là một nhân tố tăng tốc quan trọng. Trong bối cảnh này, chúng ta không dẫn chiếu đến bất cứ tình huống đặc biệt nào mà khu vực Trung Đông Âu được hưởng. Nhịp độ của sự biến đổi Trung Đông Âu sở dĩ đã nhanh hơn, một phần cũng là vì ngày nay tất cả mọi thứ đều thay đổi với nhịp độ nhanh hơn. Hãy chỉ nghĩ, thí dụ, về tốc độ của giao thông và truyền thông vào cuối Thời Trung cổ và đầu Thời Hiện đại, và so sánh chúng với những khả năng sẵn có cho chúng ta ngày nay. Máy tính, internet, e-mail và điện thoại di động – chỉ nhắc đến bốn thứ – làm tăng tốc độ thông tin bên ngoài đến với những người muốn theo hình mẫu bên ngoài lên rất nhiều lần. Công nghệ mới này đã đóng góp cho nhịp độ được tăng tốc của việc xuất bản và phổ biến các quy định và các chuẩn mới.
Mặc dù đã có sự tụt hậu không thể tin nổi về sự phổ biến của “công nghệ cao” trong khu vực này trước chuyển đổi, tốc độ phát triển của nó đã được tăng tốc đáng kể. Đúng là, sự phổ biến của máy tính và việc dùng internet vẫn còn tương đối thấp.[13] Tuy nhiên, có vẻ chắc chắn rằng, thông tin đến với những người ra quyết định và với những người tạo dư luận khá nhanh chóng và các phương tiện thông tin đại chúng có khả năng truyền đạt nhanh chóng đến hàng triệu người.
2.6. Đánh giá đầu tiên: thành công có một không hai
Tôi tin, rằng cái đã xảy ra ở Trung Đông Âu trong một thập kỉ rưỡi vừa qua, là một thành công độc nhất vô nhị trong lịch sử. Tôi tin điều này, bất chấp sự thực rằng tôi hoàn toàn biết rő nó kéo theo nhiều đau buồn và thất vọng như thế nào – một vấn đề mà tôi sẽ đề câp ngay trong nửa sau của tiểu luận. Như thế, để chính xác hơn một chút, đây là đánh giá của tôi: bất chấp các vấn đề nghiêm trọng và những bất thường – đánh giá tình hình từ viễn cảnh của những thay đổi lịch sử lớn – cái đã xảy ra ở phần này của thế giới, là một thành công.
Niềm tin chắc chắn của tôi dựa trên thang giá trị xác định Những người khác, đặt cơ sở cho những đánh giá của họ trên thang giá trị khác, có thể không tán thành.
Trên một thang giá trị, tôi đặt giá trị của nền dân chủ và của các quyền con người lên vị trí đầu tiên. Có lẽ bởi vì — cùng với nhiều bạn đương thời của tôi ở Trung Đông Âu — tôi đã trải qua nhiều hình thức chuyên chế khác nhau, trong đó chúng tôi đã trải nghiệm sự bị tước các quyền dân sự hoàn toàn hay những sự hạn chế các quyền con người gây nhục nhã, sự phân biệt đối xử tàn bạo theo các tiêu chuẩn khác nhau. Vì thế tôi có những ác cảm mạnh đối với các lí lẽ so sánh thành tích của Trung Quốc với thành tích của khu vực Trung Đông Âu, nhấn mạnh một cách thiên vị và phiến diện tăng trưởng kinh tế cao hơn nhiều của nó. Đúng là tốc độ tăng trưởng ở khu vực Trung Đông Âu thấp hơn của Trung Quốc rất nhiều, thế nhưng vẫn đáng trân trọng và, như tôi đã chỉ ra ở trên, nhịp độ là nhanh hơn so với thập niên cuối của chế độ trước. Tôi yên phận với tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhịp độ nhảy vọt của Trung Quốc chừng nào nó gắn với sự tôn trọng nền dân chủ và các quyền con người! Tôi thừa nhận rằng có những người không nhìn thế giới theo cách này và tin là có thể bõ từ bỏ, hay trì hoãn, nền dân chủ trong một thời gian không xác định nếu đây là cái giá của sự tăng trưởng kinh tế nhanh.
Nhiều khi, các thể chế chính trị của nền dân chủ có thể cản trở một cách khó chịu việc tập trung các năng lực của nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng, cũng như việc thực hiện mạnh mẽ những cải cách gắn với những biến động lớn hơn. Trong con mắt tôi, những ưu điểm của các quyền tự do lớn hơn do nền dân chủ cung cấp bù lại xa các mặt hạn chế này. Đối với những người Trung Đông Âu, sự thực rằng hội nhập với EU hoạt động như một lực tạo ổn định cả trong lĩnh vực chính trị và trong nền kinh tế, tạo thuận lợi cho việc thiết lập nền dân chủ.
Tôi coi biến đổi của khu vực Trung Đông Âu như một thành công bởi vì nó đã thiết lập nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong một khung thời gian lịch sử ngắn, bằng cách ấy lại đặt các quốc gia của chúng ta vào diễn tiến dẫn tới hướng chính của lịch sử. Không phải tôi “yêu” chủ nghĩa tư bản. Không phải nó là một hệ thống rất dễ thương. Tôi đánh giá cao những tính chất của nó mà không thể thiếu được để thực hiện các giá trị tôi cho là của mình. Về dài hạn, những ưu điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản cũng sẽ được thể hiện ở khu vực Trung Đông Âu: một tốc độ tăng trưởng bền vững của sản xuất, hiệu suất và tiêu dùng cao hơn tốc độ quan sát thấy dưới hệ thống xã hội chủ nghĩa, đổi mới kĩ thuật, tinh thần kinh doanh và cùng với những cái trên, một mức thịnh vượng ngày càng tăng cho toàn bộ xã hội. Tôi cũng coi các giá trị của tăng trưởng kinh tế và tăng mức sống mà nó mang lại là các giá trị căn bản. (Tuy, không cực đoan và phiến diện đến mức, như những người sẵn sàng từ bỏ nền dân chủ vì nó.) Ngoài lí lẽ vì sự tăng vật chất, có một lí lẽ khác đã được nhắc tới trước đây: chính sự tồn tại của hệ thống tư bản chủ nghĩa là một điều kiện không thể thiếu được cho một nền dân chủ hoạt động. Những lợi ích này theo thang giá trị của tôi chiếm ưu thế hơn những bất lợi của chủ nghĩa tư bản. Tôi thừa nhận rằng có những người cân nhắc các lợi thế và bất lợi theo cách khác.
Và cuối cùng, tôi coi sự biến đổi của khu vực Trung Đông Âu là một thành công bởi vì nó xảy ra một cách hòa bình, không có bạo lực. Kinh nghiệm sống của riêng tôi hẳn đã cho cảm tưởng tạo thành các quan điểm của tôi liên quan đến việc này. Tôi đã trải qua một cuộc Chiến tranh Thế giới, những sự săn lùng đẫm máu, các chế độ độc tài cứng rắn và mềm, các chiến dịch trả thù và hành hình không có xét xử, việc hành hình và bỏ tù những người bạn. Đã đủ rồi! Đối với tôi, đặc biệt có giá trị là lần này máu đã không chảy, đã chẳng có ai bị giết hay bị bỏ tù. Tôi thừa nhận rằng có những người nhìn các thay đổi này theo cách khác. Họ tin rằng sự thay đổi đã có thể xảy ra sớm hơn giả như chế độ trước đó bị đánh đổ sớm hơn, cho dù cả bằng vũ khí. Có những người chỉ trích sự thiếu trừng phạt những kẻ phạm tội và trả lại công lí.
Sự thực rằng các tác động bên ngoài đã đóng vai trò lớn giữa những động lực đứng đằng sau những thay đổi này không làm thay đổi ý kiến thuận lợi của tôi. Các tác động nước ngoài, như trí thức, kinh nghiệm, văn hoá và vốn đã chảy vào các nước Trung Đông Âu, làm cho họ có khả năng hội nhập tốt hơn vào EU và vào một thế giới toàn cầu hoá. Tôi biết điều này làm bực mình một số người, vì họ lo bảo vệ các truyền thống dân tộc. Họ cũng có thể bị quấy rầy bởi sự thực rằng tất cả những thứ này không thể tránh khỏi sẽ tạo ra những giới hạn đối với chủ quyền chính trị của riêng các quốc gia. Tôi thú nhận rằng chúng ta đối mặt với một sự đánh đổi, một trade-off, khó khăn.
Tôi đã cố gắng bày tỏ một cách cởi mở và không vòng vo sự xếp hạng các giá trị tạo cơ sở cho phán xét riêng của tôi. Tôi không làm điều này vì mục đích để tôi lí lẽ ủng hộ nó. Không có chỗ ở đây cho sự tranh luận duy lí, cái mà các nhà kinh tế chúng ta luôn luôn thử làm. Có những quan niệm siêu-duy lí (meta-rational), các niềm tin và những mong mỏi ẩn giấu đằng sau những đánh giá này — và ở khía cạnh này, không thể tránh khỏi rằng sẽ có ý kiến khác nhau giữa các cá nhân có những thế giới quan khác nhau. Ngay cho dù — từ viễn cảnh của các sự kiện lớn của lịch sử thế giới — giả như chúng ta có thống nhất về cái thực sự đã xảy ra ở khu vực Trung Đông Âu, chúng ta không thể tính đến đồng thuận, rằng chúng ta đánh giá nó như thế nào.
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp
 

 


* Bài phát biểu của Chủ tịch, trình bày tại Hội nghị Thế giới lần thứ 14 của Hội Kinh tế Quốc tế tại Marrakech, Morocco ngày 29-8- 2005, với nhan đề: The Great Transformation of Central Eastern Europe: Success and Disappointment. Được soát lại tháng 2-2006, và được in bằng tiếng Hungary trên Közgazdasági Szemle, LII. évf., 2005, december (pp. 907-936). Bản tiếng Việt dựa vào cả hai bản này.
Tác giả biết ơn Zdenek Kudrna, đã giúp công việc của tôi bằng thu thập số liệu cẩn trọng và các bình luận hữu ích, Philippe Aghion, Zsuzsa Dániel, Jean-Paul Fitoussi, Stephan Haggard và Gérard Roland, những người đã bình luận về phiên bản đầu tiên của bản thảo, cũng như Tamar Gendler, Noémi Peter, Katalin N. Szabó, László Szimonisz, László Tóth, István Gy. Tóth và János Varga, những người đã giúp trong nghiên cứu tạo nền và trong biên tập và dịch bản thảo.
[1]Đã có nhiều tài liệu được EU ủy quyền để đánh giá trạng thái của các nước ứng viên. Như thế, thí dụ, ngay trước gia nhập, một ấn phẩm có nhan đề Báo cáo Kiểm tra Toàn diện [Comprehensive Monitoring Report] (European Commission, 2004) được hoàn tất. Một tổng quan tốt về chủ đề này có thể thấy trong các Báo cáo Chuyển đổi của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu (xem, thí dụ, EBRD, 2002).
Tôi nhắc đến một số công trình mới đây của các tác giả hàn lâm thường được các chuyên gia trích dẫn: Campos và Coricelli (2002), Csaba (2005), Kolodko (2000), Kornai (2000), Roland (2000), Stiglitz (1999) và Svejnar (2002).
[2] Không trong khuôn khổ của bài trình bày của tôi để cung cấp một định nghĩa cho cụm từ “nền văn minh phương Tây”, hay để liệt kê các tính chất của nó hay để vạch ra các ranh giới của nó. Tôi dùng cụm từ này chỉ theo cách khêu gợi. Vì không thuộc về chủ đề phân tích của mình, tôi để ngỏ vấn đề, liệu bên ngoài khu vực thường được nhắc đến như “nền văn minh phương Tây”, các xu hướng được phác họa trong tiểu luận này đã xuất hiện rồi hay sẽ xuất hiện trong tương lai.
Sự phổ biến của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được nhấn mạnh chủ yếu bởi các trường phái Marxist và tân-Marxist khác nhau (xem, thí dụ, Brenner, 1976, và các tài liệu về cái gọi là “Tranh luận-Brenner-[Debate]”). Các trào lưu khác của khoa học lịch sử, như các đại diện của trường phái Pháp Biên niên [Annales], cũng thừa nhận và cho xu hướng này là quan trọng. Tôi dẫn chiếu chủ yếu đến các tác phẩm của Fernand Braudel (1972-1973, 1992), cũng như đến các bài viết của Immanuel Wallerstein (1974, 1979) trong đó ông đã kết hợp các ý tưởng của Braudel với những phát hiện của các trường phái tân-Marxist.
[3] Trong vài công trình khác của mình, thí dụ trong Hệ thống Xã hội Chủ nghĩa (1992, 2002) tôi đã cố cho một định nghĩa cô đọng hơn. Tôi thỏa mãn ở đây với sự mô tả lỏng lẻo hơn về “chủ nghĩa tư bản”, để cũng “vừa hợp” với các định nghĩa, và tránh tranh cãi về khái niệm.
[4] Tôi nhắc đến vài công trình, trong đó các nhà sử học trình bày các lập trường khác nhau của mình về vấn đề định kì nói chung, cũng như đặc biệt về đề tài khởi đầu của thời Trung cổ: Marc Bloch (1989), Jacques Le Goff (1982), Henri Pirenne (1937), và Peter Raeds (2001).
Tôi biết ơn Klaniczay Gábor, người đã giúp tôi có được cái nhìn thấu vào thảo luận của các sử gia khảo sát chính chủ đề này; và bài báo của anh (2001) cung cấp một tổng quan sâu về các tài liệu viết về chủ đề chuyển đổi từ thời Trung cổ sang Thời Hiện đại.
Trong một phỏng vấn, Peter Burke (1990) sử gia Anh nổi tiếng đã tuyên bố: “Chẳng ai có thể thống nhất về khi nào thì bắt đầu thời kì hiện đại ban đầu…” Có lẽ chúng ta với tư cách các nhà kinh tế học và các học giả khác của các khoa học xã hội hiện thời là quá gần các sự kiện và vì lí do đó chúng ta dễ thống nhất về một thứ: sự sụp đổ của bức Tường Berlin được coi là khởi đầu của một thời kì mới trong khu vực. Hay, có lẽ có một độ đồng đều và đồng bộ lớn hơn hiện diện trong các sự kiện so với trong các thời kì trước của lịch sử.
[5] Luxemburg và Tây Đức bị loại ra khỏi bảng do không sẵn có số liệu.
[6] Tôi muốn nêu bật vài tác phẩm từ các tài liệu phong phú: Haggard và Kaufman (2005), Huntington (1991), O’Donnel, Schmitter, và Whitehead (1988), và Przeworski (1991).
[7] Xem, thí dụ Offe (1996) và McFaul (2002).
[8] Schumpeter (1942) đưa vào tiêu chuẩn này, nó đưa ra thủ tục để đạt và mất quyền lực lên địa vị nổi bật vào lĩnh vực triết lí chính trị. Theo diễn giải của Schumpeter, trong tiểu luận của tôi (1998) về thay đổi chế độ hậu xã hội chủ nghĩa, tôi đã nêu bật sự thay thế một chính phủ dựa trên một cuộc bầu cử quốc hội như một kiểm chứng có thể áp dụng tốt về mặt thực tiễn. Trong cuốn sách của bà, Susan Rose-Ackerman (2005) đã gọi rất trúng cách tiếp cận thủ tục như cái gọi là diễn dải “tối thiểu” của nền dân chủ. Về diễn giải của nền dân chủ xem cả Dahl (1971), và thêm Schmitter và Karl (1991).
[9]Về quan hệ giữa nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản, nhiều quan niệm đối kháng nhau gay gắt đã được phát triển. Đối với tôi lí lẽ thuyết phục nhất là lí lẽ, theo đó chủ nghĩa tư bản là điều kiện cần, nhưng không phải là điều kiện đủ của nền dân chủ. Giữa các nhân vật kinh điển của chủ đề này, Hayek (1944) đồng ý với khẳng định này trong khi Schumpeter (1942) nghĩ rằng nền dân chủ có thể tiến hóa mà không có chủ nghĩa tư bản. Xem cả Rueschemeyer, Stephens và Stephens (1992), và Usher (1981) về mối quan hệ này.
[10] Tôi muốn lặp lại rằng các ý tưởng của tôi về các chiều hướng chính được giới hạn cho “nền văn minh phương Tây”. Tôi không có nỗ lực nào để áp dụng khái niệm này một cách máy móc đối với các nền văn minh khác. Phân tích so sánh như vậy nằm ngoài phạm vi của tiểu luận này.
[11] Đây là nhan đề của công trình nổi tiếng nhất của Polányi The Great Transformation (1962).
[12] Liên quan đến đặc trưng số 5, sự biến đổi cách mạng ở Liên Xô đã không xảy ra theo lệnh của những kẻ xâm chiếm nước ngoài mà do cấu trúc quyền lực chính trị trong nước sai khiến. Tình hình ở Đông Âu lại khác, nơi ý chí của lãnh đạo chính trị Soviet tỏ ra là uy quyền quyết định. Không ai có thể từ chối các lệnh của họ do sự hiện diện của các lực lượng quân sự Soviet chiếm đóng.
[13] TV và điện thoại di động là ngoại lệ, cả hai được sử dụng rộng rãi.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114574030

Hôm nay

2267

Hôm qua

2334

Tuần này

21576

Tháng này

221087

Tháng qua

130677

Tất cả

114574030