Những góc nhìn Văn hoá

Tìm hiểu khả năng ứng dụng lý thuyết "trường" vào nghiên cứu đời sống văn học Việt Nam thế kỷ XX

Lý thuyết "trường" là một lý thuyết xã hội học được hình thành tại Pháp vào nửa sau thế kỷ XX. So với văn học Pháp từ giữa thế kỷ XIX cho tới nay có độ tự lập cao ("trường văn học" với các nguyên tắc hoạt động riêng và có các thể chế riêng), rõ ràng là văn học Việt Nam có một quá trình phát triển đặc biệt với những nét độc đáo riêng, nhất là thực tế lịch sử văn học hiện đại chữ quốc ngữ còn rất trẻ so với nhiều nền văn học trên thế giới.

Tuy nhiên, các nghiên cứu cụ thể về văn học Pháp trong nhiều giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau, cũng như về một số nền văn học khác ở châu Âu và trên thế giới1, cho thấy rằng các khái niệm và phương pháp của lý thuyết "trường" có khả năng ứng dụng cụ thể cho bất kỳ một nền văn học hay một nền văn hóa nào. Hội thảo quốc tế « Bourdieu và văn học » sẽ được tổ chức vào ngày 16.5.2009 tại trường Tổng Hợp Warwick tại Anh2 cho thấy ảnh hưởng của lý thuyết này trong nghiên cứu văn học trên thế giới. Điều quan trọng là khả năng sử dụng một cách sáng tạo các khái niệm vào trường hợp cụ thể của văn học Việt Nam.

Lý do thứ hai lý giải cho việc ứng dụng lý thuyết trường là nghiên cứu văn học Việt Nam theo lý thuyết này cho phép tìm hiểu một nền văn học cụ thể trong mối tương quan với các nền văn học trên thế giới, cho phép so sánh và qua đó làm sáng tỏ cái độc đáo của văn học Việt Nam đối với các nền văn học khác. Khung lý thuyết và các khái niệm chung của cùng một hệ thống lý thuyết là cơ sở cho việc nghiên cứu văn học như một nghệ thuật và một hiện tượng xã hội đặc biệt vào các hòan cảnh lịch sử xã hội và ở các quốc gia khác nhau. Thông qua đó có thể thấy cái chung của văn học với tư cách là một nghệ thuật "xuyên biên giới" và "xuyên thời gian", cũng như cái riêng của mỗi nền văn học quốc gia, mỗi thời đại, mỗi nhà văn. Tìm hiểu nghiên cứu văn học ở nước ngoài cũng cho phép so sánh và đưa ra các gợi ý cho nghiên cứu văn học Việt Nam, đồng thời giúp cho văn học Việt Nam có điều kiện tìm tiếng nói chung với cộng đồng quốc tế. Đó là một công việc về lâu dài, nhưng thiết tưởng rất cần thiết cho việc phát triển về lượng cũng như về chất của văn học Việt Nam đương đại. Điều này cũng đã được chỉ rõ trong hội thảo mới đây "Văn học với xu thế hội nhập" do Hội Nhà văn tổ chức ngày 17 và 18.12.2008 và là hội thảo chuyên đề thứ tư do Hội nhà văn tổ chức nhằm triển khai thực hiện nghị quyết số 23 của Bộ Chính Trị về "tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới". Hội thảo đã đề cập tới vấn đề hội nhập trên nền tảng văn hóa dân tộc, đồng thời nhấn mạnh tới việc cần thiết phải giới thiệu nhiều hơn và có chất lượng hơn văn học Việt Nam ra nước ngoài thông qua các bản dịch cũng như nghiên cứu về văn học Việt Nam. Rõ ràng hội nhập là cần thiết và là một thực tế, nhưng hội nhập cũng cần phải được tiến hành trên cơ sở biết mình biết người, nhằm góp phần vào văn hoá thế giới với những tác phẩm vừa có tính dân tộc (cái riêng và độc đáo) vừa có tính nhân loại (cái chung và toàn cầu). Nghiên cứu văn học từ góc độ xã hội học nói chung, và đặc biệt là với công cụ của lý thuyết « trường » (là một lý thuyết đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu văn học) nói riêng như vậy rõ ràng là có tính hiệu quả về trước mắt và lâu dài.
Nhà văn - một nhân vật xã hội mới    
Khái niệm "nhà văn" ngày nay được sử dụng một cách tự nhiên và do đó chúng ta có cảm giác đó là một khái niệm luôn tồn tại. Nhưng thật ra, việc hình thành quan niệm về "nhà văn" là quá trình phát triển lâu dài. Theo nghiên cứu của A. Viala Sự ra đời của nhà văn. Xã hội học văn học thời cổ điển xuất bản tạI Paris năm 19853, "nhà văn" ("écrivain" trong tiếng Pháp) là một khái niệm xuất hiện mới cách đây vài thế kỷ ở châu Âu trong một hòan cảnh lịch sử đặc biệt. Nhiều nhà sử học đã nghiên cứu sự chuyển biến trong việc cảm nhận và đánh giá nhờ đó nghệ thuật phương Tây, từ khỏang 1740 đến 1770, đã đi đến chỗ rời bỏ nguyên tắc mô phỏng và đưa nguyên tắc độc đáo trở thành yếu tố quan trọng nhất của tài năng4. Rõ ràng cuộc cách mạng này có quan hệ với một loại quan niệm về lịch sử như phát triển khoa học về sau này cho thấy, có nghĩa là ý niệm về tiến bộ văn minh không ngừng có cơ sở là các phát hiện khoa học đưa đến các khả năng mới. Theo Roland Mortier thì còn có một số yếu tố nữa, ví dụ như xu hướng tôn vinh sự độc đáo của "thiên tài" (cá nhân hoặc dân tộc) trong nền văn hóa Đức và Anh nhằm cạnh tranh với sự thống trị của nền văn hóa Pháp vốn tự định nghĩa mình như một nền văn hóa kinh điển và mang tính toàn cầu. Nghiên cứu về sự hình thành trường lực văn học Pháp của Pierre Bourdieu cũng quan tâm đến vấn đề hình thành nhân vật nhà văn với một lối sống riêng, với một quan niệm về nghệ thuật cũng như cuộc sống riêng. Vào thế kỷ XIX, Flaubert cũng như Baudelaire không chỉ là những người mở đường cho văn học hiện đại Pháp, là những người đi đầu đấu tranh cho việc công nhận trường văn học Pháp với những quy luật và giá trị riêng của nó, mà họ cũng là những người đưa ra các quan niệm mới và một lối sống mới của nghệ sĩ.Cũng trong hướng nghiên cứu này Anna Boschetti quan tâm tới việc "sáng tạo ra người nghệ sĩ sáng tạo"5, còn Delphine Naudier tìm hiểu đặc trưng của các nhà văn nữ trong "Lối viết - phụ nữ. Một cách tân thẩm mỹ có tính biểu tượng"6.
Nhìn rộng hơn thì nhiều nghiên cứu trong nửa cuối thế kỷ XX đã cho thấy rằng không chỉ trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà trong mọi lĩnh vực của tư tưởng, các khái niệm đều là sản phẩm mang tính xã hội và lịch sử. Nói khác đi, ngay cả khoa học cũng không phải là một chân lý bất di bất dịch mà là kết quả của một hoàn cảnh văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị. Trong lĩnh vực này, rõ ràng các nghiên cứu của nhà triết học ngườI Pháp Michel Foucault có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông đã chứng minh rằng các khái niệm (concept) trong mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần – văn hóa, kinh tế, khoa học - đều là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt7. Nói cách khác là vào mỗi thời điểm lịch sử và ở trong một nền văn hóa, con người tư duy theo một hình thức nhất định : mọi tư tưởng đều có tính xã hội và lịch sử. Mỗi lần thay đổi hệ thống tư duy đó là cả một cuộc cách mạng về tư tưởng. Trong cùng mạch nghiên cứu đó Michel Foucault đã làm rõ rằng khái niệm "tác giả", trong đó có nghệ sĩ và nhà văn, là một khái niệm có một lịch sử phát triển với nhiều thay đổi về nội dung nghĩa8. Điều này cũng liên quan tới sự công nhận của quyền tác giả ở châu Âu từ thế kỷ XIX (Công ước Berne) với một quan niệm đặc biệt về tác giả là người có quyền tối cao đối với văn bản của mình. Các nhà nghiên cứu xã hội học văn học người Pháp Johan Heilbron và Gisèle Sapiro9 đã chỉ ra rằng quan niệm này được truyền bá và dần dần được chấp nhận trên thế giới, nhưng quyền tác giả ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá và đặc biệt là với sự ảnh hưởng của văn hoá Mỹ, được cộng đồng quốc tế công nhận về cơ bản, nhưng đã có thay đổi quan trọng ở chỗ quyền tác giả trở nên một quyền có thể được chuyển nhượng. Tác phẩm văn học như vậy ngày nay được quan niệm như một thứ hàng hoá lưu thông trên thị trường thế giới.
Trên cơ sở các nghiên cứu mới về lịch sử văn học nói riêng, lịch sử tư tưởng châu Âu nói chung, nhiều vấn đề của văn học Việt Nam có thể được nghiên cứu và qua đó đóng góp vào nghiên cứu các nền văn học trên thế giới. Rõ ràng là khái niệm "nhà văn" trong xã hội Việt Nam, thậm chí bản thân vỏ ngôn từ "nhà văn" trong tiếng Việt, mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu. Trong hệ tư tưởng Nho giáo không có chỗ đứng cho "nhà văn" theo cách hiểu ngày nay. Có thể nói rằng khái niệm này đã được hình thành và phát triển trong giai đoạn thuộc Pháp, dưới ảnh hưởng của văn hóa Pháp nói riêng, văn hóa phương Tây nói chung. Ở đây vấn đề không phải là đưa ra đánh giá tốt xấu, mà mục đích là tìm hiểu một hiện thực lịch sử, cụ thể là quá trình trao đổi và giao thoa giữa hai nền văn hoá Pháp và Việt, rộng hơn là văn hoá phương Tây và phương Đông. Đã có nhiều nghiên cứu công phu, ví dụ như nghiên cứu của các tác giả Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng về văn học giai đoạn giao thời (1900-1945)10. Trên cơ sở lý thuyết trường lực, ta có thể đưa ra nhiều vấn đề đã được nghiên cứu nhưng có thể được soi sáng dưới một góc độ khác, đặc biệt với sự đóng góp của các tri thức liên ngành trong đó xã hội học và lịch sử đóng vai trò quan trọng. Ở đây có thể lấy ví dụ về vấn đề đời sống văn học giai đoạn Pháp thuộc
Sự hình thành của khái niệm "nhà văn" và các khái niệm lân cận như « nghệ sĩ » « tác giả », hoặc thậm chí "nhà báo" là một đề tài hay. Đối với người đương thời chúng hàm nghĩa gì và có gì khác nhau hoặc giống nhau giữa các khái niệm đó ? Các nhà văn quan niệm công việc của mình như thế nào ? "Viết, phải viết thôi…" như Nguyễn Tuân trong  Cát bụi chân ai  của Tô Hoài có nghĩa việc « viết » là lý do sống chăng ? « Nhà văn » hoặc « nghệ sĩ » có phải là một nghề chuyên môn không và người đương thời quan niệm các nghề đó như thế nào ? Quan niệm về nghề văn đi đôi với quan niệm về chức năng của người viết : nhà văn có chức năng nghệ thuật, xã hội, thậm chí chính trị như thế nào ?  Quan hệ của người làm nghề văn đối với xã hội là một đề tài quan trọng : họ có vai trò gì trong xã hội và có địa vị xã hội như thế nào ? Từ « nhà văn » đến « trí thức » lộ trình cụ thể ra sao ?  Truyền thống Nho học có vai trò gì trong việc tạo điều kiện cho sự phát triển của « nhà văn » ? Ví dụ nhân vật "nhà nho tài tử" có ảnh hưởng như thế nào ? và Tản Đà là người đứng ở vị trí trung gian cụ thể như thế nào ? Khi Phan Khôi phê phán văn hoá Việt Nam chỉ sản xuất ra các "thợ thơ", điều đó có nghĩa như thế nào ? Ở đây có thể thấy ảnh hưởng của văn hoá và văn học Pháp nói riêng, phương Tây nói chung, cũng như ảnh hưởng của môi trường văn hóa (ví dụ hội họa Việt Nam với sự thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương có nhiệm vụ đào tạo ra các « nghệ sĩ » và sự đón chào của giới hội họa phương Tây đối với những « nghệ sĩ » Việt Nam đầu tiên, nhất là vào dịp Hội chợ 1931 tại Paris. Trong phần sau sẽ có điều kiện đề cập tới ảnh hưởng của các trường văn hoá khác tại Việt Nam, cũng như trường văn học và nghệ thuật Pháp, vào sự hình thành của nhân vật nghệ sĩ nhà văn.
Vấn đề chuyên nghiệp hoá nghề viết văn và sự xuất hiện của các nhà văn chuyên nghiệp sống bằng nghề viết, vì nghề viết, với các giá trị riêng là một vấn đề lớn. Câu hỏi được đặt ra là họ xuất hiện vào thời điểm nào và trong hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể nào. Nói khác đi là họ sống thế nào và sống được bằng nghề viết như thế nào.  Câu hỏi này sẽ được đề cập tới ở phần sau nói về văn học như một quá trình sản xuất và như thị trường. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh tới một khía cạnh quan trọng của lý thuyết trường, cụ thể là các nghiên cứu về tư tưởng (ví dụ như khái niệm về nghề văn) luôn phải được tiến hành đồng thời với các nghiên cứu về các điều kiện xã hội và kinh tế cho phép sự xuất hiện của khái niệm đó. Trong nghiên cứu của Bourdieu, có khái niệm về « không gian những cái có thể » (espace des possibilités) là một không gian các quan hệ xã hội, kinh tế, tư tưởng là cơ sở tồn tại của nhà văn : ví dụ như sự phát triển nhà trường Pháp Việt, báo chí, người đọc, thị trường xuất bản và phát hành, quan hệ với không gian văn hoá Pháp, cũng như chính sách thuộc địa đưa đến việc lĩnh vực văn hoá (hợp pháp) là lĩnh vực được cho phép phát triển (mà không phải là lĩnh vực kinh tế bởi các nhà tư bản người Việt có thể cạnh tranh trực tiếp với các công ty Pháp chẳng hạn), v.v.
Khi số người sống bằng nghề viết đủ nhiều để có thể tạo thành một môi trường riêng, câu hỏi được đặt ra là họ có quan hệ như thế nào với nhau. Nghiên cứu giới nhà văn từ góc độ xã hội học không chỉ có nghĩa là tìm hiểu một nhà văn riêng biệt có quan hệ văn thơ hay bạn bè đối với một nhà văn nào đó, mà còn cần phải tìm hiểu toàn bộ đời sống văn học như một hệ thống quan hệ, có nghĩa là mỗi hành động cá nhân hay tập thể đều có hậu quả đối với tổng thể. Vấn đề này sẽ được đề cập tới ở phần sau, nhưng ở đây cần phải nhấn mạnh tới việc mỗi « nhà văn » khi hành động đều nằm trong nhiều mối quan hệ với toàn thể giới nhà văn, « làng văn », và qua đó ta có thể tìm hiểu sự hình thành quan niệm về « văn học » và về « nhà văn » của mỗi nhà văn cụ thể trong một bối cảnh lịch sử riêng.
Văn học như một quá trình sản xuất và một thị trường sản phẩm
Như đã nói ở trên sự xuất hiện của nhà văn chuyên nghiệp có quan hệ mật thiết với sự hình thành một thị trường cho phép nhà văn có thể sống bằng (và vì) việc viết. Quan tâm đến việc viết văn như một quá trình sản xuất cũng có nghĩa là đứng từ góc độ xã hội học coi văn học như một hiện tượng xã hội rõ ràng có tính đặc trưng riêng, nhưng có thể nghiên cứu như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào khác.  Nói khác đi thì « cảm hứng » bắt nguồn từ sự can thiệp của các « Nàng Thơ » nào ? Đồng thời điều này cũng có nghĩa là đồng thời với việc tìm hiểu trường văn học, còn cần nghiên cứu trường sản xuất văn hóa với các tác nhân đa dạng như nhà văn, nhà xuất bản, các cơ quan thể chế, v.v. nằm trong mối tương quan.
Trong nghiên cứu về trường văn học Pháp, sau khi tìm hiểu quá trình hình thành trường văn học tự lập, Pierre Bourdieu đã dành một chương để tìm hiểu "trường sản xuất văn hóa" tại Pháp vào cuối thế kỷ XIX và thế kỷ XX. Nhà nghiên cứu Anna Boschetti, trong tác phẩm về nhà thơ Appolinaire, cũng dành nhiều nhận xét về thị trường sản phẩm văn hoá Pháp và ảnh hưởng của nó đến hoạt động của giới văn, cũng như quá trình « học nghề văn » của Appolinaire11. Bà cho rằng cần tính đến tính thống nhất từ rất sớm và tính tập trung rõ nét của thị trường văn hóa Pháp : « Thật vậy việc các nhà sản xuất (và các thể chế cho phép họ có khả năng xuất bản và được nổi tiếng) tập trung ở Paris, có vai trò không nhỏ trong lịch sử hình thành và phát triển trường lực văn học. Sự gần gũi về mặt địa lý giúp cho các quan hệ giữa các cá nhân có điều kiện phát triển, cũng như họ có thể giao lưu, tập hợp trong một tổ chức, hay cạnh tranh một cách dễ dàng hơn, đồng thời sự gần gũi này đưa đến kết quả là các cá nhân trong trường nhận thức được thực tế là ở trong xã hội họ thuộc về một xã hộI riêng biệt có các giá trị và có lối sống riêng. Các nhà văn có nhận thức rất rõ rệt về vai trò và chức năng của mình và điều đó cho phép lý giải việc họ cho mình có quyền tối cao trong thực hành nghề của mình. Đó cũng là giả định của một truyền thống văn hóa Pháp khác là nhân vật "trí thức" được dần dần xây dựng thông qua một loạt các trường hợp điển hình : việc các nhà văn tự coi mình là ý thức phê bình của xã hội có cơ sở là sự tự lập và tính chính đáng mà họ đã đạt được »12.
Vai trò của các tác nhân trong thị trường văn học không chỉ đơn giản là kinh tế, nghĩa là cho phép các nhà văn sống được bằng nghề viết. Thật vậy, quá trình hình thành một quan niệm không phải là hiển nhiên, dễ dàng. Để cái mới có thể tìm được chỗ đứng, các nhà xuất bản thường phải có các chiến lược, đường lối được hình thành một cách có ý thức hoặc đôi khi không hoàn toàn có ý thức, nhưng luôn có liên quan mật thiết với trạng thái của trường văn học và các vị thế trong trường.
Quay về trường hợp văn học Việt Nam, có thể tiếp tục lấy ví dụ văn học nửa đầu thế kỷ XX. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong giai đoạn này báo chí phát triển mạnh mẽ với số lượng tăng rất nhanh13 ; đó là trường hợp đặc biệt ở Việt Nam so với nhiều thuộc địa khác. Văn học hiện đại Việt Nam bước đi những bước đi đầu tiên trên các tạp chí văn hoá, rồi sau đó các nhà xuất bản mới xuất hiện. Nghiên cứu văn học như một quá trình sản xuất cần quan tâm đến hệ thống sản xuất sản phẩm văn học, cũng như các tác nhân tham gia quá trình sản xuất, phát hành và lưu thông sản phẩm, cuối cùng là các « độc giả » ở đây đóng vai trò người tiêu dùng.
Các câu hỏi có thể được đặt ra trước hết có đối tượng là hệ thống sản xuất. Ví dụ, lịch sử báo chí và xuất bản ở Việt Nam thời thuộc Pháp gắn liền với lịch sử báo chí và xuất bản ở Pháp, đồng thời với chính sách của chính quyền thuộc địa ; nhưng tình hình ở Pháp cũng như chính sách ở thuộc địa có ảnh hưởng trực tiếp như thế nào tới sự hình thành và phát triển một thị trường sách báo tại Việt Nam ? Rõ ràng là Đông Dương tạp chí, cũng như Nam Phong, xuất hiện và tồn tại được là do được chính quyền thuộc địa cho phép và tài trợ, nhưng sau đó Annam nouveau, tạp chí tiếng Pháp cũng của Nguyễn Văn Vĩnh chắc hẳn đã không có mấy quan hệ với chính quyền, và Tự Lực văn đoàn thì đã hoàn toàn là một văn đoàn độc lập không có tài trợ của chính quyền. Quá trình này cần phải được nghiên cứu chi tiết hơn nhằm góp phần hiểu rõ hơn việc hình thành một thị trường mới này. Đồng thời quan hệ giữa các nhà xuất bản và tạp chí với nhau, cũng như quan hệ giữa họ với chính quyền thuộc địa, đặc biệt là các cơ quan kiểm duyệt, cũng cần được nghiên cứu trong mối tương quan lẫn nhau.
Đối tượng quan tâm thứ hai là các tạp chí và các nhà xuất bản. Họ hoạt động như thế nào ? với chiến lược xuất bản và phát triển ra sao ? thời gian một chu trình sản xuất ? giá tiền nhuận bút ? vấn đề lợi nhuận ? cao hay thấp, được tính toán với tầm nhìn xa hay gần ? quan hệ giữa lợi ích kinh tế và giá trị nghệ thuật ? ví dụ các nghiên cứu trường hợp về các nhóm văn học như Tự Lực văn đòan, hoặc về sau là Tao Đàn, Tri Tân, Thanh Nghị v.v. có thể cho phép tìm hiểu và phân tích ở cấp độ tinh hơn phương thức hoạt động và chiến lược của mỗi nhóm, mỗi tạp chí hoặc nhà xuất bản. Ngoài ra cũng cần phải quan tâm đến các cuộc thi văn học và các giải thưởng văn học. Vào giai đoạn thuộc địa Pháp so với ngày nay, có lẽ các giải thưởng này chưa có vai trò quan trọng lắm đối với sự nghiệp của một nhà văn, cũng như của một nhà xuất bản ; tuy nhiên đó cũng là một bộ phận của bộ máy kinh tế văn học cần được quan tâm đến.
Đương nhiên nhà văn với tư cách là người sản xuất trực tiếp ra sản phẩm là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt. Đứng từ góc độ này ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi nhằm tìm hiểu thái độ của nhà văn đối với thị trường văn hoá. Nhà văn có lôgic kinh tế nào ?  việc thị trường yêu cầu một loại sản phẩm với các tính chất nhất định có ảnh hưởng đến quá trình sáng tác của nhà văn hay không ? Việc sáng tác văn học đã trở thành một nghề đối với nhiều nhà văn vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là một cản trở hay một sự giải phóng đối với nhà văn ? Câu hỏi đặt ra với nhiều nhà văn trên thế giới vào nhiều thời điểm lịch sử là « viết để sống » hay « sống để viết ».
Việc văn học trở nên một thị trường cũng có ảnh hưởng tói vấn đề thể loại. Ví dụ trong giai đoạn Mặt trận bình dân, rõ ràng phóng sự là một thể loại cho phép vẽ nên bức tranh xã hội nhằm đáp ứng cho một nhu cầu của xã hội và của giới trí thức lúc đó. Nhưng có lẽ là phóng sự cũng là một thể loại cho phép viết nhanh đáp ứng nhu cầu sản xuất quay vòng nhanh của thị trường báo chí.
Cuối cùng độc giả là một đối tượng nghiên cứu có thể được tiếp cận ở đây qua các số liệu và các phương pháp thống kê. Vào nửa đầu thế kỷ XX việc phổ biến chữ quốc ngữ và phát triển nhà trường Pháp Việt dẫn đến việc hình thành một số lượng độc giả tương đối lớn. Độc giả như vậy là cơ sở của việc hình thành và phát triển các tạp chí và nhà xuất bản và tiếp đó là nhà văn với tư cách một ngành nghề chuyên môn mới. Trong nghề văn mới hình thành và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ này tất cả các nhà văn đều nằm trong một mạng lưới các quan hệ qua lại. 
Văn học như một hệ thống quan hệ      
Văn học như một quá trình sản xuất cho phép trả lời một cách khá dễ dàng cho câu hỏi : Ai là nhà văn ? Tuy nhiên, nhà văn được ghi tên vào sử sách là cả một vấn đề phức tạp của văn học sử. Trong lý thuyết trường lực, vấn đề quan hệ giữa các tác nhân và các vị thế có vai trò quan trọng. Bourdieu nhấn mạnh nhiều lần đến việc cần nghiên cứu các nhà văn trong một tổng thể nhằm phát hiện cấu trúc trường. Khác với lịch sử văn học chỉ ghi nhận lại những tên tuổi nhà văn đã làm nên "lịch sử", nghiên cứu văn học theo hướng xã hội học trường lực quan tâm đến toàn bộ giới nhà văn, cả những người không nổi tiếng, hoặc những người nổi tiếng vào thời của họ nhưng không được ghi tên vào lịch sử. Bởi lịch sử văn học làm cho "chúng ta mất đi cái quan trọng nhất, cái độc đáo và vĩ đại của những người được ghi tên khi chúng ta không có khái niệm về xã hội những người đương thời với họ, bởi họ thực hiện những ý tưởng của mình cùng hoặc chống lại những người đó. Các tác giả không thành công, hoặc thành công nhờ những tác phẩm kém, bị xóa tên và đơn giản là không tồn trong lịch sử văn học, nhưng lại có vai trò quan trọng cho việc nghiên cứu trường lực bởi hai lý do : việc họ thuộc về trường văn học cho phép nhận biết hoạt động của trường và đánh dấu biên giới của trường, đồng thời chỉ riêng sự tồn tại của họ trong trường, cũng như các phản ứng mà họ gây ra, cũng làm thay đổi hoạt động của trường. Nhà nghiên cứu chỉ biết đến các tên tuổi được lịch sử văn học công nhận có đủ điều kiện được lưu tên, là người không thể tránh khỏi việc nhận thức và lý giải thích dưới một hình thức về bản chất là hoàn toàn sai lầm : anh ta chỉ có thể ghi nhận (một cách không có ý thức) các hiệu quả mà các tác giả không được ghi tên gây ra (bởi lôgic hành động - phản ứng)  đối với các tác giả mà anh ta có ý đồ nghiên cứu và chính là người tham gia vào việc làm biến mất (bằng việc phản ứng chống đối một cách tích cực) tên tuổi các nhà văn hạng tồi ; anh ta tự hạn chế và không cho phép mình tìm hiểu một cách thấu đáo những yếu tố trong tác phẩm của các nhà văn được lưu danh là kết quả (cũng như sự phản ứng nói trên) không trực tiếp của sự tồn tại và hành động của các tác giả đã biến mất khỏi lịch sử. Ta có thể thấy điều này một cách rõ ràng trong trường hợp một nhà văn như Flaubert là người tự xác định mình và xây dựng sự nghiệp văn học của mình trong (và nhờ có) một loạt các phản ứng phủ nhận đúp mà ông đã thực hiện đối với các phong cách hoặc tác giả vốn đối lập với nhau – ví dụ như phủ nhận chủ nghĩa lãng mạn nhưng cũng phủ nhập chủ nghĩa hiện thực, phủ nhận Lamartine nhưng cũng phủ nhận Champfleury, v.v."14
Trường hợp của Flaubert và ý đồ nghệ thuật của ông là một ví dụ điển hình. Theo Bourdieu, có thể nói rằng Flaubert trở nên Flaubert bởi ông không chấp nhận "nghệ thuật thị dân" (art bourgeois) của thời đại ông, thời đại mà tiền bạc thống trị mọi lĩnh vực xã hội và là cơ sở cho sự phát triển của một xu hướng nghệ thuật xu nịnh thị hiếu của khán giả và sống nhờ vào các thành công thương mại, nhất là trong lĩnh vực sân khấu kịch. Nhưng đồng thời, ông cũng không chấp nhận xu hướng "hiện thực" (réaliste) ở cực đối lập với "nghệ thuật thị dân" và nối tiếp "nghệ thuật xã hội" (art social)15 coi mình  như tiếng nói của những người dân nghèo khổ và ca ngợi "đức hạnh của những người bị áp bức"16. Trong mối tương quan có tính phủ nhận đối với các vị trí này, một vị trí thứ ba được hình thành, đó là vị trí của xu hướng văn học "nghệ thuật vì nghệ thuật" mà Flaubert là một đại diện tiêu biểu.
Vị trí (position) thứ ba này không phải là một vị trí có sẵn như hai vị trí trên là những vị trí "được hình thành trong chính lôgic hoạt động xã hội thông qua các chức năng xã hội mà chúng thực hiện hoặc đòi hỏi"17. Cần nhắc lại rằng gia đình Flaubert thuộc về tầng lớp thượng lưu, nhưng ông hoàn toàn phủ nhận văn hóa và lối sống thị dân, đồng thời cũng không vì thế mà chấp nhận lối sống của người bình dân. "Nghệ thuật vì nghệ thuật" là "một vị trí cần phải được xây dựng" hoàn toàn không có vị trí tương đương trong trường lực quyền lực, nó có thể không tồn tại và đáng lẽ nó không thể tồn tại. Mặc dù trong khoảng không các vị trí đã tồn tại có chỗ cho nó xuất hiện, nhưng đó chỉ là một khả năng mà thôi, mặc dù một số nhà thơ lãng mạn đã bước đầu phác thảo nên yêu cầu về một vị trí như thế, những người có dự định đoạt lấy vị trí đó chỉ có thể làm cho nó tồn tại bằng cách xây dựng một trường lực mà trong đó nó có thể có chỗ đứng, có nghĩa là làm một cuộc cách mạng trong thế giới nghệ thuật phủ nhận nó. Họ phải sáng tạo ra, bằng cách đối lập với các vị trí đã tồn tại và vị thế của những người ở các vị trí ấy, tất cả các đặc trưng của vị trí thứ ba chưa từng tồn tại ấy, và đầu tiên là nhân vật xã hội chưa từng có, có nghĩa là nhà văn hoặc nghệ sĩ hiện đại, người viết văn hoặc làm nghệ thuật một cách chuyên nghiệp, cống hiến tất cả thời gian và công sức cho công việc này một cách chuyên tâm, hoàn toàn không để ý tới các đòi hỏi chính trị hay yêu cầu đạo đức, và hoàn toàn không công nhận bất kỳ một tòa án nào ngoài luật riêng của nghệ thuật"18.
Thái độ của Flaubert tuân theo lôgic đặc biệt này trong mọi hoàn cảnh và mọi lĩnh vực xã hội hoặc nghệ thuật. "Công thức này có thể được thể hiện như sau : tôi ghét X. (là một nhà văn, một kiểu cách, một trường phái, một lý thuyết, v.v. ví dụ ở đây là chủ nghĩa hiện thực và Champlfleury), nhưng tôi cũng ghét không kém cái đối lập của X. (ở đây là chủ nghĩa lý tưởng giả tạo của Augier hoặc Ponsard là những người cũng ghét X. như tôi, nhưng đồng thời cũng đối lập với chủ nghĩa lãng mạn như Champlfeury). Flaubert viết về tiểu thuyết Bà Bôvary như sau : "Người ta tưởng tôi yêu hiện thực, trong khi tôi ghê tởm nó. Bởi căm ghét chủ nghĩa hiện thực mà tôi viết tiểu thuyết này. Nhưng tôi cũng ghét không kém lý tưởng giả tạo mà chúng ta đều phải chịu ảnh hưởng trong thời đại ngày nay"19". Đó có thể được coi là công thức cơ bản của của thái độ của Flaubert, dưới "một hình thức được biến đổi của các đặc tính có tính đối lập của vị trí này" và là công thức cho phép tìm hiểu một cách thấu đáo các sáng tạo nghệ thuật trong tác phẩm của Flaubert.
Điều này có thể cho phép lý giải việc Flaubert viết Bà Bôvary về một câu chuyện ngoại tình ở tỉnh lẻ, một đề tài rất gần với tiểu thuyết hàng kỳ được nhiều người đọc của Champfleury Những thị dân ở Molinchart (Les Bourgeois de Molinchart). Thật vậy, Flaubert rất có thể lợi dụng cơ hội này để khẳng định sự khác biệt của mình. Ông đã nói như sau : "Tôi viết Bà Bôvary để trêu Champfleury. Tôi muốn cho thấy rằng các nỗi buồn thị dân và các tình cảm hạng bét có thể được miêu tả bằng một ngôn ngữ cao đẹp20".
"Viết hay về cái tầm thường" (Bien écrire le médiocre)21 có thể tóm tắt ý đồ của Flaubert. Nhưng thiên tài của Flaubert là ở chỗ, thông qua việc viết là quá trình ông tự tạo ra bản thân mình với tư cách là một "người sáng tạo" (créateur), ông sáng tạo ra một nguyên tắc đặc biệt của sự khác biệt giữa ông và các nhà văn khác, ví dụ như Champfleury : "đó là một quan hệ đặc biệt, cái làm nên âm điệu riêng của Flaubert, giữa sự tinh tế của ngôn ngữ và sự tầm thường của đề tài đôi khi là cái chung giữa ông và các nhà văn hiện thực, hoặc các nhà văn lãng mạn, hoặc thậm chí các tác giả kịch boulevard ; đó là một kiểu bất hài hòa (dissonance) mà qua đó được thể hiện khoảng cách mỉa mai, đôi khi trào phúng, của nhà văn đối với đề tài ông đang viết, hoặc đối với các phong cách khác, ví dụ như trong trường hợp này là khỏang cách giữa Flaubert và tình cảm sướt mướt vô vị trong tiểu thuyết của Champfleury hoặc các truyện ngắn của Duranty"22
"Viết hay", điều mà ngày nay chúng ta cho là hiển nhiên (và do đó không nhận thấy cái mới, cái sáng tạo của nó nữa), là một trong hai vế nội dung ý tưởng nghệ thuật của Flaubert và là điều phân biệt ông với các nhà văn hiện thực. Nhà phê bình Sainte-Beuve có nhận  định như sau về Bà Bôvary :
" Ông G. Flaubert có một ưu điểm quan trọng so với những người khác, họ quan sát hiện thực một cách ít nhiều chăm chú, có ý đồ miêu tả lại hiện thực và đôi khi cũng thành công, đó là ông có phong cách23"  
Như vậy theo Sainte-Beuve thì đặc trưng của Flaubert là ông viết các tác phẩm được coi là "hiện thực" (bởi đề tài của chúng), nhưng lại có mâu thuẫn với định nghĩa bất thành văn của "chủ nghĩa hiện thực" bởi chỗ chúng được "viết" (écrit), bởi chúng có "phong cách" (style). Nhận xét của Sainte-Beuve cũng cho thấy rằng vào thời Flaubert điều này không phải là dễ chấp nhận. "[trong Bà Bôvary] chương tình mà Flaubert đặt ra khi đưa ra công thức "viết hay về cái tầm thường" được thực hiện  một cách hoàn hảo : Flaubert viết hiện thực (chứ không phải miêu tả, bắt chước, hoặc để cho hiện thực tự diễn ra một cách tự phát, một sự hình dung tự nhiên về tự nhiên) ; có nghĩa là ông thực hiện cái là đặc trưng của riêng văn học, nhưng áp dụng cho một hiện thực vô cùng bình thường, vô cùng hiện thực, cái  hiện thực đối lập với lý tưởng, cái mà thông thường tồn tại nhưng không được viết". Ở đây Bourdieu nhận xét thêm rằng các tiểu thuyết best-seller ngày nay dường như tuân theo một nguyên tắc trái ngược với Flaubert : "miêu tả một cách tầm thường cái đặc biệt (...) có nghĩa là bàn về các tình huống và các nhân vật phi thường bằng một lôgic và ngôn ngữ thường ngày nhất (...)"24
Sử dụng lý thuyết “trường” của Bourdieu soi vào trường hợp văn học Việt Nam cho phép nghiên cứu không gian văn học này từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết đứng từ góc độ xã hội, các nhà văn với các vị thế xã hội khác nhau được thể hiện qua việc họ tham gia vào các nhóm, tạp chí, nhà xuất bản, v.v. được giải thưởng hay không, cũng như quan hệ của họ đối với các thể chế văn học. Sau đó đứng từ góc độ văn học, cần nghiên cứu các vị thế khác nhau của các nhà văn hay các nhóm nhà văn, hoặc các trường phái, trong không gian văn học. Không gian xã hội và không gian văn học có thể có quy luật hoạt động, cũng như các giá trị khác nhau. Việc một nhà văn được các đồng nghiệp nhà văn công nhận, nhưng lại không được đề cao bởi các thể chế văn học chính thống, có thể là một dấu hiệu cho thấy không gian văn học bước vào quá trình tự lập. Trong quá trình này, ngoài bản thân chính các nhà văn là người đọc và bình luận đầu tiên tác phẩm của đồng nghiệp, giới phê bình văn học cũng có vai trò quan trọng. Rõ ràng là các tác phẩm phê bình của Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh, cũng như các bài và mục phê bình trong một số tạp chí, là dấu hiệu cho thấy môi trường văn học đã bắt đầu hoạt động theo các quy tắc riêng của văn học và đã có những người trở nên chuyên nghiệp trong việc đánh giá phê bình.
Nếu lại lấy ví dụ văn học nửa đầu thế kỷ XX thì rõ ràng đã có rất nhiều nghiên cứu công phu có giá trị. Tuy nhiên các nghiên cứu này thường theo trình tự thời gian, thể loại hoặc tìm hiểu các nhà văn và các nhóm văn học một cách riêng rẽ. Đứng từ góc nhìn xã hội học thì việc miêu tả riêng rẽ từng sự việc không cho phép nắm bắt tổng thể và hiểu hoạt động chung trong một không gian, ở đây là không gian văn học. Như nghiên cứu của Bourdieu đã cho thấy, nếu chỉ nghiên cứu các nhà văn lớn, các sự kiện văn học, mà không quan tâm đến các tác nhân khác, cho dù không được lịch sử ghi nhận, thì hiểu biết không thể toàn diện. Cụ thể là, đối với văn học nửa đầu thế kỷ XX, cần phải tìm hiểu cấu trúc không gian văn học vào các thời điểm khác nhau. Cần miêu tả trạng thái đó với các vị thế khác nhau (cao hay thấp, được công nhận bởi các thể chế chính thống hay bởi giới nhà văn, v.v.), cũng như quan hệ giữa các vị thế đó và các vận động trong không gian đó  (đi từ vị thế thấp lên cao, từ vị thế cao xuống thấp hay ra khỏi không gian văn học), đồng thời tìm hiểu lý do cho phép các vận động đó. Trong không gian văn học, các tác nhân có quan hệ đối lập hay hợp tác và ảnh hưởng qua lại giữa chúng như thế nào ? Quan hệ giữa mảng văn học công khai và văn học cách mạng thường trong hoạt động bí mật như thế nào và có ảnh hưởng gì đến nhau ? Các vị trí trong không gian văn học được định vị khá rõ ràng hay không và sự di chuyển từ vị trí này đến vị trí kia có khó khăn hay không ? Nhà văn Tô Hoài kể lại rằng khi bước vào làng văn, nhà xuất bản gợi ý cho ông một số đề tài vì đã có người viết về các đề tài khác ; vì thế Tô Hoài kể chuyện các con vật. Ví dụ này cho thấy mỗi nhà văn, ở đây là trong việc lựa chọn đề tài, thể loại, phong cách, v.v., luôn có liên quan mật thiết (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp) đến các nhà văn khác không chỉ từ góc độ tư tưởng, nghệ thuật sáng tạo, mà còn bởi sự tồn tại của một thị trường văn học cần có các sản phẩm có thể cạnh tranh. Ngoài ra trong trường hợp Việt Nam, cần phải đặc biệt quan tâm đến các quan hệ giữa các nhà văn ở Nam, Trung và Bắc, cũng như các quan hệ giữa các nhà văn sống ở thành thị và những người sống ở nông thôn, giữa các trung tâm đô thị lớn (Hà Nội và Sài Gòn) với các thành phố nhỏ.
Có thể lấy Nam Phong (1917-1934) làm ví dụ. Nhận định chung thường được đưa ra về tạp chí là trong một thời gian dài tạp chí này chi phối toàn bộ đời sống văn học, đến nỗi Phan Khôi phải lên tiếng phản đối “các nhà học phiệt“. Tuy nhiên, đồng thời với Nam Phong còn có nhiều tạp chí khác cũng dành một vị trí không nhỏ cho văn học, cũng như các nhà xuất bản ít nhiều quan tâm đến văn học. Quan hệ giữa các tạp chí này với nhau và với Nam Phong dường như ở vị thế tối cao như thế nào ? Trong lĩnh vực văn học, liệu sự tồn tại và phát triển, cũng như các phê bình đưa đến sự „nổi loạn“ như Phan Khôi và về sau là Tự Lực văn đoàn, có ảnh hưởng gì đến chiến lược xuất bản của Nam Phong ? Đứng về mặt tư tưởng, cuộc tranh luận về Kiều giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế, tiếp sức bởi Huỳnh Thúc Kháng, có thể được coi là cuộc tranh luận giữa hai thế hệ và hai ý thức hệ chính trị và tư tưởng. Nhưng điều quan trọng đối với văn học là cuộc tranh luận này có ảnh hưởng gì đến đời sống văn học cùng thời, nhất là đến sáng tạo văn học không ? Điều khác với chủ trương do Tự Lực văn đoàn đưa ra sau đó ("Mới, hoàn toàn mới") cần phải được nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ với các tác nhân và các vị thế trong không gian văn học vào thời điểm hình thành nhóm văn học này. Hội thảo mới đây về Tự Lực văn đòan với tư cách là một tổ chức văn học (chứ không phải chính trị)  được tổ chức tại Cẩm Giàng ngày 9.5.2008 cho phép hy vọng nhiều nghiên cứu mới trên cơ sở các văn bản và tài liệu lưu trữ.
Có ý kiến cho rằng Tự Lực văn đoàn là một tổ chức văn học đầu tiên mang tính chất một hội đòan sáng tác theo nghĩa hiện đại. Điều quan trọng có lẽ không phải là đi tìm „người thứ nhất“ và trao giải „thứ nhất thứ nhì“, mà Tự Lực văn đoàn cũng như các nhóm văn học khác cùng thời hoặc vào các thời điểm khác có thể được nghiên cứu từ góc độ vấn đề tổ chức. Các câu hỏi được đặt ra là nhóm văn học này có tổ chức như thế nào, có cơ quan thông luận nào, có hoạt động cụ thể như thế nào. Đó là một nhóm được tổ chức một cách chặt chẽ với người lãnh đạo rõ ràng, hay là nhóm văn học có tổ chức lỏng lẻo hơn, với các quyết định được tiến hành một cách cá nhân hay tập thể ? Các vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của một nhóm có thể cho phép khai thác các tài liệu mới, sử dụng các tài liệu đã được công bố dưới một góc độ mới, phân tích các tài liệu ở một cấp độ cụ thể, „đời thường“ hơn, và qua đó đưa ra những kiến thức mới về một giai đoạn văn học. Đứng từ góc độ này, có thể lấy ví dụ các "nhóm văn học" trong thời kỳ 1940-1945. Theo nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ thì giai đoạn 1940-1945 có 3 nhóm văn học tiêu biểu : Tri Tân, Thanh Nghị, Hàn Thuyên. Vậy các nhóm này có đóng góp gì cho nền văn học Việt Nam ? Rõ ràng là Tri Tân cho tới gần đâykhông được đánh giá một cách đúng mức, tuy nhiên các tuyển tập Truyện và ký trong Tri Tân cho thấy là cần phải tìm hiểu tạp chí này một cách khách quan và khoa học hơn trên cơ sở nghiên cứu văn bản. Thanh Nghịcũng là một tạp chí có sự quan tâm đặc biệt tới văn học : đăng truyện ngắn, truyện dài, dịch các tác phẩm nước ngoài, giới thiệu các nền văn học nước ngòai, v.v. Chính Thanh Nghị là tạp chí đã đăng các bài nghiên cứu của Đặng Thai Mai, các tác phẩm của Lỗ Tấn (trong đó có A.Q. chính truyện) và Tào Ngu (Lôi Vũ, Nhật xuất), cũng như các bài tiểu luận của Đinh Gia Trinh về văn hoá và văn học Việt Nam.  Tuy nhiên cần phải nói rằng Thanh Nghị còn chưa đánh giá một cách đúng mức trong lĩnh vực văn học25. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ là tài liệu hiếm hoi, nhưng từ vài năm gần đây việc sưu tập và công bố các nguồn sử liệu đã được quan tâm đến : ví dụ toàn tập Tao Đàn, các truyện và ký trong Tri Tân, du ký trong Nam Phong, v.v. Từ vài năm gần đây Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO) cho ra một bộ sưu tập sử liệu dưới dạng CD-R nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu về Việt Nam được tiếp cận văn bản một cách dễ dàng hơn. Toàn tập các số của tạp chí Tri Tân đã được công bố, và Thanh Nghị đang được tiến hành in lại. Các nguồn tài liệu quý đó sẽ cho phép nghiên cứu trên cơ sở văn bản cụ thể một cách chi tiết, chứ không chỉ dừng lại ở một vài ý kiến chung chung. Đó là điều đáng mừng cần phải được tiếp tục để có cơ sở nghiên cứu một cách „khoa học, khách quan, trung thực và công bằng“, như Giáo sư Phan Huy Lê nói với giới sử học trong hội thảo gần đây về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn được tổ chức vào tháng 10.2008. Đứng từ góc độ này các nghiên cứu trường hợp về các nhân vật nhà văn cụ thể, về các nhóm văn học cụ thể, trên cơ sở các tài liệu lưu trữ và văn bản văn học, là một bộ phận đặc biệt quan trọng.
Nghiên cứu trường hợp        
Trong cách tiếp cận xã hội học nghiên cứu trường hợp - một nhà văn, một nhóm văn học, một trường phái, một phong cách, v.v.- không phải nhằm mục đích đắp tượng tôn vinh một thiên tài vượt ra khỏi ngoài bối cảnh xã hội và lịch sử của thời đại mình. Cái cụ thể, cái riêng biệt ở đây hướng tới mục đích để tìm hiểu cái chung, cái phổ biến cho một xã hội, một thời điểm lịch sử. Nhưng chính sự hiểu biết về cái chung đó lại cho phép tìm hiểu một cách thoả đáng sự độc đáo, các cách tân của mỗi nhà văn, mỗi nghệ sĩ, so với thời đại mình. Đối với nhà xã hội học, người nghệ sĩ (cũng như tác phẩm nghệ thuật) là một sản phẩm xã hội và cần được nghiên cứu trong quá trình xây dựng về mặt xã hội, nhưng đồng thời nghệ sĩ cũng có những cái khác, cái mới so với chuẩn mực xã hội, và đó là đặc trưng của sáng tạo nghệ thuật. Nói khác đi, « thiên tài » là một hiện thực, nhưng đó là một hiện thực xã hội, do con người tạo ra, chứ không phải là kết quả của một sự can thiệp siêu nhiên nào cả.
Nghiên cứu về nhà thơ Appollinaire là một ví dụ điển hình. Theo Anna Boschetti, "trong các lĩnh vực rất khác nhau, các nhà phát minh thường mang trong mình nhiều đặc tính trái ngược26. Dường như là để có thể cắt đứt với các thói quen tư duy và các thứ bậc đã được hình thành, đồng thời cảm thấy là có quyền làm việc đó, họ cần có tham vọng và niềm tin (là những điều kiện mà nguồn gốc xã hội cao cấp hoặc/và sự sở hữu các tri thức đặc biệt cần có trong lĩnh vực), đồng thời các thiên hướng (thường gắn liền với các đường đời không xuôn xẻ) đưa đến sự nổi loạn : các dạng thức cảm nhận và đánh giá ít phù hợp vớI các dạng thức cảm nhận và đánh giá ít phù hợp với các giá trị được công nhận, thiên hướng tìm rủi ro, cảm giác bất ổn trong xã hội, cảm giác khác lạ đối với những người đã "thành đạt". Để nhận ra những con đường mới, những người phát minh này cần vừa có khả năng hiểu biết và làm chủ trường lực sản xuất cũng như lịch sử của nó, vừa có khả năng tư duy một cách "không chính thống" : cái mới luôn được xác định trong mối tương quan với cái đã có như là một cái khác, như là sự thực hiện một cái gì đó vẫn bị bỏ quên, như một chỗ trống cần điền vào, một cái gì đó chỉ có thể được phát hiện ra bởi cái nhìn luôn hơi xa cách của một số người có trải nghiệm đặc biệt hơn người và do đó có thể nhận thấy tính tương đối của các luật lệ và quy ước"27.
Trong lý thuyết trường, như đã trình bày ở trên, mỗi cá nhân được hình dung như một hạt nhân trong một không gian xã hội được tổ chức như một không gian mang điện từ có cấu trúc hai cực (cực dương và cực âm). Trong không gian đó có các vị trí khác nhau (vị thế xã hội, vị thế trong văn giới, v.v.). Mỗi cá nhân chiếm một vị trí trong không gian và chịu sự hấp dẫn của các lực khác nhau. Mỗi cá nhân có thể di chuyển từ vị trí này sang vị trí kia, khả năng đi từ vị trí thấp lên vị trí cao phụ thuộc vào nhiều điều kiện, trong đó có các loại vốn (capital) và thiên hướng (dispositions), tập quán (habitus) thuộc về cá nhân, còn các khả năng có thể (espace des possibilites) thuộc về bối cảnh xã hội, kinh tế và lịch sử. Ví dụ, một nhà văn có tài năng (có thiên hướng và có vốn văn hoá), nhưng không có quan hệ (vốn xã hội) và không có tiền (vốn kinh tế) thì sẽ gặp nhiều khó khăn hơn một đồng nghiệp có nhiều vốn hơn ; tuy nhiên anh ta có thể thành công nếu biết lợi dụng các khả năng có thể do không gian đưa lại (một thể loại hay đề tài mới chẳng hạn). Trong lý thuyết trường có một yếu tố quan trọng nữa, đó là « luật chơi », cũng có nghĩa là mục đích được tất cả các tác nhân công nhận và là cái được còn của sự cạnh tranh trong trường. Chính điều này (có nghĩa là động cơ, cái làm cho các tác nhân phấn đấu được công nhận) làm cho trường văn học khác với các trường khác, khoa học hay kinh tế. Cuối cùng, lý thuyết trường quan tâm cả đến nội dung và hình thức tác phẩm văn học, cũng như bối cảnh văn học, văn hoá, xã hội, kinh tế và lịch sử của thời điểm sáng tác. Nhà văn là một nhân vật phức tạp, chính vì vậy cần phải được tìm hiểu từ nhiều góc độ.
Như vậy nghiên cứu trường hợp từ góc độ trường khác với các nghiên cứu tiểu sử theo phương pháp truyền thống ở chỗ mục đích của nghiên cứu không phải là tìm cách lý giải « thiên tài » của một nhà văn, mà nó hướng tới việc tìm hiểu quá trình hình thành tài năng văn học của nhà văn đó, cũng như hoạt động sáng tác với các nét độc đáo riêng trong một bối cảnh xã hội lịch sử cụ thể. Điều này cũng có nghĩa là một nhà văn có thể được nghiên cứu bởi đóng góp đặc biệt vào lịch sử văn học, nhưng một nhà văn không được văn học sử ghi tên cũng có thể được nghiên cứu bởi đời văn của ông ta cho phép hiểu rõ hơn đời sống văn học thời đó, và qua đó vị trí và vai trò của các nhà văn được lưu danh trong sử sách. Nghiên cứu trường hợp cho phép tìm hiểu một cách cụ thể ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử xã hội vào nội dung văn học, cũng như thành công hay thất bại của các nhà văn. 
Các nghiên cứu trường hợp trong văn học các nước có thể cho phép đưa ra một số gợi ý cho nghiên cứu văn học Việt Nam. Ví dụ về Apollinaire :
« Apollinaire thử nghiệm mọi thể loại văn học, nhưng ông đặt thi ca ở đỉnh cao của nghệ thuật. Ông luôn tự coi mình và luôn tự giới thiệu mình là nhà thơ. Ông không chỉ bằng lòng là một nhà thơ trong số các nhà thơ, mà có tham vọng trở thành nhà thơ lớn nhất. Tìm hiểu tham vọng này của Apollinaire cũng là tìm hiểu ý nghĩa của nó trong thế giới đặc biệt cho phép nó tồn tại. Điều đó có nghĩa là phải nghiên cứu "trường sản xuất văn học", các "luật bất thành văn" có hiệu lực trong trường lực này, các giá trị, các thứ bậc trên dưới và ý nghĩa của dự án trở thành nhà thơ vĩ đại nhất trong các nhà thơ đồng thời »28.
Quan hệ giữa văn học với các lĩnh vực văn hoá khác
Văn học có quan hệ mật thiết với các bộ môn nghệ thuật khác, cũng như các lĩnh vực của đời sống tư tưởng nói chung. Các nhà văn, ngay cả những người có thể được coi là « ở trong tháp ngà nghệ thuật » nhất, luôn ở trong mối tương quan với đời sống văn hoá nghệ thuật, và với các nghệ sĩ trí thức nói chung. Đó là thực tế xã hội cần phải được đưa vào nghiên cứu nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà văn và văn học với đời sống xã hội, đặc biệt là sự hiện diện của các vấn đề xã hội và nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học quan trọng bao giờ cũng mang dấu ấn của thời đại và góp phần vào việc trả lời cho các câu hỏi lớn của nhân loại. Điều đó không có nghĩa là tác phẩm văn học phản ảnh xã hội một cách máy móc và bắt buộc, mà có nghĩa là tác phẩm văn học là kết quả của một quá trình sáng tác mà bản thân nó là một sản phẩm xã hội được hình thành trong một hoàn cảnh văn hoá và lịch sử cụ thể.
Ở đây trên cơ sở so sánh với các nghiên cứu về văn học các nước sử dụng lý thuyết trường, xin trình bày một số vấn đề có thể gợi ý cho nghiên cứu văn học Việt Nam.
Trước hết là vấn đề quan hệ giữa nhà văn và nhà trí thức, sau đó xin đề cập tới vấn đề ảnh hưởng giữa văn học và các lĩnh vực văn hoá khác, đặc biệt là mối quan hệ giữa hội hoạ và văn học trong giai đoạn thuộc địa.
* Nhà văn và trí thức 
Pierre Bourdieu cũng như nhiều nhà xã hội học đặc biệt quan tâm đến lịch sử trí thức là một lĩnh vực nghiên cứu phát triển khá mạnh mẽ từ những năm 1980 tại Pháp. Trong cùng một mạch nghiên cứu này, Christophe Charles quan tâm đến thời điểm khai sinh ra các "trí thức" (Naissance des « intellectuels » 1880--1900, Paris, NXB Minuit, 1990) mà điển hình là nhà văn Emile Zola lên tiếng bảo vệ Dreyfus vô tội trong bài báo "Tôi buộc tội" (J'accuse) nổi tiếng công bố ngày 14.1.1898. Theo Pierre Bourdieu, tiếp bước các nhà văn đi tiên phong như Flaubert và Zola đã thành công trong việc chuyển đổi các nguyên tắc độc lập về tư duy của nhà văn vào trường lực chính trị. "Để làm được việc đó, ông cần phải sản xuất ra một nhân vật mới, nhân vật trí thức, bằng việc phát minh ra cho người nghệ sĩ một sứ mệnh mới, sứ mệnh lật đổ có tính tiên tri, vừa trí óc vừa chính trị (…) Sau khi Zola đưa trường văn học phát triển hết mức theo hướng tự lập, ông có ý đồ đưa các giá trị của sự độc lập trong trường văn học vào cả trường chính trị. Nhân vụ Dreyffus, ông đã thành công trong việc đưa vào trường chính trị một vấn đề được xây dựng theo các nguyên tắc phân biệt riêng của trường lực trí thức và áp đặt cho toàn bộ xã hội các luật lệ bất thành văn của thế giới trí thức, một thế giới riêng biệt nhưng có đặc điểm là cho rằng mình là đại diện của tính toàn cầu"29. Như vậy, với bài viết "Tôi buộc tội" (J'accuse) của Zola, tính tự lập của trường trí thức được khẳng định bởi một nhà văn, nhà văn này tham gia vào trường chính trị với các nguyên tắc riêng của trường lực văn học và qua hành động của mình đã trở thành nhà trí thức (intellectuel) : đó là người bảo vệ các giá trị của sự thật và công lý đối với Nhà nước, và qua đó bảo vệ và khẳng định sự độc lập của những người gìn giữ các giá trị đó đối với các tiêu chí chính trị và kinh tế.
Trong lịch sử trí thức, cũng như lịch sử tư tưởng thế giới, rõ ràng các nhà văn luôn có vai trò đặc biệt quan trọng và thường là ở vị trí hàng đầu. Việc nhà văn tham gia một cách tích cực vào không gian xã hội không phải là điều đương nhiên. Đó là một hiện tượng lịch sử và xã hội có nguồn gốc ở châu Âu và gắn liền với một loạt quan niệm văn hóa châu Âu. Ở Việt Nam, ngoài các nghiên cứu theo hướng « cuộc đời và sự nghiệp » về một nhân vật trí thức riêng biệt, có thể nói là lịch sử trí thức chưa phải là một đề tài được nghiên cứu nhiều, mặc dù một số nhà nghiên cứu Việt Nam học ở nước ngoài đã có những công trình công phu30. Trong lĩnh vực này còn nhiều vấn đề cần được tìm hiểu, ví dụ như sự hình thành của nhân vật « trí thức » ở Việt Nam trong bối cảnh thuộc địa và trong sự tiếp nối của truyền thống nho sĩ, đặc biệt là vai trò của các nhà văn. Một vấn đề lớn khác nữa là thái độ nhập cuộc (hay không) của các nhà văn Việt Nam trước những thử thách của thời đại. Vấn đề ảnh hưởng của xã hội đối với quá trình sáng tác và trong tác phẩm nghệ thuật có thể đưa đến các nghiên cứu mới trên cơ sở nghiên cứu văn bản và huy động kiến thức liên ngành. Đặc biệt các nghiên cứu có thể được tiến hành từ góc độ so sánh cho phép mở rộng phân tích và tìm hiểu những quy luật chung đối với các nền văn hoá riêng biệt.
Văn học với các ngành khoa học và các ngành khoa học xã hội     
Đặt vấn đề văn học trong mối tương quan với các ngành khoa học khác tưởng như là không có cơ sở thích đáng. Tuy nhiên, nếu đặt văn học trong bối cảnh rộng của một nền văn minh trong lịch sử phát triển của nó thì, như nhà triết học Michel Foucault đã chứng minh (xem phần trên), cũng giống như mọi lĩnh vực văn hoá tư tưởng, văn học chịu ảnh hưởng của một hệ thống tư tưởng và quan niệm đặc trưng cho một nền văn minh vào một thời điểm lịch sử. Đặc biệt, như nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, văn học của nhiều nước trên thế giới, ví dụ như Đông Âu vào thế kỷ XIX trong quá trình hình thành mô hình tổ chức Quốc Gia-Dân Tộc (Etat-Nation), có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành bản sắc văn hoá và ý thức dân tộc.
Ở Việt Nam ta cũng có thể thấy một hiện tượng tương tự, đặc biệt văn học có quan hệ mật thiết với sử học, cũng như các ngành khoa học khác như triết học, thậm chí nhân học v.v. Điều đó có thể thấy qua việc trong các nghiên cứu văn học sử vào giai đoạn thuộc địa, văn học thường được gắn liền với các nghiên cứu văn học cổ vừa thuộc về văn học vừa thuộc về sử học. Vấn đề văn hoá Việt Nam, « quốc học », bao gồm cả « quốc văn » và "quốc sử" được coi là một trong những bộ phận chính của "quốc học". Trong Tri Tân,  truyện và tiểu thuyết lịch sử, các bài nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, ngoài mục đích khoa học, còn nhằm mục đích tìm hiểu quá khứ đất nước và dân tộc, khơi dậy và nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc31. Lê Huy Vân trong « Nghĩ về văn học Việt Nam hiện đại » khẳng định : "Ta cần phải có một bản sắc riêng. Ta cần phải có gan chỉ là ta"32. Còn Đinh Gia Trinh kết luận bài « Địa vị văn hóa Âu Tây trong văn hóa Việt Nam » như sau :
"Văn chương Việt Nam ngày nay là mở đầu cho thời kỳ văn học mớI mang ấn tượng của tư tưởng và nghệ thuật phương Tây. Nói như vậy không phải bảo rằng nó không có tính cách Việt Nam và không nối tiếp cái dĩ vãng mà nó thêm vào và làm cho hòan thiện thêm lên"33 
Trong giai đoạn thuộc địa vấn đề « quốc học » và « quốc văn » có thể cho phép tìm hiểu quan hệ giữa văn học và trường Việt Nam học (nghiên cứu văn hóa, lịch sử, xã hội Việt Nam mà trong đó Viện Viễn Đông Bác Cổ nằm ở vị trí cao, còn các tạp chí tiếng Việt nằm ở vị trí thấp). Ví dụ cuộc tranh luận về "quốc học" (1930-1931), cũng như về vấn đề văn học chữ Hán ở Việt Nam còn kéo dài đến cuối những năm 1930 nhằm mục đích trả lời câu hỏi về bề dày lịch sử của văn học Việt Nam. Nếu Phan Khôi vào năm 1939 trong Khái luận về văn học chữ Hán (tạp chí Tao Đàn, số 1 và 2, 1939)  đi đến kết luận là văn học chữ Hán vẫn là của người Việt và việc dùng chữ Hán không phải là lỗi của ai, trước khi kêu gọi « phải quay về với quốc văn », thì đối với một số người khác, trong đó có nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai, thì văn học chữ Hán phải được tính vào văn học Trung Quốc34. Để có thể hiểu sự trăn trở của các nhà văn và trí thức Việt Nam, cần biết rằng trong con mắt của các nhà Phương Đông học Pháp và châu Âu nói chung, trong một giai đoạn dài Việt Nam chỉ được coi là một bản sao của Trung Quốc mà thôi. Nhà Đông Phương học E. Garspardonne, tác giả của “Thư mục Việt Nam” (Bibliographie annamite) đăng trong Tập san của VĐBC năm 1934, trong bài thuyết trình năm 1947 tại Collège de France còn nói rằng văn học Việt Nam, ngoài vài bài dân ca, không có gì đáng gọi là văn học. Như vậy trong giai đoạn 1930-45 các nhà văn dùng chữ quốc ngữ để viết cũng đồng thời tham gia vào xây dựng nền văn học mới, "quốc học". Cùng với các nhà trí thức khác, rõ ràng họ cùng tham gia vào việc "giải phóng Việt Nam về mặt văn hóa khỏi ách thuộc địa".
Văn học và các ngành nghệ thuật khác      
Ở trên đã đề cập tới vấn đề khái niệm về « trí thức » và quan hệ của văn học với các ngành khoa học và khoa học xã hội khác. Trong đời sống văn học nghệ thuật, văn học cũng có những mối quan hệ đặc biệt với các ngành nghệ thuật khác, ví dụ như kịch, điện ảnh, gần đây là truyện tranh, v.v. Nếu tiếp tục lấy ví dụ trong thời thuộc Pháp thì mối quan hệ giữa văn học và hội hoạ, giữa các nhà văn và họa sĩ là một đề tài có tầm quan trọng riêng.
Trong nghiên cứu về trường văn học Pháp vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, trong Quy luật của nghệ thuật (tr. 220-230), Pierre Bourdieu dành quan tâm đặc biệt tới quan hệ giữa văn học và hội họa. Có thể nói là ở Pháp hai trường lực văn học và hội họa được hình thành trong cùng một giai đoạn lịch sử, nhưng với các dấu mốc khác nhau phụ thuộc vào lịch sử riêng của văn học hoặc hội họa, cũng như các ảnh hưởng từ bên ngoài vào với các hậu quả khác nhau. Tuy nhiên, cái chung của hai giới nghệ thuật này là "sự hình thành một cách cảm nhận thẩm mỹ riêng biệt : cơ sở của sự "sáng tạo" nằm trong cách thể hiện, chứ không phải trong đối tượng được thể hiện ; cơ sở này được khẳng định một cách rõ ràng nhất trong khả năng thể hiện một cách nghệ thuật những đối tượng tầm thường hoặc bình dân của thế giới hiện đại" (tr. 221). Các họa sĩ, đặt biệt là Manet, đã phải đấu tranh nhằm thoát khỏi sự kiểm soát của Viện Hàn Lâm. Các kinh nghiệm của các họa sĩ đã giúp ích nhiều cho các nhà văn trong quá trình hình thành một trường lực riêng cho văn học. Nhận xét của Gide về việc văn học đi chậm hơn so với hội họa có thể cho phép hình dung các giao lưu giữa các nhà văn và họa sĩ. Cũng như Joyce, Faulkner hoặc Virginia Wolf, Gide ca ngợi tiểu thuyết "trong sáng" (pur) không có ý đồ "tải đạo" :
"Tôi thường xuyên tự hỏi mình bởi phép lạ nào mà hội họa lại tiến xa như thế và tại sao văn học lại bị bỏ xa đến như vậy. Ngày nay trong hội họa người ta không còn nói "mẫu đẹp" (beau motif) nữa. Một đề tài hay ! điều này chỉ tổ làm cho người ta cười. Ngày nay thậm chí các họa sĩ không còn dám vẽ chân dung nữa, hoặc có vẽ nhưng tránh mọi nét giống với mẫu thật35" (tr. 230)
Trong trường hợp Việt Nam, các vấn đề cho phép nghiên cứu từ góc độ so sánh giữa giới hội họa và văn giới có thể mở ra những hướng đi mới : ví dụ như quan niệm về nghệ sĩ, quan niệm về sáng tạo, về vai trò của nghệ sĩ và trí thức trong xã hội, vấn đề văn hóa dân tộc, v.v. Trong lịch sử hội họa hiện đại Việt Nam, rõ ràng Victor Tardieu, các họa sĩ Việt Nam thế hệ đầu tiên, cũng như một số thành phần tiến bộ của trong xã hội Pháp và xã hội thuộc địa, có vai trò quan trọng. Vậy các nhà văn có quan hệ như thế nào với các họa sĩ thế hệ đầu tiên, những người vẽ tranh như nghệ sĩ, là người sáng tạo, chứ không phải với tư cách là nghệ nhân này ? Quan hệ giữa văn học và hội họa trong một nhóm trí thức cụ thể, ví dụ như nhóm Tự Lực văn đòan là như thế nào ? Họa sĩ Lê Cát Tường và áo dài Le Mur phải chăng cũng tham gia vào việc thay đổi tư duy mạnh mẽ không kém các tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng ?
Văn học Việt Nam và văn học nước ngoài  
Việc nghiên cứu văn học Việt Nam trong văn học thế giới, « mạch riêng trong dòng chảy chung », là một đề tài đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên nghiên cứu vấn đề này theo lý thuyết trường cho phép đặt câu hỏi với một tinh thần khác và sử dụng các khái niệm và công cụ khác. Ví dụ về ảnh hưởng của các nhà văn nước ngoài trong văn học Việt Nam, vấn đề không phải là ai là « thầy » và ai chịu ảnh hưởng, mà cái quan trọng là quan hệ đó (qua việc tiếp xúc với tác phẩm và đôi khi với tác giả, một chiều hoặc nhiều chiều) có tác dụng gì đối với sáng tác văn học của một nhà văn, một nhóm văn học, hoặc một trường phái.
Các vấn đề trong nghiên cứu văn học Việt Nam đặt vào bối cảnh của văn học thế giới rất đa dạng. Ví dụ, theo chủ đề như vấn đề văn học dịch và tiếp nhận văn học nước ngoài ở Việt Nam (trong giới độc giả thông thường và trong giới độc giả đặc biệt là chính các nhà văn). Ảnh hưởng qua lại giữa văn học Việt Nam và thế giới có thể được thấy qua sự phát triển các hình thức văn học với các bản dịch phóng tác, các tác phẩm lấy cảm hứng trực tiếp về đề tài và cấu trúc tác phẩm từ tác phẩm nước ngoài, cho đến các tác phẩm cùng chia sẻ « tinh thần thời đại », v.v. Theo tiêu chí "địa lý" thì văn học Việt Nam và văn học Pháp, văn học Nga, v.v. có những mỗi quan hệ đặc biệt cần được nghiên cứu. Một vấn đề nữa là tiếp nhận văn học Việt Nam ở nước ngoài vào các thời điểm lịch sử khác nhau với các tác phẩm được dịch khác nhau. Cuối cùng là vấn đề văn học Việt Nam ở nước ngoài viết bằng tiếng Việt, cũng như các nhà văn gốc Việt dùng tiếng nước ngoài viết về đề tài Việt Nam. Các quan hệ này đều ít nhiều có tác động đến văn học Việt Nam nói chung, văn học thời hội nhập nói riêng, và do đó cần được quan tâm nghiên cứu một cách khách quan và khoa học. Ở đây xin trình bày cụ thể hơn vấn đề văn học dịch và dịch văn học là một vấn đề mới được các nhà xã hội học nước ngoài đặc biệt quan tâm.
Dịch văn học - dịch văn học nước ngoài ra tiếng Việt và văn học Việt Nam ra tiếng nước ngoài  
Mới đây Trung tâm nghiên cứu xã hội học châu Âu ở Pháp đã hòan thành một chương trình nghiên cứu dài hơi về dịch văn học và khoa học xã hội như một phương tiện trao đổi văn hóa quốc tế36. Theo Johan Heilbron và Gisele Sapiro,hai tác giả của bản báo cáo tổng kết chương trình Vì một xã hội học về sách dịch : tổng kết và triển vọng được công bố năm 2007, "để có thể hiểu việc dịch như một hoạt động xã hội và như một phương tiện trao đổi văn hoá quốc tế, cần phải xem xét tìm hiểu mọi tác nhân – các cá nhân và thể chế - tham gia vào quá trình đó. Trước hết cần phải đưa việc dịch vào bối cảnh không gian lưu thông văn bản ở cấp độ quốc tế, không gian thứ bậc mà trong đó các trao đổi có tính chất bất bình đẳng. Thứ bậc này là kết quả của cấu trúc các mối tương quan lực lượng theo ba lôgic chính : chính trị, kinh tế và văn hoá. Phân tích xã hội học cho phép tìm hiểu đúng đắn tính đặc trưng của mỗi lôgic đó, cũng như các hình thức đa dạng của các mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các lôgic này mang lại cho sản phẩm của hoạt động dịch giá trị xã hội và tượng trưng của chúng, cũng như các chức năng đa dạng của việc dịch, ví dụ như sự công nhận hay tích luỹ vốn tượng trưng, hoặc xây dựng bản sắc tập thể. Mỗi lôgic này có cơ sở là một tập thể các tác nhân có vai trò trung gian ít nhiều được chuyên môn hoá ; họ tham gia vào việc dịch đồng thời đấu tranh để bảo tồn hoặc biến đổi cấu trúc thứ bậc các giá trị trong không gian này. Sự chuyên môn hoá và sự chuyên nghiệp hoá của hoạt động dịch gắn liền với sự phát triển của không gian này nhờ có sự tăng trưởng của các công nghiệp văn hoá và của các trao đổi quốc tế. Khung phân tích này cho phép hình thành một chương trình nghiên cứu so sánh mà đối tượng là xã hội học lịch sử của việc hình thành một không gian quốc tế lưu thông văn bản dịch và các tác nhân tham gia vào hoạt động dịch".
Các nghiên cứu về dịch văn học này có thể gợi mở một số hướng nghiên cứu cho văn học Việt Nam, đặc biệt trong quá trình hội nhập: các hình thái của việc "chuyển giao công nghệ" trong văn học và vai trò của nó trong việc phát triển văn học Việt Nam trong thế kỷ XX cho đến ngày nay; theo chiều ngược lại, việc giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài có ảnh hưởng gì đến văn học trong nước?
 
 
 
 


tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114569531

Hôm nay

2315

Hôm qua

2432

Tuần này

21914

Tháng này

228055

Tháng qua

129483

Tất cả

114569531