Những góc nhìn Văn hoá

Kattigara Kinh đô Huyền thoại Việt (Kỳ 1)

Trong thời gian Alexander Đại đế (365-323 TCN) mở một loạt chiến dịch lớn tiến về phương Đông, đánh bại Đế quốc Ba Tư vào năm 334 TCN, chinh phục Ai Cập năm 332-331 TCN, và thiết lập nền cai trị tại Ấn Độ vào năm 326 TCN thì vùng đất sau này được gọi là China (Đất Tần - Trung Quốc) chưa có nước Chin (Tần), còn người Hy Lạp thì thực sự bắt đầu quan tâm đến các Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) ở Phương Đông theo đường biển.

Các bộ óc lớn nhất của thế giới Hy Lạp – La Mã cổ đại như Erathostenes (276-194 TCN), Hipparchus (190-120 TCN), Strabo (63 TCN - 24 SCN), Marinus (70 - 130 SCN), và đặc biệt là Ptolemy đã kế tiếp nhau xây dựng bản đồ thế giới, xác định vị trí của các đất nước, các đô thị quan trọng nhất trên trái đất, trong đó có Kattigara, một địa danh được cho là thuộc cực đông của thế giới theo quan niệm Hy Lạp cổ đại. Trong khoảng 2000 năm nay biết bao nhiêu công sức, trí tuệ, khát vọng và cả sinh mạng người đã được đánh đổi để mong tìm ra vị trí chính xác của cái đô thị đầy duyên nợ ấy, nhưng dường như Kattigara vẫn còn là một ẩn số lớn đối với người đời.

 
Ptolemy (90 -168 SCN) là một học giả cổ đại nổi tiếng, mang họ Hy Lạp sống ở thành phố Alexandria. Tên đầy đủ của ông viết theo tiếng Hy Lạp là Κλαύδιος Πτολεμαῖος, còn theo tiếng Latin là Claudius Ptolemaeus, và chính cái tên này dường như lại cho thấy ông là một công dân La Mã. Ông nổi tiếng với tư cách là nhà thiên văn học, toán học, và đặc biệt là nhà địa lý học; Học thuyết Địa tâm gắn liền với tên tuổi ông đã thống trị thế giới cả ngàn năm dòng. Tập Địa lý học của ông gồm 8 cuốn, có ý nghĩa to lớn trong lĩnh vực nghiên cứu cổ bản đồ và địa lý học nói chung. Cuốn thứ nhất phác thảo về các nguyên lý làm nền tảng để ông xây dựng tọa độ, xác định vị trí chính xác cho các vùng đất trên thế giới, còn các cuốn sách khác, về cơ bản là tập chỉ dẫn cho việc thể hiện thành bản đồ dựa trên các tính toán của ông. Tuy nhiên di sản của Ptolemy còn lại cho đến bây giờ lại là các bản đồ phục dựng vào thế kỷ XIV – XVI, dựa trên các dữ liệu trong tập Địa lý của ông. Giá trị của những bản đồ này đã được thẩm định một cách nghiêm nhặt và đã cho thấy một mức độ chính xác nhất định về các con số thể hiện các tọa độ và một số địa danh được mô tả, trong đó có đô thị cổ Kattigara trong công trình của Ptolemy. Trong số 8.000 địa danh được ông ghi chú và mô tả thì Kattigara là cái tên gắn liền với nhiều nhân vật lừng lẫy từ thời cổ đại, kể cả bản thân Ptolemy; các nhà thám hiểm vĩ đại thời trung đại: Cristoforo Colombo (1451 - 1506), Amerigo Vespucci (1454 - 1512), Fernand de Magellan (1480-1521); và các học giả danh tiếng thời hiện đại như Ferdinand von Richthofen (1833-1905), George Coedes (1886-1969), Édouard Chavannes (1865-1918), Louis Malleret (1901 - 1970) v.v...cùng với rất nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi khác của Đông Nam Á, và của Việt Nam.
 
I. Kattigara và Thuyết địa tâm Hy Lạp cổ đại
 
Thành phố Alexandria, nơi Ptolemy sinh sống vốn là một trung tâm tri thức cổ đại lớn nhất và nổi tiếng với thư viện Alexandria, do vua Ai Cập Ptolemy I Soter I (Πτολεμαῖος Σωτήρ, 367 – 283 TCN), là một dũng tướng thân tín nhất và là một trong 7 vệ sỹ của Alexandros Đại đế cho xây dựng. Ông cai trị Ai Cập từ năm 323 đến 283 TCN, và khoảng năm 305 TCN ông đã lấy tước hiệu Thần vương Pharaoh đặt cho mình, trong khi đó tước hiệu này chỉ sử dụng cho các vua Ai Cập cổ đại cho đến thiên niên kỷ II TCN mà thôi. Khoảng năm 290 TCN, Pharaoh Ptolemy I cho xây "Museion", trong đó có một đại học, một viện hàn lâm và thư viện Alexandria với khoảng 400.000 cuộn sách vào lúc khởi đầu. Thư viện chỉ thực sự hoạt động dưới thời vua kế tiếp là Ptolemy II Philadelphus (285 - 246 TCN) với 500.000 cuộn sách. (Tarn, W.W. 1928). Đời vua Ptolemy III Euergetes đã cho người đi khắp nơi mua sách hoặc mượn sách có đặt cọc rất lớn, có cuốn tới 15 talent vàng, sau đó không nhận lại tiền cọc mà đổi lấy sách cho thư viện. (Erksine A. 1995: 38 - 48). Theo sử gia Plutarch, người viết tiểu sử Caesar thì năm 48 TCN thư viện bị cháy trong cuộc tấn công của Julius Caesar vào Alexandria dưới thời trị vì của Ptolemy XIII. Sau này Marcus Antonius (83 – 30 TCN) lại lấy 200.000 cuộn sách tặng Cleopatra làm quà cưới, khiến cho thư viện ngày càng nghèo đi. Strabo (Στράβων, 64 TCN – 24 SCN), nhà địa lý, lịch sử, triết học Hy Lạp cổ đại, tiền bối của Marinus và Ptolemy, đã từng làm việc tại thư viện Alexandria năm 23 TCN cũng ghi nhận điều đó, còn nhà triết học La Mã nổi tiếng Licius Annaeus Seneca (4 TCN – 65 SCN) có nói đến 40.000 cuộn sách của thư viện Alexandria đã bị đốt cháy. (Griffin, Miriam T. 1976). Có thể thư viện Alexandria vẫn được duy trì cho đến khi phần lớn sách bị mất lúc hoàng đế La Mã Aurelius (270–275) chiếm Alexandria từ nữ hoàng Zenobia xứ Palmyra. (El-Abbadi, Mostafa 1992).
 
Sống trong bối cảnh tri thức của thành Alexandria như vậy, chắc chắn các tiền bối của Ptolemy, và chính bản thân ông đã có rất nhiều điều kiện để thu thập nhiều nguồn tư liệu địa lý trong thế giới cổ đại, cho dù đến thời ông thư viện Alexandria đã trải qua nhiều phen binh lửa. Điều đó chứng tỏ một thực tế là ông đã đưa vào công trình của mình hơn 8000 địa danh mà nhiều địa danh đối với ông, chắc chắn cũng mơ hồ như đối với chính những người tìm kiếm khác vậy. Một nghiên cứu so sánh của Strabo cho thấy phạm vi hiểu biết về phần thế giới chưa được biết đến còn mênh mông đến mức nào. Khối tri thức to lớn và cách mô tả rất cụ thể trong bộ Địa lý của Strabo đã tạo nền tảng vững chắc cho sự hiểu biết phần thế giới Địa Trung Hải, Tây Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Ba Tư và một phần Ấn Độ cho những người đi sau, trong đó có Ptolemy (Strabo 1917-1932). Các đoạn chú thích của Marinus chứa đựng nhiều dữ kiện đã được xây dựng dựa trên các ghi chép của các cuộc hành trình dài, các cuốn nhật ký hành trình chính thức, các tư liệu hành chính và cả các quan sát thiên văn của các nhà hàng hải và các thương nhân từ rất nhiều thế hệ khác nhau. Nhờ đức siêng năng và say mê đặc biệt với sự nghiệp địa lý học mà Ptolemy đã được thế giới cổ đại Hy La ngưỡng mộ. Nhà địa lý học Marcianus Heracleensis (thế kỷ IV) đã gọi ông là “nhà địa lý học cổ điển cuối cùng”.
 
Cái tên Ptolemy gắn liền với học thuyết địa tâm ở giai đoạn đỉnh cao của nó. Với tư cách là một đặc thù tư duy Hy Lạp cổ đại, thuyết này cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt trời cùng các thiên thể khác quay xung quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, kể từ Aristotle (384 BC – 322 BC) – thầy dạy của Alexandros Đại đế - cho đến Ptolemy cũng như đa số các triết gia Hy Lạp khác đều đồng thuận coi Mặt trời, Mặt Trăng, các vì sao là vệ tinh của Trái Đất. Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và thiên văn Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong triết học trước cả Socrates (469-399 TCN). Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên Anaximander (610 – 546 TCN) đã đưa ra một vũ trụ học với Trái đất như một mặt cắt của một hình trụ là trung tâm của vạn vật. Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh lồng trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất; thông qua những hố đó, con người có thể thấy được ngọn lửa thần bí. Còn các môn đồ Pytagoras (khoảng 580-490 TCN) thì cho rằng Trái đất là một hình cầu, nhưng không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa vĩnh cửu. Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu tại trung tâm vũ trụ. (Dreyer J.L.E. 1953; Heath, Thomas 1913). Trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Platon (427-347 TCN) và học trò của mình, Aristotle. Theo Platon, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): mặt trăng, mặt trời, sao Kim, sao Thủy, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, các ngôi sao cố định. Plato miêu tả vũ trụ một cách thần bí, còn Eudoxus Cnidus (408-355 TCN) đồng thời với Platon thì cho rằng toàn bộ các hiện tượng thiên thể có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất. Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ. (Dreyer J.L.E. 1953; Evans, James 1998).
 
Dù những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Tăm tiếng này được dành cho Hệ Ptolemy, được nhà thiên văn học Ptolemy đưa ra vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong suốt hơn một nghìn năm sau, được những người Châu Âu và các nhà thiên văn học Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemy thỉnh thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Đó chính là một trong những cơ sở lý thuyết để Ptolemy sử dụng các công cụ toán học và vật lý áp dụng vào các khung tính toán địa lý của các tiền bối, kết hợp với việc phê phán các bậc tiền bối để xây dựng hệ thống kinh tuyến, vĩ tuyến và tính toán các tọa độ trên trái đất (Evans, James 1998.; Heath, Thomas 1913).
 
Một trong những tiền bối lỗi lạc nhất của Ptolemy là Eratosthenes làm việc tại thành phố Alexandria. Ngay từ rất sớm ông đã sử dụng các phương pháp khoa học để tìm cách đo đạc trái đất. Khai thác tri thức và các ghi chép của rất nhiều người thuộc nhiều thời lưu tại thư viện, ông biết giữa trưa ngày 21 tháng 6, mặt trời lên đến thiên đỉnh tại Syene (Aswan), trong khi đó tại Alexandria bao giờ mặt trời cũng có bóng dài, nhờ đó ông tính được Syene thuộc về phía nam Alexandria. Dựa vào kết quả quan sát từ hai địa điểm cách xa nhau ấy ông đã tính được chu vi của trái đất là 250.000 stadium, tổng cộng là khoảng 28.700 dặm, thừa khoảng 15 phần trăm so với chu vi thực mà ngày nay khoa học tính được một cách chính xác. Và phương pháp đo đạc vĩ mô của ông đã trở thành một đóng góp lớn cho nhân loại. Tiếp theo Eratosthenes, Ptolemy còn có một tiền bối vĩ đại khác, đó là Hipparchus, xứ Nicea, người đã chia trái đất thành 3600 và mỗi độ cách nhau 70 dặm, tương đương với khoảng cách giữa hai kinh tuyến để tính toán. Các thuật ngữ kinh tuyến, vĩ tuyến là do ông xây dựng và sử dụng (Broorstin, Daniel J. 1983).  
 
Trong các công trình của các học giả trước Ptolemy, trái đất được biết với các dữ liệu sau: chiều Đông Tây là 1800, còn chiều Bắc Nam là 900. Trong công trình Almagest ông muốn chia trái đất thành 4 phần bằng đường xích đạo và quỹ đạo kinh tuyến qua hai cực trái đất. Phần thế giới đã biết của Ptolemy thuộc vùng phía bắc, phương Bắc Nam được tính từ cực bắc đến đường xích đạo, còn phương Đông Tây được tính bằng đường quỹ đạo kinh tuyến, có khoảng cách là 1800, không nhiều hơn sự khác biệt của 12 giờ, mà mỗi giờ được tính là 150 giữa hai điểm của phần thế giới đã biết, tính theo số lần bị che lấp của mặt trăng tại bất cứ một điểm nào ở phần trái đất đã biết. Đối với ông, vùng con người sống được là các khu vực thuộc bắc xích đạo. Điểm cực bắc có vĩ độ 630 Bắc (vùng Thule), còn điểm cực Nam thuộc vĩ độ 16.5/120 Nam (vùng Aigisymba - Cặp tê giác và Mũi Prason). Vậy là từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Sinae (mà nhiều học giả sau này giả định là Trung Quốc) theo hướng Đông - Tây là 1800. Đó chính là các điểm giới hạn của bản đồ thế giới của ông. Trong ranh giới đó, ông cố gắng xác định một cách ổn định các dữ liệu địa lý mà ông thu thập được của các bậc tiền bối với các dữ liệu thiên văn của ông để xây dựng bản đồ. [Riley T. M. 1995, 232].
 
Ông tính toán sự khác biệt giữa các cuộc hành trình của các nhà hàng hải, các thương nhân đã được ghi chép và khoảng cách thật, tức là khoảng cách theo vĩ độ Bắc qua Thule (Vùng Bắc Âu) và vĩ độ Nam qua Aigisymba (Trung Phi) và Mũi Prason (Ven biển châu Phi) bằng các phương pháp tính thông thường. Còn cực Đông thì ông sử dụng Kattigara làm vĩ độ 1800, có nghĩa là Kattigara cũng thuộc vùng đất Sinae. Marinus đã khai thác số liệu được ghi chép nhiều lần của các thương nhân, các nhà hàng hải, nên đã tính được khoảng cách về phía Nam tính từ đường xích đạo là 24.680 stade (đơn vị tính chiều dài, số nhiều của từ stadium, mỗi stadium = 184m), trong đó 500 stade = 10 vĩ, vậy thì quãng đường 24.680 stade người lữ hành phải qua 490 vĩ Nam. Marinus cũng đã tính quãng đường từ Ptolemai ở Trogloditya đến Mũi Prason, thuộc đất Ethiopia, là 27.800 stade, 560 vĩ Nam. Theo Ptolemy thì các khoảng cách đó cho thấy Ethiopia ở vùng lạnh thuộc Nam Bán cầu, trong khoảng 500 - 550 vĩ Nam, vì vậy Tê giác không thể sống được ở đó. Không những thế, người Garamantes lại chính là người Ethiopia thì “các dữ liệu của Marinus sẽ trở thành trò cười cho vị vua ở đó”, vì làm sao mà một vị vua lại có thể sống xa thần dân của mình đến thế được. Hơn nữa lại còn phải tính đến sự tương thích về khí hậu, chủng tộc, động vật giữa các vùng tương ứng thuộc Bắc và Nam bán cầu. Trong khi đó những người Ethiopia da đen lại sống gần những người ở phía Nam Ai Cập, người Ethiopia sống giáp đường Xích đạo về phía nam, còn người Ai Cập lại sống giáp đường Xích Đạo về phía bắc, vì vậy theo Ptolemy, khoảng cách thực phải giảm đi một nửa so với con số của Marinus, còn 23.1/20 mà thôi. Ngoài ra Marinus cũng có các báo cáo về các cuộc hải trình giữa Aromata (Sừng Châu Phi) và Rhapta (thuộc bờ đông Châu Phi). Diogenes xứ Kunikos (Διογένης ὁ Κυνικός404-323 TCN) đã phải mất 25 ngày đi thuyền về phía nam để đến các nguồn sông Nile ở Mũi Rhapta. Vậy thì số liệu của Marinus rất vô lý, nên Ptolemy đều giảm đi một nửa. [Riley T. M. 1995, 233].
 
Trên cơ sở đó, Ptolemy đã coi việc giảm các số liệu của Marinus xuống còn một nửa là một nguyên tắc. Vì vậy đối với trường hợp Đông Tây, đương nhiên ông cũng áp dụng nguyên tắc này cho các khu vực thuộc phần thế giới đã biết. Marinus có các báo cáo về cuộc hành trình từ Hierapolis tại Euphrates (Syria) đến Tháp đá thuộc “ranh giới phía tây của Sinae” là 26.280 stade, và hải trình từ Tháp đá đến “Sera thủ đô của Sinae” là 36.200 stade, về thời gian mất 7 tháng với tổng chiều dài đoạn đường là 62.480 stade hoặc là 156,1/50. Thêm vào con số ấy 720, tính từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis và tổng đoạn đường Tây - Đông của thế giới đã biết là 228,1/50. Với vĩ tuyến Tây – Đông, Ptolemy tính mỗi độ bằng 400 stade, và áp dụng nguyên tắc giảm một nửa như đối với trường hợp châu Phi, Ptolemy cũng giảm con số tính toán của Marinus là 36.200 stade xuống còn 18.100 stade, và nếu tính theo độ thì còn 45,1/20, tình cờ là nó lại gần với con số thực. Con số 26.280 stade từ Hierapolis đến Tháp đá thuộc Vùng đất Chưa biết (Terra Incognita) được điều chỉnh xuống còn 24.000 stade, hoặc 600, và tổng số độ từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40. Vậy là đoạn đường từ các đảo Fortunate của “các hữu tử phước huệ” đến Hierapolis là 720, và từ Hierapolis đến Sera là 105,1/40, tổng cộng là 177, 1/40, gần khớp với tổng chiều dài vĩ tuyến Tây – Đông 1800. [Riley T. M. 1995, 233]. 
 
Trong chương I.14 của công trình Địa lý, khoảng cách đường biển theo các báo cáo từ Ấn Độ đến Kattigara trên cùng vĩ tuyến với Sera cũng áp dụng nguyên tắc giảm thiểu như trên, để tính phương Đông Tây, vì vậy mà cũng còn gần 1800. Tất nhiên Ptolemy còn có các nguồn tư liệu khác nhau vì vậy ông chỉnh sửa các số liệu cũ bằng các số liệu mới hơn, và cũng đề cập đến tính cần thiết của việc phải cập nhật các nguồn dữ liệu mới đó. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể dễ dàng thực hiện đối với vùng thế giới đã biết, chủ yếu thuộc phạm vi Ả Rập, xa nhất là đến Ấn Độ, nơi mà cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế chấm dứt ở đó. Còn ngoài phạm vi đó thì các nguồn số liệu, dữ liệu mới là rất hiếm hoi. Trong thực tế thì đối với công trình Địa lý, Ptolemy đã sử dụng khuôn khổ và số liệu mà các tiền bối đã thực hiện. Đối với trường hợp này thì bản đồ truyền thống bao gồm cung ¼ bán cầu bắc, và ông đã điều chỉnh các báo cáo và các số liệu cũ bằng nguyên tắc giảm ½ đối với phần thế giới đã biết như vừa đề cập ở trên. [Riley T. M. 1995, 234].
 
Trên cơ sở học thuyết của mình, một địa điểm tại cực đông của địa cầu như Kattigara chính là một nhu cầu thúc bách trí tưởng tượng Hy Lạp cổ đại trong rất nhiều đời nhằm kiểm nghiệm lý thuyết địa tâm và mục đích cuối cùng là chinh phục địa cầu của tinh thần Hy Lạp. Nhưng có lẽ chỉ đến thế kỷ thứ tư TCN, sau khi Alexander Đại đế, học trò của Aristotle, chiến thắng Ai Cập, Ba Tư và Ấn Độ thì các hiểu biết về phương Đông, đặc biệt là những thông tin và tên gọi kiểu như Kattigara mới được các thương gia Nam Ấn cung cấp cho Alexander Đại đế và các tướng lĩnh dưới quyền ông một cách rõ ràng và chắc chắn nhất. Giai đoạn này tương đương với thời Hùng Vương 18 gồm có “Hùng Duệ Vương, Hùng Kính Vương và Tản Viên” trong truyền thuyết Việt, sau đó nhà nước Hùng Vương bị Thục Phán thôn tính vào năm 257 TCN theo Đại Việt sử ký Toàn thư hoặc vào năm 179 TCN theo các nguồn khác.
 
(Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp).
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114569438

Hôm nay

2222

Hôm qua

2432

Tuần này

21821

Tháng này

227962

Tháng qua

129483

Tất cả

114569438