(I)
Một đêm mưa to gió lớn, Phan vẫn cùng ba ông đồ hay chữ được mệnh danh là “Nam Đàn tứ hổ” rủ nhau qua Chín Nam hát. Sông Lam trở nên mênh mông mù mịt, người chèo đò biệt đâu mất. Đợi mãi không được, họ liền cởi phăng áo quần nhét vào hũ, nút lại làm phao bơi qua sông Lam chỗ bến đò Vạn Rú.
Đến nơi, vẫn khô ráo, tươi tỉnh, tứ hổ liền nhập phường. Chị em phường bạn mừng rỡ ra chào, hát hỏi:
Bốn chàng quê ở nơi đâu
Xin tường danh tính để sau khuyên mời?
Tứ hổ đáp ngay:
Nam Đàn tứ hổ là đây
San, Lương, Đôn, Quý - một bầy bốn anh(2)
Phường vải đố:
Đồn rằng là bậc văn nhân
Ba năm sinh một tháng nhuần là sao?
Ba hổ chịu đơ, đứng như trời trồng. Phan San cũng bí rì, liền chống chọi liều:
Thiên thời độ số cũng vưa (vừa)
Vì chưng đó thiếu đây thừa nẩy ra!
Bên gái đã đỏ mặt nhưng vẫn truy:
Sách rằng Nghiêu hữu cửu nam
Biết Đan Chu là một, hỏi tám chàng tên chi!
Phan vò đầu bứt tai mãi không biết trả lời sao. Trong Bắc sử, chỉ chép vua Nghiêu có chín người con trai, người trai đầu là Đan Chu chứ tám người kia có ghi tên đâu. Quẫn quá, Phan đành đánh trống lảng, láu lỉnh vặn lại:
Các em là phận nữ nhi
Một Đan Chu là đủ hỏi mần chi những tám người?
Gỡ nguy, chuyển bại thành thắng, còn quay lại tấn công người ta làm cho cô nào cô nấy thẹn chín người. Các cô đâm ra túng túng, khen lao:
Rằng hay lại thực rằng giòn
Sơn tàu lót thủy khuyên tròn mười khuyên.
(II)
Phan vừa thường trực tiếp hát vừa bí mật làm “thầy dùi” để “gà” cho các phường vải. Phường nào có mặt Phan là nổi đình đám. Cuộc hát nào bí là Phan gỡ ra ngay.
Một anh bạn nhà nho, đêm trước đi hát về, vừa ôm vò quần áo hì hụp bơi cập vào bến sông trước nhà thì ông thân đã vác gậy đứng chực đó từ bao giờ “phang” ngay. Trong lúc túng thế, trong tay duy nhất chỉ có cái vò, nhà nho ta đành đưa ra đỡ… đòn. “Choang” - chiếc vò đất vỡ tan. Thế mà, tối hôm sau, nhà nho “có hiếu” ấy vẫn không thể vắng mặt ở phường hát! Câu chuyện hồi hôm bể ra khắp vùng. Một cô gái trẻ, chắc là ý trung nhân của chàng, vừa vào cuộc đã “bẻ” ngay:
Không thương anh vì ruộng vì bò
Chỉ thương anh có một nết vác vò “xán” (ném) cha!
Phường con gái cười rộ lên phụ họa. Ông nhà nho đã bí lại càng thêm rối trí. Phan tiên sinh liền ra tay cứu bồ:
Tối hôm qua hốt hoảng lôi đình
Tâm thần bất định có xán của ông thân sinh một vò.
Cũng có đêm, một văn nhân bước vào cuộc chơi với những lời hát khiếm nhã. Các o (cô) trong huyện vẫn “kiềng” thầy Cử Cường là một nhà khoa bảng thô bạo, tục tằn trong câu hát lẫn cử chỉ. Các thiếu nữ đang lúng túng. Phan viện trợ phái yếu với chữ nghĩa thánh hiền:
Đọc thơ, hành lộ tam chương(3)
Gái ngoan há để bạo cường xâm lăng.
Nghe hát. Cử Cường tiu nghỉu như gà phải cáo!
Lại một ông khác - ông Cửu Thiện ở làng Hữu Bằng, Hương Sơn, luôn luôn hợm mình là nhà thông thái. Nghe danh đầu xứ Nam Đàn, ông ta tìm đến thử tài thực hư ra sao.
Cửu Thiện bất ngờ tới, từ dáng dấp đến giọng hát đều xa lạ với phường vải. Phái nữ công kích ngay:
Tối tăm biết trúc là mai
Biết đào là liễu, biết ai mà chào!
Cửu Thiện đã chuẩn bị sẵn để đối phó với tình huống này. Ông ta cất giọng đùng đục vừa xưng danh vừa đố:
Đào nguyên một giải thanh danh
Tiền triều đã định, liên thành còn in?
Phường vải Nam Đàn ngơ ngác: hát chi lạ vậy? Từ các thầy cử ông tú đến những cô sành sõi nhất trong nghề bẻ chuyện cũng đành chịu tịt, đổ dồn cả vào mắt Tú San. Im lặng nặng nề kéo dài. Thế rồi cậu Tú mỉm cười, thầm thì bên tai một người đẹp tốt giọng. Câu hát âm vang cất lên:
Hương Sơn là chốn quê nhà
Phải tên danh Bích có là… đúng không?
Cửu Thiện ở bên kia đang gật gù mồi thuốc, nhấm nháp chiến công của mình trước thế “bí” của phường vải Nam Đàn bỗng như điện giật, quăng cả điếu cày đang cầm trên tay xuống đất reo lên như ma ám “Bái phục! Bái phục!”.
Thì ra, Cửu Thiện dụng ý uyên bác dùng điển tích và sách địa phương chí ở Hương Sơn: Đào Nguyên là tên gọi khác của Ngàn Phố. Tiền triều là tên gọi khác của làng Tuần Lễ. Người ngoài xứ khó mà hiểu được nếu không lịch lãm và đọc các sách địa chí. Lại còn chữ “liên thành” mượn trong sách “Liên thành vi bích” (ngọc bích là ngọc Liên Thành). Phan đã vạch đúng thành ngữ, dùng “tên danh Bích” là xách mé gọi đúng tên cúng cơm của Cửu Thiện.
Chỉ một câu hỏi thôi, Cửu Thiện đã công nhận Tú San - niềm tự hào của phường vải quê hương - là người hay chữ nhất nước, đế ra mắt và xin làm quen.
(III)
Trên đường đi thi từ tỉnh về, đi qua làng Nam Liên, San gặp một cô gái phường vải làm cỏ lúa đang ngồi nghỉ xả hơi đầu bờ ruộng, miệng nhóp nhép ăn bắp rang bữa thì. Người thiếu nữ thấy “người quen” đon đả đưa mời:
Em đưa anh một nạm (nắm) ngô rang
Anh gieo vô mô mọc được, em theo chàng
về không?
Ngô đã rang thì làm sao mọc được! Hiểm quá! Đang rầu ruột vì cuộc thất trận ở trường thi, lẽ nào Phan lại để cô bé con này hãm vào thế bí nhục nhã! Sau một thoáng suy nghĩ, Phan đành xúy xóa “dặm” lại:
Chỗ mô mưa ba năm không ướt
Nắng sáu tháng không khô
Anh đem gieo vô chỗ nớ
Thì nạm ló (lúa) ngô em mọc liền!
Dễ thường, nữ sĩ họ Hồ sống lại nghe đến đây chắc cũng phải phì cười, chịu thua !?
(IV)
Một lần, thấy Phan vừa đặt chân đến, phường vải Nam Diên xôn xao hẳn lên. Cái anh chàng này chữ nghĩa bề bề, đi đến đâu là gieo bão tố đến đó, chị em mình không thể xem thường hát quấy quá được đâu. Họ bàn nhau chọn chữ, chuốt lời sao cho “độc” và sắc để xứng với tài danh anh Giải San.
Vào cuộc, một giọng nữ cao ở bên tê đã oanh vàng thỏ thẻ:
Độc đạo Nam hành chí Bắc thành
Thiên trung bán nguyệt điểm tam tinh
Tam nhân đồng tọa ngưu vô giác
Nhất điểm tam hoành dữ khẩu thanh?
Chàng mà giải được, thiếp em đây xin theo hầu?
Phường vải dứt lời. Chà ! Hôm nay lại bày trò đố chữ nữa kia! Phan hào hứng hẳn lên “Khoản này là đụng tới cái kho của nha rồi”. Phan lẩm nhẩm:
Độc đạo Nam hành chí Bắc thành, đường độc đạo chạy từ Nam ra Bắc không phải chữ nhất thì chẳng có chữ gì nữa.
Thiên trung bán nguyệt điểm tam tinh, nửa vầng trăng khuyết ba sao giữa trời rõ là chữ tâm.
Tam nhân đồng tọa ngưu vô giác, ba người cùng ngồi, con trâu không có sừng dàn xếp lại là chữ phụng.
Nhất điểm tam hoành dữ khẩu thanh, một chấm ba ngang cùng mở miệng nói thành tiếng rõ ràng là chữ thỉnh?
Trò đố chữ đã được Phan chóng vánh giải mã: “Nhất tâm phụng thỉnh” có nghĩa là một lòng kính mời. Té ra, người ta thích mình, mời mình! Cái lối chào của phường vải này mới đài các làm sao! Phan vui vẻ cất tiếng trả lời:
“Nhất tâm phụng thỉnh" ơn nàng
Một lời ghi tạc đá vàng thủy chung.
Phường vải Nam Diên xáo động, trầm trồ. Vẫn cái giọng oanh vàng bên kia rang rảng:
Ý hay từ lại dịu dàng
Tài này đáng giá ngàn vàng chẳng sai!
Hát một chặp, Phan thấy các o phường này nhan sắc mặn mà nhưng lả lơi, giọng hát ngọt ngào tình tứ, nhưng lời nhàm thô, ý vụng, Phan kiếu quay lui.
Phường vải rất đỗi ngạc nhiên, thắc mắc. Sao những chàng trai trẻ khác cứ đêm đêm rập rình tới lui mà anh Đầu Xứ lại bỏ về là can cớ chi, liền kháy:
Tần cung mỹ nữ tam thiên
Bái Công năng bất thùy yên dã hồ?
Lại điển tích! Phan thoáng nhớ lại một đoạn Bắc sử: Khi diệt được nhà Tần, Bái Công đi vào đất Tần thấy 3.000 mỹ nữ non tơ thì say tít. Ông ta chết mê chết mệt ở lại, quên phứa mất đường về Hán.
Bọn phường vài này thâm thật - Phan dừng chân nghĩ - họ mượn tích Tàu rồi chế ra lục bát : “Nơi cung cấm Tần vương có những ba ngàn gái đẹp hơ hớ làm sao Bái Công lại không thèm nhỏ dãi ra?” để ngụ ý xỏ mình thấy các nường phường vải Ước Lệ đẹp thế kia gì mà không động dong, chắc cũng thèm lắm (thấy gái đẹp ai lại không ham), nhưng còn giả đò làm bộ làm tịch ra về, đồ đạo đức giả!
Đã đành Bái Công háo sắc, đắm đuối trong sóng khuynh thành nơi cung Tần mà quên mất đại sự, nhưng đã có trung thần Phàn Khoái cùng Trương Lương sang tận nước Tần can gián. Trương Lương cực chẳng đã phải gay gắt với Bái Công: “Thưa chúa công, tất cả những thứ phù phiếm xa hoa cùng sắc dục nơi đây đã chôn vùi cơ nghiệp nhà Tần, giờ sao chúa công lại ham vui nhặt hoa dưới đất, bẻ hoa cuối mùa những đồ thải này làm gì nữa”. Bấy giờ Bái Công mới tỉnh ngộ!
Lấy độc trị độc, Phan mượn ngay đoạn cuối tích này, đứng tận bên ngoài cổng phường vải này hát chõ vào:
Tần cung phàm thử lệ xa
Sở dĩ vong dã công hà dụng yên.
Những thứ xa hoa, sắc dục ấy chỉ tổ táng hại thanh danh, đây nhất quyết không màng, không thèm tới. Thế là các nường phường vải Ước Lệ đã rõ Phan là kẻ trượng phu, phục lắm, nhưng chẳng nhẽ thua cuộc, đành vớt vát:
Muốn cho nước giếng sau chùa
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu?
Vô duyên đối diện bất tương phùng thì yêu làm sao được, Phan cự tuyệt thẳng thừng:
Khi nào rau diếp làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta!
Thế là chuyện tình đã đi đến chỗ cạn tàu ráo máng. Phường vải buồn lắm, nhưng quyết không nao lòng, họ hạ thấp xuống hơn nữa, nỉ non:
Trách người quân tử cơ cầu
Gặp nhau chi để mối sầu tơ vương?
Ưa dưa thơm không ưa dưa thối. Tơ duyên không đậu chớ trách mình không biết đường xe, Phan bồi thêm:
Khi nào Đông Hải có cầu
Anh qua anh gỡ mối sầu cho em!
Chàng trẻ đa sầu, đa cảm, đa… nghịch ngợm Phan San cũng có lúc “sắt thép” nhẫn tâm với phái đẹp thế kia ư?
(V)
Trong số những nho sĩ đi hát phường vải, Phan được phái đẹp thiện cảm hơn cả bởi tài năng mẫn tiệp, cốt cách quân tử, cử chỉ hào hoa phong nhã và cả danh tiếng “Đầu Xứ” lúc 16 tuổi của chàng.
Hễ bẵng Phan đi một thời gian là phường vải để thương để nhớ. Họ ngóng trông, hỏi han thắc mắc:
Thuyền tình ghé bến Cô Tô
Sao mà vắng tiếng chuông chùa Hàn San?
Lát sau Phan đến, bạn bè thuật lại, Phan liền cất giọng nam trầm báo hiệu sự có mặt của mình:
Đất người đã vác chuông ra
Chờ cho rõ mặt thì ta nện chày!
Thế là phường vải náo động lên ngay!
Trong rất nhiều cuộc hát, các thôn nữ quê hương yêu thầm nhớ trộm đã mạnh bạo gửi gắm tình yêu nồng nàn không giấu nổi của mình cho Phan. Ở Nam Kim, cô Ban đã hát:
Sáp (gặp) nhau một gánh nặng nề
Giang sơn bịn rịn tình quê nghẹn ngào.
Sao nói đến tình yêu, trái tim cô rơm rớm? Linh tính hình như báo cho cô hay chàng trai mải nghĩ tới tình đất nước trong cơn loạn ly hơn tình quê? Đúng rồi, chàng Phan đã hát tiếp:
Đêm xuân gặp gỡ giữa đường
Gang sơn một đội (gánh) cương thường hai vai.
Chàng trai này quả có chí lớn! Tình yêu không thể níu cánh chim bằng. Càng thêm yêu, thêm trọng, cô Ban nguyện:
Chung vui chung cả đò đầy
Cho em chung mẹ chung thầy với anh?
Phan rất cảm động trước tấm tình si thiệt thà của nàng, nhưng chàng đã hướng cho người bạn gái thân thiết ấy nghĩ tới những gì lớn lao, cao rộng hơn ngoài hạnh phúc gia đình:
Chung binh, chung tướng, chung vương
Cùng anh chung cả tứ phương sơn hà?
(VI)
Hát phường vải đâu chỉ là toàn chuyện tình yêu, chuyện nô đùa, chọc ghẹo. Trong buổi nước mất nhà tan, những cô gái xinh đẹp xứ Nghệ quê ta không bao giờ quên nghĩa vụ thiêng liêng của người công dân là lo lắng đến vận mệnh của đất nước.
Trong một buổi hát ở làng Hoàng Trù, cô Dũng Thơn(4) hát:
Nhất vui thơ túi rượu bầu
Biết ai khanh tướng, công hầu là ai?
Câu hỏi bình thường nhưng chẳng bình thường chút nào ! Thâm ý của người hỏi rõ ràng không phải là mong chàng trai gặp hội công danh để võng anh đi trước võng nàng theo sau mà chí hướng cứu dân cứu nước. Phan nhạy cảm đáp lại:
Mặc ai khanh tướng công hầu
Dưới thành luống những muốn câu cá kình.
Cô gái cảm phục, hát tặng:
Rõ ràng cốt cách trượng phu
Nước non luống dậy cơ đồ có phen?
Một cô khác ở phường Nam Phong đã hỏi Phan:
Mấy lâu anh mắc (bận việc) chi nhà
Núi Hoành Sơn lở, hỏi anh đà biết chưa?
Chàng nho sĩ đã thân mật trả lời:
Tai nghe miệng em nói, dạ anh cũng trù trừ
Ô hô ! Núi Hoàng Sơn lở răng dừ (bao giờ) rứa em?
Ấy là lúc kinh thành Huế thất thủ (1885) và phong trào Cần Vương đang dấy lên sôi nổi khắp nơi.
Rồi, có một độ vắng mặt Phan. Nghe đâu, ông Đầu Xứ tổ chức một đội nghĩa tử Cần Vương, thảo hịch đánh Tây, các phường bạn mừng lắm. Hôm gặp lại trong một phường hát, chị em ân cần chào thăm:
Ầm ầm nghe tiếng ong San
Bầy (tụi, bọn) em cất cánh lên rừng tìm hoa?
Giải San cảm kích niềm nở mời chị em - con cháu bà Trưng bà Triệu tham gia vào công việc đánh giặc cứu nước:
Chị em cất gánh sơn hà
Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam.
Thế rồi, Phan nhất quyết ra đi ! Đất nước đen tối gay go, liệu Phan có xoay trời đổi đất được hay không? Phường vải Nam Kim vừa lo lắng vừa hy vọng lưu luyến tiễn chàng:
Nên chăng trống dục, chiêng hồi
Thuyền tình ta sẽ xa vời rộng thênh.
Và, khi Phan đi xa về ghé làng, các o xúm lại hỏi thăm:
Mừng chàng nay đã phản hồi
Mấy lâu góc biển chân trời ra sao?
Thì Phan hát trả lời, âu yếm và hăm hở:
Mừng ta nay được trùng phùng
Cánh hồng tiện gió vẫy vùng biển khơi.
----------------
(1) Hát phường vải: hình thức hát dân ca ở Nghệ Tĩnh. Họ chia ra hai phường nam nữ vừa quay xa kéo sợi vừa hát.
(2) Bầy bốn anh: Phan Văn San ở Đan Nhiệm có tài mẫn tiệp; Nguyễn Bá Đôn ở Xuân Hội có tài thâm thúy; Trần Duy Lương ở Kim Liên có trí nhớ tuyệt vời; Vương Thúc Quý (thầy học Bác Hồ) cũng ở Kim Liên có tài sắc sảo thông minh.
(3) Ba chương trong Kinh Thi (Thiệu Nam). Trong ba khúc này, người phụ nữ tỏ rõ ý chí quyết giữ vững trinh tiết, chống lại sự tấn công của kẻ cường bạo, không để nó làm bẩn thanh danh của mình.
(4) Tức bà Hoàng Thị An, dì ruột Bác Hồ.