Những góc nhìn Văn hoá
Thử bàn về chu kỳ (Kỳ 2)
Giờ đến công việc mô tả cụ thể những quy luật ấy.
Trước tiên: vì chuyển động lặp lại sinh ra ngũ hành, nên ngũ hành cũng phải có âm, có dương (nghĩa là cũng có chiều theo đúng chiều của chuyển động). Thế là có âm mộc, dương mộc; âm hoả, dương hoả, v.v...
Tổng cộng gồm: 5 hành dương + 5 hành âm = 10 hành.
Thập “can” (giáp, ất, bính, đinh...) xuất hiện. Thập “can” chính là những tên gọi hay những “thuật ngữ” ứng với 10 hành đó.
Nghĩa là thập “can”, dù có nhà nghiên cứu cho rằng nó được “tìm ra” trước cả “ngũ hành”, thì về mặt bản chất, nó chính là “ngũ hành” sau khi đã được “phối” Âm, Dương (hay chiều của chuyển động). Trước hay sau chỉ quan trọng đối với các nhà chuyên viết tiểu sử. Cái chuyện “sinh con rồi mới sinh cha” âu cũng là điều bình thường trong quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Riêng việc có nhà sử học khẳng định rằng Mạnh Tử là người “đầu tiên sáng lập ra học thuyết ngũ hành” thì quả thực quá hồ đồ. “Oan” cho cụ Mạnh quá.
Nói cách khác, thập “can” đóng vai trò thay thế cho “ngũ hành” để mô tả “chiều” của chính những “ngũ hành” đó tương ứng với chiều của chuyển động (hoặc hạt, hoặc thiên thể...). Và cũng chính vì vai trò đó mà thập “can” cũng đồng thời chỉ cho thấy cả “vị trí” (hay toạ độ không gian) của chuyển động.
Nghĩa là thập “can” cũng mô tả “vị trí” của “đối tượng” sinh ra chuyển động chẳng khác gì ngũ hành. Vậy tại sao phải “đẻ” ra thập “can”? Bởi vì muốn mô tả chuyển động của những đối tượng (“hạt” hoặc thiên thể hoặc...) ấy, ngoài việc mô tả “vị trí”, còn phải chỉ rõ chiều (âm hoặc dương) của nó. Vậy thì thập “can” (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quý) chính là đã thoả mãn yêu cầu mô tả cùng lúc cả tọa độ (về mặt không gian) và chiều chuyển động của hạt (hoặc thiên thể...) trong chuỗi dao động không ngừng nghỉ của nó.
Và cũng bởi cùng mô tả tính chất của chuyển động, nên thập “can” đương nhiên cũng gắn liền với các thuộc tính ngũ hành, nó mang “vị” của ngũ hành. Nói cách khác, nó chính là ngũ hành, chỉ là gọi tên khác đi cho gọn ghẽ xinh xắn, đồng thời tăng thêm phần “huyền diệu” mà thôi. Theo đó thì:
-Giáp là dương mộc, ất là âm mộc (Giáp, ất đồng thuộc mộc).
- Bính là dương hỏa, đinh là âm hỏa (Bính, đinh đồng thuộc hoả).
- Mậu là dương thổ, kỉ là âm thổ (Mậu, kỉ đồng thuộc thổ).
- Canh là dương kim, tân là âm kim (Canh, tân đồng thuộc kim).
- Nhâm là dương thuỷ, quý là âm thuỷ (Nhâm, quý đồng thuộc thuỷ).
Đồng thời, thập “can” đương nhiên cũng có phương vị theo đúng phương vị của ngũ hành. Cụ thể:
Giáp, ất thuộc phương đông (cung mộc).
Bính, đinh thuộc phương nam (cung hoả).
Mậu, kỉ thuộc trung tâm (cung thổ).
Canh, tân thuộc phương tây (cung kim)
Nhâm, quý thuộc phương bắc (cung thủy)
Bây giờ đến sự vận hành của các “toạ độ” không gian (giáp, ất, bính, đinh...) nói trên. Sự vận hành này tất phải liên tục bởi sự dao động của hạt là không ngừng nghỉ. Song tại sao lại có cái thứ tự đó? Có thể thay đổi được không?
Xin thưa rằng “thập can” một khi đã gắn với những thuộc tính ngũ hành như trên thì thứ tự của chúng là không thay đổi được. Vị trí của hạt (hoặc thiên thể...), hay nói cách khác, các “toạ độ” không gian của hạt (hoặc thiên thể...) trong chuỗi dao động của nó sẽ vận hành theo chiều (quy ước) từ dương sang âm, từ âm lại sang dương... đồng thời tuân theo quy luật tương sinh. Nghĩa là cái thập “can” ấy với tư cách mang theo những thuộc tính ngũ hành sẽ phải vận hành theo đúng quy luật của ngũ hành. Cụ thể như sau (a):
- Bắt đầu từ “dương mộc” sang “âm mộc” (cũng tức là bắt đầu từ giáp sang ất).
- Qua “mộc” tất đến “hoả” bởi “mộc” sinh “hoả” (từ dương hoả - âm hoả). Thế là tiếp đến bính - đinh.
- Qua “hoả” phải đến “thổ” vì “hỏa” sinh “thổ” (dương thổ - âm thổ). Ta được cái tiếp theo là mậu - kỉ.
- Qua “thổ” sẽ đến “kim” vì “thổ” sinh “kim” (dương kim – âm kim). Tiếp theo nữa là canh - tân.
- Qua “kim” phải đến “thuỷ” vì “kim” sinh “thuỷ” (dương thuỷ - âm thuỷ). Cuối cùng là nhâm - quý.
- Hết “thuỷ” lại quay về “mộc” bởi “thuỷ” sinh “mộc” Lại bắt đầu giáp - ất
v,v...
Cứ như thế, khép kín một vòng tròn ngũ hành ta được: giáp - ất – bính – đinh - mậu - kỉ - canh – tân – nhâm – quý... Lại quay trở lại “giáp - ất”... tiếp tục một vòng khác, như thế mãi.
Ta gọi sự chuyển vận của các “tọa độ” không gian (giáp, ất, bính, đinh...) trên là “vòng ngũ hành” của không gian. Vậy vòng này tuân theo đúng quy luật tương sinh. Nó khởi đầu từ “mộc”. Cụ thể là: mộc - hoả - thổ - kim - thuỷ - mộc...
Đồ hình “vòng ngũ hành” của không gian như sau:
(Bắc)
Thuỷ
(Nhâm, Quý)
(Tây) (Trung tâm) (Đông)
Kim Thổ Mộc
(Canh, Tân) (Mậu, Kỉ) (Giáp, Ất)
(Nam)
Hoả
(Bính, Đinh)
Ta nhớ rằng những “giáp, ất, bính, đinh...” chính là những “dương”, “âm”, là các thuộc tính ngũ hành như vừa nói ở trên. Kết quả là trên những “vòng” ngũ hành của không gian ấy, ta hình dung thấy “ngũ hành” cứ liên tục biến đổi từ dương sang âm, lại quay về dương... đảo chiều liên tục. Đó chính là cái mà người xưa gọi là “khí ngũ hành”. Nó tồn tại và liên tục chuyển vận theo cách thức như thế trong vạn vật từ “hạt” đến “thiên thể”... từ nhỏ đến lớn... cho đến toàn vũ trụ. Chẳng khác gì những dòng điện xoay chiều cũng liên tục đổi dấu khi chuyển động trong dây dẫn, trong các thiết bị, động cơ điện... vậy. Đó chẳng phải sự mô tả một cách tuyệt vời tính “sóng” của vật chất hay sao?
Trên đây mô tả “vòng ngũ hành” của không gian áp dụng cho một chu kì bất kì. Mỗi chu kì đều có vòng ngũ hành không gian riêng của nó. Song các chu kì của chuyển động trong vũ trụ bao giờ cũng ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau theo chiều hướng chu kì nhỏ nằm trong chu kì lớn, chịu sự chi phối của chu kì lớn (nói cách khác, bất cứ một chu kì nào cũng nằm trong “thời” (khí ngũ hành) của một hoặc vô số chu kì lớn hơn nó). Và một khi các “toạ độ” không gian của các chu kì ấy “gặp” nhau, thì ngũ hành một lần nữa lại... “biến”. Cái đó gọi là “thập can hoá hợp”. Hoá hợp như thế nào? Thưa rằng cũng theo quy luật tương sinh. Cụ thể như sau:
Căn cứ vào vòng ngũ hành (của không gian) trên, ta thấy cứ cách 1 cung, ngũ hành lại khắc nhau. Ví dụ mộc sau khi sinh hoả lại khắc thổ do hỏa sinh; hoả sau khi sinh thổ lại khắc kim do thổ sinh; thổ lại khắc thuỷ, v.v... Khi phối âm, dương thành thập can, ngũ hành bèn mang tính âm dương. Khi đó sẽ thấy rõ một quy luật nữa, đó là âm dương (khác dấu) hút nhau.
Nghĩa là trong một nhóm chu kì, nếu các “can” (cũng tức là ngũ hành) có quan hệ tương khắc song khác dấu gặp nhau, sẽ hóa hợp thành một thuộc tính ngũ hành khác. Cụ thể gồm 5 cặp như sau:
1- Bắt đầu từ giáp (dương mộc), nếu gặp kỉ (âmthổ), dương mộc sẽ khắc âm thổ, hóa hợp thành thổ. Nghĩa là giáp, kỉ hoá hợp thổ.
2- Cứ thế lần theo quy luật tương sinh, ta có: bởi thổ sinh kim, nên ất (âm mộc) nếugặp canh (dương kim), dương kim sẽ khắc âm mộc hoá hợp thành kim. Vậy là ất, canh hoá hợp kim.
3- Tiếp theo, bởi kim sinh thủy, nên bính (dương hỏa), nếu gặp tân (âm kim), dương hỏa sẽ khắc âm kim hoá hợp thành thuỷ. Vậy là bính, tân hoá hợp thuỷ.
4- Tiếp theo, bởi thủy sinh mộc, nên đinh (âm hoả),nếu gặp nhâm (dương thuỷ),dương thủy sẽ khắc âm hoả hoá hợp thành mộc. Vậy là đinh, nhâm hoá hợp mộc.
5- Cuối cùng mộc sinh hoả, nên mậu (dương thổ), nếu gặp quý (âm thuỷ), dương thổ sẽ khắc âm thuỷ hoá hợp thành hoả. Vậy là mậu, quý hoá hợp hoả.
Khác dấu (âm, dương) hút nhau. Vậy cùng dấu (dương với dương; âm với âm) gặp nhau thì sao? Thì chúng sẽ đẩy nhau, cũng tương tự như 2 cực của nam châm vậy. Đối với ngũ hành, sự đẩy nhau sẽ không đưa đến kết quả hòa sinh mà gọi là “phá” (hoặc khắc, xung). Có tổng cộng 10 cặp “phá” như sau:
1- Giáp (dương mộc) phá mậu (dương thổ) – ( bởi mộc khắc thổ)
2- Ất (âm mộc) phá kỉ (âm thổ) – ( bởi mộc khắc thổ)
3- Bính (dương hỏa) phá canh (dương kim) – ( bởi hỏa khắc kim)
4- Đinh (âm hoả) phá tân (âm kim) – ( bởi hỏa khắc kim)
5- Mậu (dương thổ) phá nhâm (dương thuỷ) – ( bởi thổ khắc thuỷ)
6- Kỉ (âm thổ) phá quý (âm thuỷ) – ( bởi thổ khắc thuỷ)
7- Canh (dương kim) phá giáp (dương mộc) – ( bởi kim khắc mộc)
8- Tân (âm kim) phá ất (âm mộc) – ( bởi kim khắc mộc)
9- Nhâm (dương thuỷ) phá bính (dương hỏa) – ( bởi thuỷ khắc hỏa)
10- Quý (âm thuỷ) phá đinh (âm hỏa) – ( bởi thuỷ khắc hỏa)
Trên đây là ngũ hành của không gian.
Thế còn thời gian thì sao?
Tiếp theo, xin bàn đến thời gian (tý, sửu, dần, mão...) Trước tiên, bởi thời gian cũng sinh ra do có sự chuyển động (thay đổi trạng thái) của hạt (hoặc thiên thể...). Nên thời gian cũng phải có chiều tương ứng với chiều của chuyển động. Nghĩa là thời gian cũng phải có âm, dương (lưỡng nghi).
Tuy nhiên, khác với ngũ hành chỉ không gian, thời gian bắt buộc phải có tính liên tục, cho nên không thể có dương tý, âm tý, dương sửu, âm sửu, v.v... được, mà tý phải đến sửu rồi đến dần, đến mão... Thế thì tý phải ngược dấu với sửu; nghĩa là tý thuộc dương thì sửu thuộc âm. Sửu phải ngược dấu với dần suy ra dần thuộc dương. Dần ngược dấu với mão, vậy mão thuộc âm, v.v... cứ thế lần lượt 1 âm đến 1 dương cho đến hết vòng rồi lại quay trở lại từ đầu. Quá trình chuyển vận của vòng thời gian vậy là cũng đổi dấu (âm, dương) liên tục, cũng giống như một dòng điện xoay chiều mà không hề mang dáng dấp nào của dòng điện 1 chiều. Điều lý thú là cái sự dương, âm hay thuận, nghịch này của thời gian trong học thuyết âm dương ngũ hành ban đầu cũng là một sự quy ước, chẳng khác gì những qui tắc bàn tay trái hoặc quy tắc bàn tay phải... trong môn vật lý học hiện đại vậy. Sau 1 lần quy ước, từ đó trở đi tuyệt đối không được thay đổi nữa.
Nếu sự chuyển vận của không gian sinh ra 5 thuộc tính (hoặc lý) gọi là ngũ hành như trên, thì quá trình chuyển vận liên tục của thời gian cũng lần lượt trải qua 4 tính (hoặc lý) đặc trưng của nó. Cụ thể:
1- Tính ấm áp, tươi tắn gọi là (mùa) xuân
2- Tính nóng nực, ẩm thấp gọi là (mùa) hạ
3- Tính mát mẻ, điều hoà gọi là (mùa) thu
4- Tính lạnh lẽo, khô hạn gọi là (mùa) đông
Cũng như ngũ hành, 4 thuộc “tính” này của thời gian cũng là những cái “tượng” dùng để mô tả tính chất khác biệt (về mặt trạng thái) của các trình tự thời gian trong quá trình chuyển vận của nó. Sự so sánh giữa các “mùa” nói trên chỉ mang tính tương đối giữa chúng với nhau chứ không câu nệ chúng dứt khoát phải như vậy. Đây chính là một trong những đặc điểm mang tính tổng quát cần phải lưu ý khi nghiên cứu ngũ hành.
Vậy 4 “mùa” trên ứng với các “toạ độ” của thời gian như thế nào? Thời gian khởi từ “dần”, bắt đầu từ “dần” mà chuyển vận theo đúng thứ tự của 12 chi. Nhóm 3 “địa chi” làm 1 để phối “mùa” vào, ta có (b):
“Dần”, “mão”, “thìn” - thuộc (“mùa”) xuân.
“Tị”, “ngọ”, “mùi” - thuộc (“mùa”) hạ.
“Thân”, “dậu”, “tuất” - thuộc (“mùa”) thu.
“Hợi”, “tý”, “sửu” - thuộc (“mùa”) đông.
Quá trình chuyển vận của thời gian gắn liền với sự biến đổi trạng thái của chuyển động (hạt, sự vật...). Trạng thái đó được thể hiện thông qua những thuộc tính ngũ hành của nó theo quy luật tương sinh. Nghĩa là thời gian cũng phải mang những thuộc tính ngũ hành. Vậy ngũ hành của thời gian được xác định như thế nào?
Trước tiên, bất cứ sự phát triển nào cũng trên cơ sở tính “hoá dục, nuôi dưỡng...” của “thổ”, không thể rời xa “thổ”. Do đó lấy “toạ độ” (thời gian) cuối của mỗi “mùa” làm “thổ”. Căn cứ vào (b), “chi” thứ 3 (chi cuối) của mỗi mùa đều thuộc thổ, ta được:
“Thìn”, “mùi”, “tuất”, ”sửu” thuộc thổ
Còn lại 4 cặp: 1- “dần”, “mão”; 2- “tị”, “ngọ”; 3- “thân”, “dậu”; 4- “hợi”, “tý”.
Từ đấy chỉ việc phối chúng với 4 thuộc tính ngũ hành còn lại (trừ thổ đã có) theo đúng quy luật tương sinh. Vì các “toạ độ” không gian khởi từ “mộc”. Vậy nên ta có:
Cặp 1 (“dần”, “mão”) thuộc mộc.
Mộc sinh hỏa. Vì vậy cặp 2 (“tị”, “ngọ”) thuộc hỏa.
Hoả sinh thổ (là thìn, mùi, tuất, sửu đã xác định), thổ lại sinh kim. Vì vậy cặp 3 (“thân”, “dậu”) thuộc kim.
Kim sinh thủy. Vì vậy cặp 4 (“hợi”, “tý”) thuộc thuỷ.
Xin viết lại các thuộc tính ngũ hành nói trên của các “toạ độ” thời gian cho đỡ rắc rối, đồng thời “phối” âm dương. Kết quả thật là kì diệu:
- Dần, mão thuộc mộc, trong đó dần là dương mộc; mão là âm mộc.
- Tị, ngọ thuộc hoả, trong đó tị là âm hỏa; ngọ là dương hỏa.
- Thân, dậu thuộc kim, trong đó thân là dương kim; dậu là âm kim.
- Tý, hợi thuộc thuỷ, trong đó tý là dương thuỷ; hợi là âm thuỷ.
- Thìn, tuất, sửu, mùi thuộc thổ, trong đó thìn, tuất là dương thổ; sửu, mùi là âm thổ.
Thay thế tương ứng các thuộc tính ngũ hành này của thời gian vào (b), ta tìm được “vòng ngũ hành” của thời gian như sau:
Xuân: dương mộc – âm mộc – dương thổ
Hạ: âm hoả - dương hoả - âm thổ
Thu: dương kim – âm kim – dương thổ
Đông: âm thuỷ - dương thuỷ - âm thổ
Đồng thời, thời gian cũng chỉ ra vị trí của chuyển động (“hạt”) hoặc ngược lại, vị trí của chuyển động (“hạt”) cũng chỉ ra “tọa độ” thời gian theo đúng tính chất của ngũ hành. Căn cứ vào các kết quả trên, ta dễ dàng suy ra:
- Dần, mão thuộc phương đông (mộc)
- Tị, ngọ thuộc phương nam (hoả)
- Thân, dậu thuộc phương tây (kim)
- Tý, hợi thuộc phương bắc (thuỷ)
- Thìn, tuất, sửu, mùi thuộc trung tâm (thổ)
Thể hiện trên đồ hình sau:
hợi, tý
Thuỷ
(bắc)
thân, dậu thìn, tuất, sửu, mùi dần, mão
Kim Thổ Mộc
(Tây) (trung tâm) (Đông)
tị, ngọ
Hoả
(Nam)
Đồ hình trên cho thấy rõ ràng vòng ngũ hành của thời gian không giống với vòng ngũ hành của không gian như phần (a) trên kia đã mô tả. Diễn theo phương ngang thì “vòng ngũ hành” này của thời gian sẽ như sau (lưu ý có sự “đổi dấu” dương, âm liên tục): +mộc à -mộc à +thổ à -hỏa à +hoả à -thổ à +kim à -kim à +thổ à -thuỷ à +thuỷ à -thổ à +mộc à -mộc à +thổ, v.v...Tính cả dương lẫn âm, thì trong cái vòng này, ngoại trừ thổ xuất hiện 4 lần (hoặc âm hoặc dương cách đều), 4 thuộc tính còn lại mỗi thuộc tính chỉ xuất hiện 2 lần (dương liền tới âm). Tổng cộng 1 vòng có 8+4=12 thuộc tính thay nhau xuất hiện. Con số 12 này phản ánh 1 chu kì lặp lại của ngũ hành về mặt thời gian. Nhìn trên đồ hình phương vị, ta thấy các chuyển vận của vòng này luôn hướng về tâm (thổ).
Vậy là thời gian một khi đã trôi đi cùng với chuyển động, nó không còn là một đại lượng vô cơ, vô hồn nữa, mà luôn luôn biến hoá về chất, cả “lý” lẫn “tính”. Quả là mỗi “thời” mỗi khác, không “thời” nào giống với “thời” nào... Và một khi đã mang những thuộc tính của ngũ hành, thì thời gian cũng phải tuân theo những quy luật tương sinh, tương khắc... như của ngũ hành. Ngoài ra, với tính chất là một “tọa độ” đặc biệt, chỉ “khoảng cách” giữa các “trạng thái” của chuyển động, trên cơ sở chi phối bởi các thuộc tính ngũ hành, cũng như các “tọa độ” không gian kể trên, thời gian trong một nhóm chu kì (ví dụ giờ, ngày, tháng, năm... chẳng hạn) nếu “gặp” nhau, chúng cũng sẽ “biến hoá” hoặc tác động lên nhau thông qua những mối quan hệ sau:
Quan hệ nhị hợp: Tý và sửu hợp thành thổ; Dần và hợi hợp thành mộc; Mão và tuất hợp thành hoả; Thìn và dậu hợp thành kim; Tỵ và thân hợp thành thuỷ; Ngọ và mùi hợp thành thổ.
Quan hệ tam hợp: Thân + tý + thìn hợp thành thuỷ; Hợi + mão + mùi hợp thành mộc; Dần + ngọ +tuất hợp thành hỏa; Tỵ + dậu + sửu hợp thành kim.
Quan hệ tương xung: Tý xung khắc với ngọ; Sửu xung khắc với mùi; Dần xung khắc với thân; Mão xung khắc với dậu; Thìn xung khắc với tuất; Tỵ xung khắc với hợi.
Quan hệ tương hại: Tý, mùi tương hại; Sửu, ngọ tương hại; Dần, tỵ tương hại; Mão, thìn tương hại; Thân, hợi tương hại; Dậu, tuất tương hại.
Quan hệ tương phạt: Tý phạt mão, mão phạt tý. Xét trong quan hệ trên dưới, cha con, thầy trò... đại loại thuộc về “lễ”.
Dần phạt tỵ, tỵ phạt thân, thân phạt dần. Trong các mối quan hệ vai vế, quyền thế...
Sửu phạt mùi, mùi phạt tuất, tuất phạt sửu. Trong các mối quan hệ ân huệ, ơn nghĩa...
Thìn, ngọ, dậu, hợi tự phạt (tự kìm hãm nhau)
Trên đây là những quy luật tổng quát của các “toạ độ” thời gian vận hành theo những thuộc tính ngũ hành áp dụng cho mọi thiên thể (hoặc hệ thiên thể...), nói cách khác, áp dụng cho mọi chuyển động hay mọi chu kì. Điều đó có nghĩa là cũng như những “tọa độ” không gian (ngũ hành), mỗi chu kì cũng đều có một hệ “toạ độ” thời gian riêng của nó. Những chu kì dao động dù là của 1 hạt cơ bản, của 1 nguyên tử, 1 phân tử, của Trái Đất, Mặt Trăng, Mặt Trời, hay của cả Hệ Mặt Trời, v.v... đều vận hành theo cái “vòng” tí, sửu, dần, mão... riêng của mình cùng những thuộc tính ngũ hành bất hủ của chúng. Đây quả là một điều kì diệu của học thuyết âm dương ngũ hành. Thời gian té ra không tuyệt đối, không có một thứ “thời gian” của 1 “thiên thể” (hay chu kì) bất kì nào (mà thuyết tương đối gọi là “hệ quy chiếu”) thay thế cho tất cả. Mặc dù cũng “tí, sửu, dần, mão...” đấy, song “ngày” của electron không thể dài bằng “ngày” của cả nguyên tử, “ngày” của nguyên tử khác “ngày” của phân tử... cũng như “ngày” Trái Đất không giống “ngày” sao Mộc hay “ngày” Mặt Trời, hệ Mặt Trời, v.v... Chẳng khác gì câu chuyện Từ Thức lấy tiên, lên “trời” một ngày bằng ba trăm năm hạ giới... Thế là chỉ riêng về mặt thời gian, ngũ hành xem ra không hề mâu thuẫn với thuyết tương đối của Einstein vĩ đại một tí nào, khác chăng là ngũ hành có trước Enstein hàng nghìn năm mà thôi.
Như trên đã nói, sự chuyển vận từ giáp đến ất... cuối cùng cho đến quý... (đương nhiên) làm thay đổi trạng thái của không gian (ngũ hành). Vì thế tạo nên thời gian. Thời gian cũng phải chuyển vận theo, đồng thời cũng liên tục “đổi dấu”. Bắt đầu từ “tý”, đến “sửu”, rồi “dần”, “mão”... Thời gian với tính chất là “khoảng cách” giữa các trạng thái của chuyển động, nghĩa là các “toạ độ” của không gian ngũ hành (cụ thể là 10 can “giáp, ất, bính, đinh...”) luôn vừa biến đổi, vừa “trôi” theo vòng thời gian. Kết quả là tại bất kì một “tọa độ” không gian nào, cũng có thể xác định được một “toạ độ” thời gian tương ứng và ngược lại, bất kì một “tọa độ” thời gian nào, cũng xác định được một “toạ độ” không gian tương ứng. Lưu ý đến chiều của chuyển động (dương, âm), đem 10 “can” (hay 10 “tọa độ” không gian) lần lượt kết hợp với 12 “chi” (hay 12 “tọa độ” thời gian), theo quy luật dương với dương, âm với âm sẽ tạo nên các “tọa độ” Không - Thời gian (Can, Chi) của mọi chuyển động. Đó chính là 60 “hoa giáp” như chúng ta đã thấy xưa nay.
Khi kết hợp thành các “toạ độ” Không - Thời gian, giờ đến lượt các “toạ độ” (Can, Chi) ấy trong quá trình chuyển vận cũng liên tục đổi dấu từ dương sang âm, lại từ âm sang dương... Ví dụ từ “giáp tý” (dương) đến “ất sửu” (âm), lại đến “bính dần” (dương) rồi “đinh mão” (âm), v.v... vẫn giống hệt một dòng điện xoay chiều.
Tại sao khi kết hợp Can với Chi thành “toạ độ” Không - Thời gian, phải tuân theo quy luật dương đi với dương, âm đi với âm? Ví dụ dương mộc là “giáp” thì chỉ có thể đi với tí, dần, thìn... (đều dương) mà không thể đi với sửu, mão, tỵ... (đều âm), v.v... Bởi một Can + một Chi vừa chỉ “toạ độ” Không - Thời gian của chuyển động, vừa chỉ chiều (hoặc thuận, hoặc nghịch) của chuyển động ấy. Mà Âm, Dương cũng chính là “chiều”. Cho nên một “toạ độ” Can, Chi nhất định tất nhiên không thể cùng lúc mang hai chiều ngược nhau được.
Tuy nhiên, bạn cứ thử làm “nghịch” cái quy luật ấy đi (chẳng ai cấm), ví dụ ghép “giáp” với “sửu”; “ất” với “dần”... chẳng hạn, bạn cũng sẽ được đúng 60 “toạ độ” Không - Thời gian ảo (không tồn tại) ví dụ:”giáp sửu”; “ất dần”; “bính mão”... Song 60 “toạ độ” ảo ấy cũng chứa đựng không ít quy luật lý thú đâu nhé. Ở những “toạ độ” này, không gian và thời gian ngược chiều nhau, sự chuyển vận của ngũ hành trong cả Không - Thời gian sẽ lập tức dừng lại, chuyển động bị triệt tiêu, vật chất biến mất. Ở cái “sát – na” cuối cùng trước khi biến mất ấy, “chuyển động” rơi vào “toạ độ” Không - Thời gian ảo. “Toạ độ” ảo đó tất nhiên cũng mang một thuộc tính ngũ hành nào đó. Nếu thuộc tính đó là “hoả” sẽ giải phóng ra năng lượng (dưới dạng photon chẳng hạn), thuộc tính đó là “thổ” sẽ hấp thụ năng lượng để biến thành một chuyển động khác, v.v... Đừng cho đấy là chuyện vô bổ, nhảm nhí. Cái ấy xin được gọi là “phản ngũ hành”. Biết đâu sẽ có lúc con người phải dùng tới cái món “phản ngũ hành” này thì sao? Ví dụ khi nghiên cứu về “phản vật chất” chẳng hạn? Khoa học chẳng đã từng phát hiện ra sự biến mất tăm tích của vô số loại “hạt” đó sao? Hy vọng sẽ có dịp quay trở lại câu chuyện lý thú này.
Vậy là ngũ hành đã “hóa thân” vào các “toạ độ” Không - Thời gian (Can, Chi) của mọi chuyển động. Ta tưởng ngũ hành đã “biến mất”. Song nó lại hiện ra ở chính mỗi “tọa độ” (Can, Chi) ấy. Nghĩa là đến lượt mỗi “tọa độ” Không - Thời gian kia lại mang một thuộc tính ngũ hành cụ thể. Biện chứng đến cỡ này chẳng trách phải “bái” các cụ làm... tiên sư. Theo đó thì: giáp tý, ất sửu... thuộc kim. Bính tý, đinh sửu... thuộc thuỷ. Mậu tý, kỉ sửu... thuộc hoả. Canh tý, tân sửu... thuộc thổ. Nhâm tý, quý sửu... thuộc mộc, v.v... Tóm lại là toàn bộ 60 “tọa độ” Can, Chi ấy cũng đều mang những thuộc tính ngũ hành.
Xin trình bày hệ thống ngũ hành của cả Không - Thời gian kèm theo “vòng ngũ hành” của riêng Can, Chi cùng với “vòng ngũ hành” của cả “tọa độ” Can, Chi như sau: (Trong đó “không gian” bắt đầu bằng mộc; “thời gian” bắt đầu từ dần.)
Số thứ tự
|
Tên “toạ độ” Không - Thời gian (Can, Chi)
|
Vòng ngũ hành của riêng “toạ độ” Không gian
(Can)
|
Vòng ngũ hành của riêng “toạ độ” Thời gian
(Chi)
|
Ngũ hành của cả “tọa độ” Không - Thời gian (Mệnh hay Mạng)
|
1
2
|
Giáp – Dần
Ất – Mão
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Thủy
|
3
4
|
Bính – Thìn
Đinh – Tỵ
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Thổ
Âm Hoả
|
Thổ
|
5
6
|
Mậu – Ngọ
Kỉ – Mùi
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Hỏa
Âm Thổ
|
Hỏa
|
7
8
|
Canh – Thân
Tân – Dậu
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Mộc
|
9
10
|
Nhâm – Tuất
Quý – Hợi
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Thổ
Âm Thuỷ
|
Thuỷ
|
11
12
|
Giáp – Tý
Ất – Sửu
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Thuỷ
Âm Thổ
|
Kim
|
13
14
|
Bính – Dần
Đinh – Mão
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Hỏa
|
15
16
|
Mậu – Thìn
Kỉ – Tỵ
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Thổ
Âm Hoả
|
Mộc
|
17
18
|
Canh – Ngọ
Tân – Mùi
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Hỏa
Âm Thổ
|
Thổ
|
19
20
|
Nhâm – Thân
Quý – Dậu
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Kim
|
21
22
|
Giáp – Tuất
Ất – Hợi
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Thổ
Âm Thuỷ
|
Hỏa
|
23
24
|
Bính – Tý
Đinh – Sửu
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Thuỷ
Âm Thổ
|
Thuỷ
|
25
26
|
Mậu – Dần
Kỉ – Mão
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Thổ
|
27
28
|
Canh – Thìn
Tân – Tỵ
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Thổ
Âm Hoả
|
Kim
|
29
30
|
Nhâm – Ngọ
Quý – Mùi
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Hỏa
Âm Thổ
|
Mộc
|
31
32
|
Giáp – Thân
Ất – Dậu
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Thuỷ
|
33
34
|
Bính – Tuất
Đinh – Hợi
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Thổ
Âm Thuỷ
|
Thổ
|
35
36
|
Mậu – Tý
Kỉ – Sửu
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Thuỷ
Âm Thổ
|
Hoả
|
37
38
|
Canh – Dần
Tân – Mão
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Mộc
|
39
40
|
Nhâm – Thìn
Quý – Tỵ
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Thổ
Âm Hoả
|
Thuỷ
|
41
42
|
Giáp – Ngọ
Ất – Mùi
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Hỏa
Âm Thổ
|
Kim
|
43
44
|
Bính – Thân
Đinh – Dậu
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Hoả
|
45
46
|
Mậu – Tuất
Kỉ – Hợi
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Thổ
Âm Thuỷ
|
Mộc
|
47
48
|
Canh – Tý
Tân – Sửu
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Thuỷ
Âm Thổ
|
Thổ
|
49
50
|
Nhâm – Dần
Quý – Mão
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Kim
|
51
52
|
Giáp – Thìn
Ất – Tỵ
|
Dương Mộc
Âm Mộc
|
Dương Thổ
Âm Hoả
|
Hỏa
|
53
54
|
Bính – Ngọ
Đinh – Mùi
|
Dương Hỏa
Âm Hỏa
|
Dương Hỏa
Âm Thổ
|
Thuỷ
|
55
56
|
Mậu – Thân
Kỉ – Dậu
|
Dương Thổ
Âm Thổ
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Thổ
|
57
58
|
Canh – Tuất
Tân – Hợi
|
Dương Kim
Âm Kim
|
Dương Thổ
Âm Thuỷ
|
Kim
|
59
60
|
Nhâm – Tý
Quý – Sửu
|
Dương Thuỷ
Âm Thuỷ
|
Dương Thuỷ
Âm Thổ
|
Mộc
|
Những ngũ hành của cả “toạ độ” Can, Chi ấy gọi là “mệnh” hay “mạng” đã được người xưa lập sẵn. Hàng nghìn năm nay, nó luôn là một điều bí hiểm đối với các nhà nghiên cứu. Như trên đã nói, “vòng ngũ hành” của không gian và thời gian không giống nhau. Song ngoại trừ việc xen lẫn tính “thổ” trong “vòng ngũ hành” của thời gian, thì về cơ bản, cả hai “vòng” ấy đều tuân theo quy luật ngũ hành tương sinh như bảng trên đã chỉ rõ. Vậy mà khi kết hợp lại thành Không - Thời gian (Can, Chi), thì cái “vòng ngũ hành” của cả Can, Chi này lại biến ảo vô cùng phức tạp. Nó không chuyển vận theo quy luật tương sinh, cũng không phải tương khắc, cứ gọi là... loạn xà ngầu. Tại sao lại như vậy?
Trước tiên, nhìn bảng trên, ta chỉ thấy một điều rằng cứ hai “tọa độ” Không - thời gian (Can, Chi) âm dương liên tục của cùng 1 thuộc tính ngũ hành của không gian (hàng Can) (ví dụ dương mộc, âm mộc; dương hoả, âm hoả...), sẽ có chung 1 thuộc tính ngũ hành của cả hệ. Như vậy, sở dĩ chỉ có 1 thuộc tính ngũ hành chung cho cả 2 “tọa độ” Không - Thời gian nối tiếp nhau là do thuộc tính ngũ hành của riêng “tọa độ” không gian quy định.
Tiếp theo, vậy “thuộc tính” ngũ hành chung của cả hai hệ (Can, Chi) liên tiếp ấy cụ thể là cái gì? Điều này quyết không phải do những ngũ hành thành phần cấu tạo nên hệ đó quy định. Ví dụ năm Giáp Dần (Can: dương mộc + Chi: dương mộc) có “mệnh” là thuỷ, thì “thuỷ” ấy không phải do hai thành phần là dương mộc (Can) và dương mộc (Chi) tạo nên cái “tọa độ” Không Thời - gian Giáp Dần ấy quy định. Nói cách khác, ngũ hành của cái Can, Chi ấy của những “nămTrái Đất” lại... không thể tìm thấy trên Trái Đất. Vậy do đâu mà có “thuỷ” trong cái “toạ độ” Giáp Dần ấy?
Xin thưa rằng cái món “thuỷ” ấy chính là một dạng kiểu như “thời” của Giáp Dần (cũng tức là “thời” của cả Ất Mão nữa). Hai “toạ độ” ấy đang “nằm” trong “thời” thuỷ, chúng “thuộc” về thuỷ. Nghĩa là Giáp Dần (và Ất Mão) với danh nghĩa là “toạ độ” Không - Thời gian của 1 chu kì cụ thể (năm, tháng, hoặc ngày, giờ ,v.v...) Song chu kì cụ thể đó lại nằm trong 1 hay nhiều chu kì khác lớn hơn nó. Chính chu kì lớn hơn này cũng (đang) có các “toạ độ” Không - Thời gian (Can, Chi) (cũng tức là có các thuộc tính ngũ hành) riêng của nó. Và những thuộc tính ngũ hành của chu kì lớn hơn ấy đã “chi phối”, đã quy định nên cái thuộc tính ngũ hành của chu kì dưới nó (trong ví dụ này là tính “thuỷ” của Giáp Dần và Ất Mão).
Nghĩa là thuộc tính ngũ hành của bất kì một hệ Can, Chi (hay “tọa độ” Không - Thời gian) của một chu kì nào cũng do những thuộc tính ngũ hành của một hoặc nhiều chu kì lớn hơn nó quy định. Bảng “nạp âm” hoa giáp cụ thể trên mô tả các vòng ngũ hành của chu kì năm Trái Đất, là chu kì chuyển động của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Vậy ngũ hành của cả Can, Chi của các năm Trái Đất không do Can, Chi cụ thể của từng năm quy định, mà do thuộc tính ngũ hành của chu kì lớn hơn chu kì năm Trái Đất chi phối mà thành.
Điều đó cũng có nghĩa là ngũ hành, ngay từ đầu đã không quan niệm Trái Đất là trung tâm của vũ trụ như thuyết “địa tâm” củaPtolemymột thời thống trị cả tôn giáo phương Tây. Vậy cái chu kì lớn hơn ấy (đối với năm Trái Đất) cụ thể là gì?
Còn nữa, kỳ sau đăng tiếp
tin tức liên quan
Videos
Người Amish ở Mỹ
Phân tầng xã hội và di động xã hội ở Việt Nam hiện nay [kỳ 3]
Đền Hồng Sơn
Một nước Nhật quá xa xôi!
Lenk
Thống kê truy cập
114512029
Hôm nay
2355
Hôm qua
2337
Tuần này
22403
Tháng này
218902
Tháng qua
121356
Tất cả
114512029