Chúng tôi nhấn mạnh ý hai thế giới trong Hồng lâu mộng là sự đối chiếu mạnh mẽ giữa thanh sạch và nhơ bẩn. Các dẫn chứng đã nêu ủng hộ cho quan điểm cơ bản này - ít nhất là trên phương diện nhận thức logic.
Chúng tôi nhấn mạnh ý hai thế giới trong Hồng lâu mộng là sự đối chiếu mạnh mẽ giữa thanh sạch và nhơ bẩn. Các dẫn chứng đã nêu ủng hộ cho quan điểm cơ bản này - ít nhất là trên phương diện nhận thức logic.
Thế nhưng cuối cùng chúng ta vẫn phải giải đáp một vấn đề có tính kinh nghiệm cụ thể. Đó là, vậy thì cuộc sống Đại Quan Viên quả thật có thanh sạch? Nếu Đại Quan Viên cũng nhơ bẩn như cuộc sống bên ngoài thì sự đối lập mà chúng tôi nhấn mạnh khó tránh được tiếng bắt bóng bắt gió trong nghiên cứu tác phẩm.
Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta đương nhiên không còn có thể vận dụng phương thức chứng minh như trên đây nữa. Bởi vì không thể tìm được chứng cứ ở chỗ không tồn tại cái mà ta tìm để làm chứng cứ, đây muốn nói đến cái gọi là “nhơ bẩn” trong thế giới Đại Quan. Trên nguyên tắc, Tào Tuyết Cần khoanh riêng một vườn Đại Quan là để viết Tình chứ không phải viết Dâm. Trong lúc đó ông lại cố tình miêu tả tường tận cái dâm uế của thế giới bên ngoài, dường như là để đối chiếu với cuộc sống tình cảm trong sạch trong địa đàng Đại Quan.
Chúng ta đều biết Đại Quan Viên về cơ bản là thế giới của các kim thoa. Trừ mỗi Bảo Ngọc ra còn thì không có một chàng nào sống trong vườn này cả.[1] Vì vậy chỉ cần chúng ta chứng minh được cuộc sống của Bảo Ngọc là trong sáng thì tính thuần khiết của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên đã được chứng tỏ. Liên quan đến chuyện này, tác giả tiểu thuyết từng cố ý lưu lại cho độc giả một manh mối nhỏ trong tình tiết Bảo Ngọc bảo Tình Văn lấy nước hầu tắm ở hồi 31. Tình Văn cười đáp: “Còn nhớ hôm chị Bích Ngân xua cậu đi tắm. Lâu đến hai, ba canh giờ, không biết làm những gì. Chúng tôi cũng không tiện vào đấy. Khi tắm xong, vào xem thì thấy nước tràn đến tận chân giường, ngay đến chiếu cũng ướt dầm dề, cũng chả biết tắm táp kiểu gì nữa!”[2] Đoạn này thoạt trông như tuồng có ẩn ý gì. Kì thực đấy chỉ là cái “giảo hoạt” của ngòi bút trần thuật lừa dẫn độc giả vào chỗ nhầm đường. Tập Nhân vì được Vương phu nhân tin tưởng, thành ra kể từ sau khi Bảo Ngọc vào ở trong Đại Quan Viên lại càng đâm ra giữ khoảng cách hơn. Đêm hôm hầu hạ Bảo Ngọc vẫn chỉ là Tình Văn. Nếu như Bảo Ngọc quả có làm gì quá ngưỡng thì Tình Văn là người mang tiếng nhất. Tình Văn sau cùng bị đuổi cũng chính là vì nghi có gì bất chính với Bảo Ngọc. Thế nhưng sự thật ta đều biết hai người luôn giữ một quan hệ trong sáng thuần khiết. Thế cho nên Tình Văn trước lúc chết còn nói mình “mắc phải cái tội suông tiếng hão”. Tác giả có ý chứng minh cho sự thuần hậu thanh khiết cho hai nhân vật này khi xây dựng tình tiết “Đăng cô nương” – dâm phụ vợ ông anh con cậu của Tình Văn lén rình theo dõi Bảo Ngọc đến thăm Tình Văn lúc bị đuổi khỏi Đại Quan Viên, ốm nằm ở nhà ả ta. Chính ả ta phải thừa nhận: “Tôi về đứng bên ngoài cửa sổ nghe được một hồi rồi. Trong phòng chỉ có cậu và Tình Văn, nếu mà có chuyện mèo chuột gì há đã chẳng nói đến rồi. Ai hay quả hai người thật chẳng có gì dan díu với nhau cả. Thế mới biết chuyện oan uổng trên đời kể cũng không ít vậy”.[3] Thật đúng như nhận xét của Giải Am cư sĩ: “Ngoài song nghe trộm, chứng minh cho sự trinh khiết của Tình Văn. Nếu không hai chữ “tiếng hão” ai mà tin được”.[4] Trên thực tế lời nói của “Đăng cô nương” không chỉ rửa oan cho Bảo Ngọc và Tình Văn mà còn tỏ rõ cho ta thấy đời sống thuần khiết trong Đại Quan Viên. Giữa Bảo Ngọc với người gần gũi nhất mà cũng mang lấy tiếng tăm nặng nề nhất - Tình Văn, trên thực tế lại “thật chẳng có gì dan díu với nhau cả” thì đủ thấy những mối quan hệ tình cảm khác của Bảo Ngọc cũng không có gì là ám muội cả.[5]
Cuối cùng còn một vấn đề khó cần phải trao đổi nhiều hơn. Đó chính là chuyện con hầu ngốc nhặt được túi tú xuân hồi 73. Chuyện này thoạt trông có vẻ mâu thuẫn với luận điểm cho rằng Đại Quan Viên là thế giới lí tưởng thanh khiết. Thế nhưng phân tích kĩ lượng, lại vẫn là phù hợp với nhận định chung của chúng tôi về hai thế giới trong tác phẩm. Cái túi tú xuân đó là chuyện hồi 71: Tư Kì và anh họ của cô ta là Phan Hựu An hò hẹn với nhau trong vườn rồi đánh rơi túi mà không hay.[6] Thế nhưng khi hồi 72 mới bắt đầu tác giả đã nói rõ đôi trai gái cũng chỉ mới vừa gặp mặt thì đã bị Uyên Ương làm kinh động, mỗi người mỗi ngả.[7] Đủ thấy Đại Quan Viên cho tới khi cập kề bên bờ tan vỡ vẫn không biến màu thanh khiết lí tưởng. Đáng chú ý hơn là, đến hồi 74 sau khi tra tìm được Tư Kì, cho nàng là nghi can của “vụ án” thì nàng cũng chỉ cúi đầu nín ngậm, không chút sợ hãi ân hận gì cả. Vậy thì dũng khí của cô gái đến từ đâu? Câu trả lời đương nhiên chỉ có tìm trong sự phân biệt tình và dâm mà chúng tôi đề xuất trong bài này. Tư Kì là người mê luyến chữ tình vậy. Căn cứ vào quan điểm “tri tình càng dâm” và “tình đã tương phùng tất chủ dâm” mà xét thì cái mà thế tục gọi là “gian tình” đó cũng không hẳn là tội lỗi gì. So với những chuyện dâm ô của thế giới bên ngoài thì cũng khó mà nói đó là bẩn thỉu.
Thử đổi sang phân tích nhìn nhận vấn đề từ một góc độ khác. Nếu tác giả muốn xử lí đề tài trên theo hướng khẳng định câu chuyện có tính chất tiêu cực thì chúng ta bắt buộc phải nói đó chính là sự phát triển nội tại phải có trong bi kịch Hồng lâu mộng. Chúng tôi đã chỉ rõ trong các phần trước, thế giới lí tưởng trong Hồng lâu mộng sẽ đi đến chỗ tiêu tan trước sức xâm hại không ngừng của các thế lực đến từ thế giới hiện thực. Sự xuất hiện của túi tú xuân trong Đại Quan Viên là kết quả của sự xâm nhập sức mạnh từ bên ngoài. Thế nhưng, thế lực ngoại tại sở dĩ có thể tác động vào trong Đại Quan Viên ấy là do những nguyên nhân tự bên trong. Tức chính là do một chữ tình trong thế giới lí tưởng chuốc rước lấy. Tình trong thế giới lí tưởng đương nhiên là thanh khiết, nhưng nó cũng như nước trong Đại Quan Viên rồi cũng không tránh khỏi phải trôi chảy ra thế giới bên ngoài. Theo nghĩa này mà nói, tính cách bi kịch của Hồng lâu mộng đã được quyết định ngay từ đầu. Chúng tôi từng nói, giữa hai thế giới mà Tào Tuyết Cần sáng tạo ra tồn tại một mối quan hệ động. Giờ đây đã có thể bổ sung thêm một câu – mối quan hệ trong trạng thái động đó được xây dựng trên nên tảng “tình đã tương phùng tất chủ dâm”.
Rất nhiều dấu hiệu cho thấy, Tào Tuyết Cần đã sắp tính thế giới lí tưởng Đại Quan Viên sẽ tiêu tàn trong khoảng từ hồi 71 đến hồi 80. Tình tiết tiêu biểu nhất chính là bài thơ liên tác của Đại Ngọc cùng Tương Vân trong đêm trung thu ở hồi 76. Câu cuối bài Đại Ngọc viết: “Lãnh nguyệt táng hoa hồn” (trăng lạnh chôn hồn hoa). Diệu Ngọc nghe ngâm vội ra cản lại nói: “Vừa nãy nghe ngâm, các câu tuy hay thật, nhưng giọng thơ quá suy đồi buồn thảm, đấy cũng là quan hệ đến khí số con người, cho nên tôi ra ngăn lại”.[8] Chúng ta đều biết, hoa chính là tượng trưng cho các cô trong Đại Quan Viên. Giờ đây khi Đại Ngọc ngâm lên khúc vãn ca “táng hoa hồn”, là lúc ta thấy khí số của vườn Đại Quan đã sắp đến hồi tận rồi. Xem ra, vụ túi tú xuân xảy ra trong vườn Đại Quan không phải là chuyện ngẫu nhiên. Hạ Chí Thanh so sánh chuyện này với sự xuất hiện của rắn trong vườn Ê đen. Sau khi rắn xuất hiện trong vườn Địa Đàng thì Adam và Eva đã phải đọa lạc xuống trần gian. Tống Kì dẫn lại chuyện này, khen so sánh thật sắc sảo.[9] Chúng tôi cũng rất tán thưởng với hai học giả.
Hồng lâu mộng bản 120 hồi hiện hành không phải là của cùng một tác giả, chuyện đó đã được công nhận ít nhất là cho đến giai đoạn nghiên cứu hiện thời. Trong 80 hồi của Tào Tuyết Cần, Đại Quan Viên bề ngoài vẫn là chốn “hoa phồn liễu thịnh”, vì vậy chúng ta không có cách nào để biết tác giả rốt cuộc sắp xếp ra sao cuộc điêu tàn của ngôi vườn. Điều có thể hơi phỏng đoán được, đó là tác giả có lẽ muốn dùng cách đối chiếu mãnh liệt để làm nổi bật kết cục bi thảm. Cho nên Hồng lâu mộng-Tịnh Ứng Côn tàng bản ở hồi 42 có lời bình của Chi Nghiên Trai: “Từ đây về sau, không nỡ đọc hết”.[10] Chu Nhuận Xương phán đoán “Trong nửa sau tiểu thuyết thân phận, địa vị vốn có của tất cả các nhân vật đều bị “đảo lộn” đi”.[11] Phần đa các nhà nghiên cứu đều đồng tình với phán đoán đó. Hiện tượng đảo lật đó không chỉ diễn ra ở các nhân vật. Theo người, vườn Đại Quan cũng vật đổi sao dời, đổi từ phồn hoa sang điêu linh.[12] Vả chăng sự “đảo lộn” của con người cũng không chỉ ở trong phạm vi thân phận địa vị. Nhìn trên quan điểm hai thế giới trong tác phẩm mà chúng tôi triển khai trong suốt bài này, còn có thể nói đến sự đảo lộn khác nữa – sự đảo lộn từ thanh khiết sang nhơ bẩn.
Các nhân vật trong Đại Quan Viên đều yêu sự sạch sẽ, điều này mọi người ai cũng công nhận. Thế nhưng càng là người mắc chứng thích sạch sẽ càng hay bị dây bẩn. Hồi 40, 41 cho ta một dẫn chứng. Giả Mẫu dẫn một nhóm trong đó có già Lưu vào xem nơi ở của Thám Xuân. Giả Mẫu cười nói: “Chúng ta đi thôi, chị em chúng nó không thích người đến đứng ngồi chỗ của chúng, sợ bẩn mất nhà. Chúng ta biết thừa đi rồi, ra chỗ thuyền uống rượu đi”. Thám Xuân xã giao lưu bọn họ ở lại, Giả Mẫu còn đế thêm: “Ba con nha đầu chỗ ta thế mà khá, chỉ Bảo Ngọc Đại Ngọc hai đứa cháu này đáng ghét, hồi nữa rượu say rồi đến phòng chúng quấy chơi”.[13] Chi tiết này dẫn mở cho đoạn “Già Lưu say nằm Di Hồng Viện” ở hồi kế tiếp. Bảo Ngọc hiềm ghét nhất đàn bà có chồng bẩn thỉu. Thế mà tác giả lại để cho già Lưu say rượu nằm bò ra trên giường Bảo Ngọc, lại còn làm cho cả phòng ngạt nồng mùi rượu thịt.[14] Trong hồi này còn kể chuyện già Lưu đến uống trà ở am Lũng Thuý. Tình tiết này cũng là để làm nổi bật “bệnh sạch” của ni cô Diệu Thuý. Về sau như ta đã biết, Diệu Thuý kết cục hết sức bi thảm. Chính sách của Diệu Thuý viết: “Dục khiết hà tằng khiết, vân không vị tất không; Khả liên kim ngọc chất, chung hãm náo nê trung”. Còn trong Hồng lâu mộng khúc tử thì nói Diệu Ngọc “Đáo đầu lai y cựu thị phong trần khảng tang vi tâm nguyện, hảo nhất tựa vô hà bạch ngọc tao nê hãm, hựu hà tu vương tôn công tử thán vô duyên”.[15] Đây chính là bằng chứng nói trước chuyện 80 hồi sau Diệu Ngọc trầm luân đọa lạc. Diệu Ngọc là một người thanh sạch đệ nhất trong thế giới lí tưởng Đại Quan Viên, và sau khi thế giới đó tan vỡ lại là người lưu lạc vào chốn ô uế nhất của thế giới hiện thực. Chỉ riêng ở trường hợp nhân vật này cũng có thể thấy được bút pháp tạo thế tương phản mãnh liệt trong tạo dựng hình tượng hai thế giới đối lập trong tác phẩm.
Nói tóm lại, tiểu thuyết Hồng lâu mộng chính là một sự miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng. Nhưng thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Vườn Đại Quan hương thanh quả khiết vốn là kiến thiết trên nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Mà trong suốt quá trình vun đắp phát triển của vườn, hoa thanh quả khiết của vườn cũng không ngừng bị rình rập phá bẻ bởi bao bàn tay nhớp nhúa bên ngoài. Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng đành rũ rụng giữa ô uế. Xem ra, đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng lâu mộng, và đó cũng là bi kịch lớn nhất mà Tào Tuyết Cần từng thấy giữa nhân gian.
Vinh,2007-2009,HàNội
2322
2405
21489
227630
129483
114569106