Kể từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, những vấn đề về tình yêu, hôn nhân, tài năng, số phận và sự chấp nhận của xã hội đối với nữ giới đã được đặt ra. Đến giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, trên văn đàn những tác phẩm về đề tài phụ nữ càng nở rộ, trong đó người cung nữ cũng là một đề tài rất được các văn nhân quan tâm. Nhưng khác với Nguyễn Dữ cũng khác cả với Cung oán thi, Cung oán ngâm khúc, Hoàng Lê nhất thống chí, cả Lan Trì kiến văn lục ... về sau, Đoàn Thị Điểm đã đi một hướng khác.Mặc dù cũng sử dụng thể loại truyền kỳ, nhưng Đoàn Thị Điểm đã khai thác khái niệm kỳ ở một cung bực khác và đưa vào một cách viết cũng khác với vị tiền bối của mình. Tác phẩm của bà vừa là phả (truyện tiểu sử) nhưng lại cũng vừa là truyện kỳ. Nếu Nguyễn Dữ chú trọng đến tính lãng mạn kỳ ảo, hoang đường nhiều ý nghĩa phúng dụ thì Đoàn Thị Điểm lại viết về chuyện “người thật việc thật” và chú ý khai thác ý nghĩa khác lạ của cái kỳ. Nhân vật chủ đạo trong Truyền kỳ tân phả cũng là phụ nữ, nhưng nếu mượn thuật ngữ của sân khấu để phân loại thì họ tuyệt đối không thuộc loại các vai “đào lẳng”. “đào ác”. Họ là các nhân vật chính diện, mặc dù cũng “dữ dội”, nồng nàn, quyết liệt trong tình yêu (chúa Liễu Hạnh, phu nhân của Đinh Nho Hoàn, tiên nữ Giáng Kiều ...) nhưng họ vẫn tiêu biểu cho những đức tính, những điều tốt đẹp, lý tưởng mà người dân Việt Nam mong đợi. Phải chăng chính vì vậy mà họ mãi mãi được tôn thờ, và người con gái nhà thường dân họ Lê – Liễu Hạnh – đã trở thành Thánh mẫu, một trong tứ bất tử của thế giới thần Việt Nam ? Nhưng đó là những vấn đề chung về thể loại văn học, chắc chắn phải suy nghĩ thêm nhiều và có thể phải được đặt ra, ở một dịp khác.
Trở lại vấn đề của tác phẩm Đền thiêng ở Hải Khẩu. Phó Giáo sư Nguyễn Đăng Na trong một công trình nghiên cứu về Truyện ngắn trong sự phát triển của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại(1) đã đối chiếu các tình tiết của cốt truyện với chính sử Việt Nam – Bộ Đại Việt sử ký toàn thư, phần Trần Duệ Tông, Lê Thánh Tông và đi đến một nhận xét thú vị rằng: “Mọi chi tiết trong truyện Đền thiên cửa bể của Đoàn phu nhân đầu thế kỷ XVIII đều “khớp” với lịch sử, chính xác đến từng năm, từng tháng và kể cả thời tiết ... của thế kỷ XIV – XV. Quả là các nhân vật, sự kiện và địa danh quan trọng của truyện đều là nhân vật, sự kiện, địa danh lịch sử: vua Trần Duệ Tông, vua Lê Thánh Tông, Ngự sử trung tán Lê Tích, tướng Chiêm Thành Bà Ma, cửa biển Kỳ Hoa, động Ỷ Mang, niên hiệu Long Khánh thứ tư (1377) Đỗ Tử Bình cáo cấp về tình hình biên giới phía Nam, niên hiệu Hồng Đức, Lê Thánh Tông xuất quân đi đánh Chiêm Thành ... Nhưng Đoàn Thị Điểm viết truyện lịch sử; tất cả các sự thật lịch sử chỉ là chất liệu để bà xây dựng truyện; bà thêm bớt chi tiết, chuyển đổi hình thức các sự kiện theo quan niệm của bà nhằm thực hiện ý tưởng thẩm mỹ, làm cho câu chuyện sinh động. Ví như tờ sớ can Duệ Tông không nên cất quân đi đánh Chiêm Thành của Lê Tích, đã được chuyển thành lời tâu – đối thoại trực tiếp, tờ chiếu của lê Thánh Tông rất dài nêu lý do thân chinh (đánh Chiêm Thành) chuyển thành lời truyền bảo trực tiếp ngắn gọn: “Vua nghe tin, bảo tả hữu rằng...”; ngày Lê Thánh Tông cất quân đi thuộc tháng 11, có mưa và có gió bấc, nhưng với Đoàn Thị Điểm thì đó là “mùa xuân, khí trời ấm áp”, thuyền thuận buồm xuôi gió, hai bờ sông chim hót, mặt nước có le vịt bơi lặn và vua cảm hứng ngâm thơ ... Tuy vậy, những thay đổi ấy không ảnh hưởng gì nhiều đến sự thật lịch sử quan trọng mà Đoàn Thị Điểm đề cập đến trong tác phẩm: cuộc đánh Chiêm Thành thất bại của Trần Duệ Tông, sự suy thoái của vương triều Trần, yêu cầu cải cách, chấn chỉnh triều chính, yêu cầu giữ gìn đất nước hòa bình ... Như vậy Đền thiêng ở Hải Khẩu có thể coi là tác phẩm thuộc loại viết về “việc thật người thật”? Tuy nhiên nhân vật chính của tác phẩm – cung nhân Nguyễn Thị Bích Châu và bài Thập sách có giá trị tư tưởng lớn lao mà bà dâng lên vua Duệ Tông lại chưa tìm được dấu vết trong các sách sử về đời Trần.Hồng Hà nữ sĩ đã hư cấu nên nhân vật Bích Châu để chuyển tải tư tưởng của bà chăng, hay nàng cung nhân xinh đẹp và trí tuệ ấy là nhân vật lịch sử có thật? Cách đây ba chục năm, với cảm quan trực giác và căn cứ vào đặc điểm của văn học trung đại (tác phẩm văn học có thể lưu giữ tác phẩm văn học khác), trong Thơ văn Lý Trần Tập III (xuất bản năm 1978) Trần Lê Sáng cũng đã coi Bích Châu là một tác giả và Kê minh thập sách là tác phẩm của bà, dù vẫn còn đặt dưới dạng tồn nghi, nghĩa là còn cần tiếp tục đi tìm chứng cứ. Khoảng cuối thập kỷ tám mươi thế kỷ trước, trong tập truyện ngắn Vườn Kỳ trong phủ chúa, “dựng lại” chân dung một số tác gia nữ thời trung đại, nhóm Trần Thị Băng Thanh cũng coi Bích Châu là tác giả, nhưng dù sao cũng là viết truyện. Từ đấy đến nay, các thành viên của Nhóm Thơ văn Lý Trần cũng chưa đi xa hơn được bao nhiêu trong việc giải đáp câu hỏi khó khăn này. Quả thực tính truyền kỳ của tác phẩm có phần khiến nhiều nhà nghiên cứu cũng như chính bản thân tôi không mấy tin tưởng vào việc tìm ra dấu vết của một nhân vật đã sống cách thời đại mình hàng gần thiên niên kỷ! Nhưng gần đây do nghiên cứu Đoàn Thị Điểm và may mắn được biết đền thờ Hải Khẩu tôi đã có một cách nghĩ khác. Kể ra căn cứ vào cách xây dựng nhân vật của Hồng Hà nữ sĩ ở Truyền kỳ tân phả (đều có nguyên mẫu, gốc gác) và tục hiến tế trong thời trung đại thì cũng có thể tin vua Duệ Tông đã từng hiến tế cung nhân của mình cho thần biển để cầu sóng yên bể lặng. Chứng cứ là cách thời Duệ Tông chưa đầy bốn mươi năm, Lê Lợi cũng đã hiến tế người vợ họ Phạm của mình đề cầu thần giúp cho cuộc hành quân. Việc ấy được ghi trong Lam Sơn thực lục, Ngọc phả và nhiều sách khác. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi về bà với tư cách là thân mẫu vua Lê Thái Tông. Bích Châu thì chưa tìm được Ngọc phả,(1) có lẽ các nhà viết sử theo quan điểm nho gia dè dặt với những chuyện “quái, lực”, không ghi chép về bà. Thế nhưng ngôi đền thờ bà ở Hải Khẩu, nơi chính bà đã tự nguyện hy sinh tính mạng, cuộc sống cho việc lớn của đất nước, trải qua một thời gian dài trên sáu trăm năm, gần bằng lịch sử nền độc lập tự chủ của dân tộc, qua bao thăng trầm, biến đổi bể dâu của đất nước vẫn linh thiêng, chưa bao giờ lạnh khói hương, đã chứng thực cho hành vi cao cả vì dân vì nước của bà, chứng tỏ người dân vẫn ghi nhớ công tích của bà và sự giao cảm giữa tinh linh bà với dân tộc. Điều đó cũng đáng ti cậy và đáng quý không thua gì những dòng ghi chép của chính sử. Ngày nay ngôi đền không còn lưu giữ được những dấu vết văn hóa vật thể từ thời trần, nhưng thơ văn lại chứng thực cho lai lịch của nó. Bài thơ sớm nhất nhắc đến ngôi đền Chế Thắng phu nhân là của vua Lê Thánh Tông, làm trong dịp nhà vua “Chinh Chiêm Thành” vào hai năm đầu niên hiệu Hồng Đức (1471 – 1472) chép trong Minh lương cẩm tú: Nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa (Hà Hoa hải môn lữ thứ). Bài thơ như sau:
Hà Hoa đáo xứ vũ sùng triêu,
Hoàn hải mang nhiên tứ vọng diêu.
Xúc thạch du du vân luyến tụ,
Bài nham húng húng lãng tùy triều.
Thủy Tiên đàm thượng yên hà cổ,
Chế Thắng từ trung thảo mộc kiều.
Túy ỷ song bồng ngâm ý phát,
Thi hoài khách tứ bội vô liêu.
Vị túc nho Đỗ Ngọc Toại đã dịch thành thơ:
Mưa mai mù mịt cửa Hà Hoa,
Ngắm biển mênh mang bốn phía xa.
Mây mến đầu non lơ lửng đứng,
Sóng theo con nước rập rờn qua.
Thủy Tiên đầm nọ đầy sương ráng,
Chế Thắng đền kia rực cỏ hoa.
Say tựa mui thuyền càng nảy hứng,
Lòng thơ dạ khách khó khuây khoa.
Bài thơ có một lời “nguyên chú” ghi được hai huyền thoại vẫn truyền tụng trong dân gian về Đầm Thủy Tiên và phu nhân Chế Thắng:
“Bên trái cửa biển có núi Bàn Độ (Thiên Nam dư hạ chép là bàn Khánh), dưới chân núi có đầm nước từ các nơi đổ về, thổ dân thường thấy hai tiên nữ từ trong đầm đi ra, lên núi chơi ở chỗ bàn cờ.”
Chế Thắng là cung nữ của vua trần Duệ Tông. Nhà vua Nam chinh, tới Kỳ Hoa gặp gió to, thuyền không qua được, nhà vua bèn trai giới bí mật cầu đảo, đặt người cung nữ ấy lên chiếc mâm vàng, để trôi trên mặt nước dâng cho thủy thần. Do có chuyện báo ơn đó, nên thường linh ứng. Người dân bèn lập đền thờ ở bên trái cửa biển. Nay trong Tự điển là thượng đẳng thần. Vũng dưới gọi là Vũng Nàng (Loan Nương)”.
Lời chú có thể không phải của chính lê Thánh Tông mà là của người sao chép tập Minh lương cẩm tú, nhưng bài thơ đã minh chứng rằng khi Lê Thánh Tông đi qua (năm 1471 - 72) ngôi đền đã hiện diện, nó được xây dựng từ trước Lê Thánh Tông, người cung nhân của vua Trần Duệ Tông có thể cũng đã được phong mỹ hiệu Chế Thắng từ trước đó (hoặc chính Lê Thánh Tông phong khi đi và đây là bài thơ làm khi nhà vua khải hoàn ?). Và cho đến khi tập thơ được sao chép thì các triều đại đã ghi tên bà trong danh sách các thần được thờ, ở cấp bậc thượng đẳng. Khi vua Lê Thánh Tông nghỉ lại ở cửa biển Hà Hoa, ngôi đền thờ Chế Thắng cỏ cây vẫn tươi tốt, điều đó chứng tỏ ngôi đền vẫn được chăm sóc chu đáo, chuyện về bà vẫn được dân chúng lưu truyền. Cuộc Nam chinh của Lê Thánh Tông cách cuộc Nam chinh của Trần Duệ Tông chưa đầy một trăm năm, tấm gương hy sinh của bà và câu chuyện hiến tế bi thương hãi hùng có phần chắc vẫn còn đậm tính thời sự. Một thiết chứng như vậy cho phép tin chắc rằng Bích Châu là một nhân vật lịch sử có thật. Kết luận ấy còn được củng cố thêm bằng tác phẩm của nhiều nhân vật khác. Ví như trên bốn trăm năm sau, dưới thời Tây Sơn, khoảng sau 1789, Ngô Thì Nhậm trên đường vào Phú Xuân, nghỉ lại ở Dinh Cầu (Phía bắc sông Gianh, nay thuộc huyện Kỳ Anh), cảm nghĩ về thời cuộc cũng đã miêu tả cảnh cây cối tốt tươi nơi đền thờ phu nhân: “Tế liễu lục thùy Tiên Thánh miếu / Trường dương thúy kết Thắng phi điền” (Bên miếu Tiên Thánh – một vị tướng của chúa Trịnh – rủ nhành liễu xanh / Cây dương biếc cao, kết thành hoa tai phu nhân Chế Thắng). Câu thơ có nguyên chú: “Chế Thắng phu nhân là thứ phi của vua Trần Duệ Tôn, có miếu thờ ở cửa bể Xích Lỗ” Đến Bùi Dương Lịch, câu chuyện “tục truyền” này được ghi rõ trong phần Địa chí của Nghệ An ký, mục về sông núi: “Núi Bàn Độ, ở trên bờ biển thuộc xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Hoa. Mạch núi từ Vọng Liệu đến đây thì nổi lên. Khi Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm thành, đi đến đó, thuyền không tiến lên được. Vua phải lấy một cung nhân cho ngồi lên chiếc mâm vàng thả xuống nước hiến cho thủy thần thì thuyền lại đi được. Nay bên núi có đền thờ Chế Thắng phu nhân”([1]). Trong mục này ông còn chép bài thơ của Bùi Huy Bích có nhắc đến đền thờ Chế thắng. Và ở mục Hải Khẩu, ông cũng chép bài thơ Hà Hoa hải môn lữ thứ của Lê Thánh Tông. Có phần chắc Đoàn Thị Điểm đã khai thác các tư liệu này và biết đâu bà còn những tư liệu nào khác mà ngày nay đã mất hoặc chưa được khai thác?
Đến đây, qua những tư liệu vừa dẫn đã có thể yên tâm về kết luận nguyễn mẫu của nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu trong truyện Đền thiêng ở Hải Khẩu của Đoàn Thị Điểm chính là cung nhân của vua Trần Duệ Tông, một nhân vật lịch sử có thật. Vấn đề còn lại chỉ là Kê minh thập sách có đích thực là của bà? PGS. Nguyễn Đăng Na, trong tài liệu đã dẫn cho rằng: “... bài Kê minh thập sách của cung nữ Bích Châu thời trần Duệ Tông (1373 – 1377) thế kỷ XIV cũng dường như được “sao y bản chính” từ Thập điều khải của Thái thường tự khanh Bùi Sĩ Tiêm dâng vua Lê Duy Phường năm 1731, thế kỷ XVIII. Chúng tôi hoàn toàn không nghĩ thế, xin so sánh cụ thể hai tác phẩm:
Kê minh thập sách
|
Thập điều khải
|
Trộm nghĩ, dời củi nâng mái bếp, Quốc gia thừa hưởng
gây nền trị từ khi chưa loạn; dùng thái bình đã lâu, trong nước
dâu ràng cửa tổ, được ở yên cần lo an ninh, biên thùy yên lặng,
tính lúc nguy. Vì dân tình dÔ ®ắm vèn không có việc gì đáng
đuối sự yên vui; mà thế nước vẫn khó nói. Nhưng trong buổi thái
giữ luôn thời bình trị. Cho nên dâng hòa chí trị mà thánh nhân
lời răn chí chơi bời lười nhác, Cao vẫn lo lắng như những câu
Dao trước hãy ngợi khen; ở vào thời “lúc chưa mưa phải sửa sang
không máu chảy gươm khua, Giả nhà cửa” và câu “phải buộc
Nghị vẫn tâu lời than thở. Chỉ vìyêu chặt như rễ dâu” chính là
vua mà ngăn trước; không phải khác những việc cần kíp lúc này.
chúng để khoe tài. Tiện thiếp tên gọi Ngu tôi thiển nghĩ những
Bích Châu, lúc nhỏ vốn nhà nghèo việc thiết yếu của quốc gia
khó, lớn lên được tuyển vào cung, ơn chỉ là:
sủng chứa chan, thương yêu đằm thắm.
Vá xiêm áo vua Ngu, dám đâu sánh với
Người nam tử; rút trâm cài Khương hậu,
tiến lời can đứng trước đình thần. Mạo
muội tỏ bày mừoi điều vụng nghĩ:
Một là nâng giữ cội gốc của nước, 1. Gắng tôn phò để tiêu tan
Trừ hà bạo thì lòng người yên vui. biến dị.
Hai là giữ nếp cũ, bỏ phiền nhiễu 2. Dứt hẳn cầu cạnh để cho
thì kỷ c¬ng kh«ng rèi. ®óng ®¾n tiªu chuÈn.
Ba là nén kẻ quyền thần để ngăn 3. Chăm đời sống của dân ngừa chính sự sâu mọt. để bền mệnh mạch.
Bốn là thải bớt kẻ nhũng lạm để 4.Thận trọng chính sách
trừ tệ đục khoét của dân. dùng binh để mạnh nanh vuốt.
Năm là cổ động Nho phong khiến 5.Giảm bớt chức quan để đỡ
cho lửa bó đuốc với ánh mặt trời cùng phiền nhiễu.
sáng khắp.
Sáu là cầu lời nói thẳng để cho cửa 6.Bỏ nhũng lạm để tắt nạn
thành cùng với đường ngôn luận mở rộng. chài dân.
Bảy là cách kén quân nên chú trọng 7.Chấn chỉnh thể văn để
dũng lực hơn thân hình. khích lệ người hiền tài.
Tám là chọn tướng hãy cầu người lược 8.Làm rõ lệ xét xử để cho
thao mà không căn cứ nhiều vào gia thế. thanh thỏa việc từ tụng.
Chín là khí giới quý hồ bền sắc 9.Liêm phóng tường tận để
không chuộng vẻ ngoài. phân biệt người hiền kẻ gian.
Mười là trận pháp cốt cho chỉnh tề 10.Phân biệt nòi giống để
cần chi điệu múa. chặn sự dòm ngó.
Mấy điều vừa kể, thật là thiết dụng Mấy điều ấy đều là rất
cho ngày nay. Thiếp xin phơi bày tấm cấp bách đối với thời cuộc.
lòng trung, mong được nhận cho những Ngu tôi dám quên tội mạo
lời quê mùa, điều tốt thì làm, điều dở thì muội, nhảm nhí, kính cẩn
bỏ, xin bề trên lượng xét. Nước được trị, bày tỏ, cúi mong được tha
dân được yên, đó là nguyện ước của thứ cho sự ngu cuồng, lược
thiếp vậy. bỏ điều sai, khiến cho một chút thiện nhỏ không bị bỏ sót, mưu lược lớn được dựng lên, đó là phúc của hàng triệu sinh dân vậy.
Thật ra hai văn bản có những chỗ ý tứ gặp gỡ nhưng không thể coi là “sao chép” của nhau. Đối chiếu với Đại Việt sử ký toàn thư có thể thấy Kê minh thập sách trước hết thể hiện những tư tưởng quan trọng của nhà Trần về nhiều vấn đề quốc sách, là sự tổng kết những điều đã được thực hiện, cần phải thực hiện, những điều còn ở dạng mong ước, hiến kế ... Chẳng hạn Điều hai và Điều năm của bài Kê minh là sự khái quát tư tưởng văn hóa, chính trị của nhà Trần mà ý kiến của Trần Nghệ Tông là khá tiêu biểu: “Triều trước dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam, Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị (niên hiệu của Trần Dụ Tông 1358 – 1369), bọn học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc..., thật không kể xiết”. “Bởi thế chính sự buổi đầu đều theo đúng thời Khai Thái.”Cùng với những chủ trương ấy là các việc làm cụ thể như ban yến, tổ chức cho các vị đỗ đầu khoa thi đình đi dạo phố để khích lệ học trò và đưa hai nhà nho Việt Nam Chu Văn An, Trương Hán Siêu vào tòng tự ở văn miếu ... Từ Điều Bảy đến Điều Mười là dự tổng kết, khái quát những biện pháp cụ thể về quân sự dưới triều Duệ Tông như: “Mùa thu, tháng 8 (năm 1374), chọn dân đinh bổ sung quân ngũ. Hạng nhất sung vào Lan đô rồi đến hạng nhì hạng ba. Người thấp bé nhưng nhanh nhẹn, can đảm cũng được sung vào hạng trên”: (Tháng Giêng năm 1735) “Xuống chiếu chọn các quan viên biết luyện tập võ nghệ; thông hiểu thao lược thì không căn cứ là người tông thất, đều cho làm tướng coi quân”; “Mùa thu tháng 8 (1375) làm sổ quân, thải bớt người già yếu, lấy người mạnh khỏe bổ sung vào”...Có những yêu cầu rất cao, quyết liệt mà thời Trần Duệ Tông và vãn Trần nói chung đã không thể thực hiện, như “nén kẻ quyền thần”, “mở rộng đường ngôn luận”, “trừ hà bạo” ... Theo tôi nghĩ, ngoài điều có tính chất chung mà mọi thời đại đều phải quan tâm, như “thải bớt kẻ nhũng lạm để trừ tệ vơ vét của dân”, các điều của Kê minh thập sách đều mang tính khái quát, có ý nghĩa chiến lược, trái lại Thập điều là những việc cụ thể do yêu cầu thời sự đặt ra, đúng như sự lưu ý của tên hai tác phẩm “thập sách” và “thập điều”. Mục tiêu mà “thập sách” nhằm tới là “lòng người, kỷ cương, chính sự”, ánh sáng văn hóa “Nho phong” soi sáng khắp, còn “thập điều” chủ yếu nhằm tới những nhiệm vụ trước mắt cấp bách dưới thời Trịnh Giang: “tiêu tan biến dị”, “đúng đắn tiêu chuẩn”, “mạnh nanh vuốt”, “đỡ phiền nhiễu”, “thanh thỏa việc từ tụng” ... Ngoài ra những câu văn, những điển cố giống nhau ở đoạn mở đầu và đoạn cuối, có thể là những “công thức” hay dùng trong “thi pháp” loại bài khải dâng kế sách, chưa thể nói một trong hai, người này chỉ biết “sao chép” của người kia.
Cuối cùng một căn cứ quan trọng không thể bỏ qua là thời điểm ra đời của hai tác phẩm. Trong văn bản Truyền kỳ tân phả hiện còn, bản in năm Gia Long thứ 11 (1813), dưới đầu đề hai truyện Đền thiêng ở Hải Khẩu và Người liệt nữ ở An Ấp đều có ghi chú “ Hồng Hà phu nhân viết, anh trai là Đạm Như Phủ bình điểm”.Điều ghi chú ấy cho biết Đoàn Thị Điểm sáng tác Truyền kỳ tân phả, ít nhất là hai truyện Đền thiêng ở hải Khẩu và Người liệt nữ ở An Ấp, trong lúc sinh thời anh trai Đoàn Doãn Luân, tức là vào khoảng trước 1733 (năm Đoàn Doãn Luân mất). Như vậy có thể xem như hai tác phẩm Kê minh thập sách và Thập điều khải được sáng tác đồng thời.
Đoàn Thị Điểm bấy giờ đã nổi tiếng, tác phẩm của bà có thể đã được truyền đọc, đã “lưu lạc” đến nỗi về sau nhà Nguyễn Khản là nơi “lưu giữ được nhiều nhất”. Trong tình hình ấy Bùi Sĩ Tiêm đọc được tác phẩm của Hồng Hà nữ sĩ có thể cũng là khả năng hiện thực; trái lại bài khải của Sĩ Tiêm là một văn bản quan phương, để trình bày ý kiến với vua, nó khó có cơ hội phổ biến ra ngoài để “lọt” đến tay một người con gái “ẩn dật” như Đoàn Thị Điểm?
Kê minh thập sách đã không có quan hệ mang tính “lệ thuộc” đến Thập điều khải tất phải là tác phẩm sáng tạo hay biên tập, sưu tập (?) của Đoàn Thị Điểm. Bà đã lấy chất liệu từ sử sách đời Trần, tổng hợp, trưng cất, khái quát thành hay biên tập, sưu tập, những kế sách dựng nước giữ nước còn mãi giá trị thời sự ? Áng văn ấy Đoàn Thị Điểm nói là của cung phi Nguyễn Thị Bích Châu. Đó là điều mà riêng tôi chưa thể giải đáp cho mình là có bao nhiêu phần sự thật. Song vượt lên tất cả các huyền thoại về Bích Châu, Đoàn Thị Điểm là người hiểu đúng nhất người cung phi tài sắc, đức độ và trí tuệ đã không được sinh ra trong buổi thịnh thời, cuối cùng phải chịu chung số phận với vương triều. Nhưng Bích Châu dưới ngòi bút của Đoàn Thị Điểm là một nhân cách đẹp, một nhan sắc đẹp, một tâm hồn đẹp, biết suy nghĩ cho một đất nước Đại Việt thịnh trị, cũng dám xả thân vì việc lớn và vì vị quân vương “tri kỷ” của mình, bà xứng đáng để cho dân tộc ta tôn vinh, thờ phụng và tri ân.
Nguyễn Thị Bích Châu đã được suy tôn thành một vị thánh, một vị thượng đẳng thần mà nhân dân nước Việt và các triều đại phong kiến thờ phụng; Kê minh thập sách là một tác phẩm có giá trị thức tỉnh, chỉ bảo về những kế sách trị nước an dân cho muôn đời. Đã như vậy thì có nên chỉ vì điều băn khoăn phải phân định “quyền tác giả” giữa hai người phụ nữ đều tài năng, trí tuệ và đức độ mà sao lãng đi việc nghiên cứu, khai thác những giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của một tác phẩm độc đáo, bất hủ như Kê minh thập sách?Vả lại, nếu các nhà nghiên cứu đã “tin” Đoàn Thị Điểm, coi bài thơ “Bản thị Hy Lăng cung lý nhân..” đích thị là của Lê Thánh Tông thì có nên cũng đối xử như thế với Kê minh thập sách?