Làm thế nào để đánh giá liệu Hoa Kỳ có thực sự ở trong trạng thái suy giảm đều đặn hay có phải nó đang trải qua một thời kỳ khó khăn mà từ đó nó sẽ phục hồi? Phần lớn các bình luận về sự suy tàn Mỹ những ngày này dựa trên phân tích khá lỏng lẻo, trên những cảm tưởng rằng Hoa Kỳ đã lạc đường, rằng nó đã từ bỏ các đức hạnh đã khiến nó thành công trong quá khứ, rằng nó thiếu ý chí để giải quyết các vấn đề nó đối mặt. Những người Mỹ nhìn vào các quốc gia khác mà nền kinh tế của họ, lúc này, khá hơn của chính họ, và các quốc gia đó có vẻ có sự năng động mà Mỹ một thời đã có, và họ than vãn, như trong tiêu đề cuốn sách mới nhất của Thomas Friedman, “That used to be us – Chúng tôi đã từng thế”.
Chẳng giúp được mấy để chỉ ra rằng những người Mỹ đã trải nghiệm sự khó chịu này trước đây, rằng nhiều thế hệ trước đã cũng cảm thấy cảm giác này về sức mạnh đã mất, về đức hạnh đã mất. Ngay cả năm 1788, Patrick Henry đã than vãn về sự sa sút của quốc gia từ vinh quang quá khứ, “khi tinh thần Mỹ còn ở thời trẻ của nó”.
Nhận thức về sự suy sụp ngày nay hẳn là có thể hiểu được, căn cứ vào tình hình kinh tế ảm đạm từ 2008 và thâm hụt tài khóa lớn của quốc gia, mà, kết hợp với tăng trưởng liên tục của các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, và các nền kinh tế khác, có vẻ báo trước một sự thay đổi quan trọng và không thể đảo ngược về sức mạnh kinh tế toàn cầu. Một ít bi quan cũng là do sự tin tưởng rằng Hoa Kỳ đã mất sự quý mến, và vì thế mất ảnh hưởng, ở nhiều nơi trên thế giới, bởi vì các phản ứng khác nhau của nó đối với các cuộc tấn công 11 tháng Chín. Các cơ sở giam cầm ở Guantánamo, việc tra tấn những người bị tình nghi là kẻ khủng bố, và việc xâm chiếm Iraq năm 2003 bị lên án rộng rãi, tất cả đều đã làm nhơ nhuốc “nhãn hiệu” Mỹ và làm giảm sút “quyền lực mềm” của Mỹ – khả năng của nó để lôi cuốn những người khác theo quan điểm của nó. Đã có các cuộc chiến tranh khó khăn ở Iraq và Afghanistan, mà nhiều người lập luận đã chứng tỏ các giới hạn của sức mạnh quân sự, đã căng Hoa Kỳ ra quá các năng lực của nó, và đã làm yếu quốc gia ở lõi của nó. Một số người so sánh Hoa Kỳ với Đế chế Anh ở cuối thế kỷ mười chín, với các cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan tương tự như cuộc Chiến tranh Boer chật vật và làm mất tinh thần của Anh.
Với sự cảm nhận rộng rãi này về sự suy sụp như cái phông, mọi thất bại của Hoa Kỳ để có được cái nó muốn có khuynh hướng tăng cường cảm tưởng này. Những người Arab và Israel từ chối dàn hòa, bất chấp sự khẩn nài của Mỹ. Iran và Bắc Triều Tiên phớt lờ đòi hỏi hỏi của Mỹ đòi họ ngừng chương trình vũ khí hạt nhân của họ. Trung Quốc từ chối để đồng tiền của nó lên giá. Sự náo động trong thế giới Arab tuột khỏi sự kiểm soát của Mỹ. Có vẻ, mỗi ngày đều mang lại nhiều bằng chứng hơn rằng đã qua rồi cái thời Hoa Kỳ đã có thể lãnh đạo thế giới và khiến mọi người thực hiện mệnh lệnh của nó.
Dù cảm giác này về sự suy tàn có thể là mạnh mẽ, tuy vậy, nó xứng đáng một sự xem xét nghiêm túc hơn. Đo lường sự thay đổi về sức mạnh tương đối của một quốc gia là một công việc rắc rối, nhưng có vài chỉ số cơ bản: quy mô và ảnh hưởng của nền kinh tế của nó so sánh tương đối với quy mô và ảnh hưởng của các cường quốc khác; mức độ sức mạnh quân sự so với của các đối thủ tiềm tàng; mức độ ảnh hưởng chính trị mà nó nắm giữ trong hệ thống quốc tế – tất cả những cái đó tạo thành cái mà người Trung Quốc gọi là “sức mạnh toàn diện của quốc gia”. Và có vấn đề thời gian. Các đánh giá được đưa ra trên cơ sở chỉ của bằng chứng vài năm là rất có vấn đề. Sự suy tàn của một cường quốc lớn là kết quả của những thay đổi căn bản về phân bố quốc tế của các dạng khác nhau của quyền lực mà thường xảy ra trong các khoảng thời gian dài hơn. Các cường quốc lớn hiếm khi suy tàn một cách đột ngột. Một cuộc chiến tranh có thể kéo chúng xuống, nhưng ngay cả việc đó thường là một triệu chứng, và một đỉnh điểm, của một quá trình dài hơn.
Sự suy tàn của Đế chế Anh, chẳng hạn, đã xảy ra trong nhiều thập kỷ. Năm 1870 phần của Anh trong chế tác toàn cầu đã là hơn 30 phần trăm. Năm 1900 còn 20 phần trăm. Vào 1915 còn dưới 15 phần trăm – dưới rất xa mức của Hoa Kỳ đang lên, mà, trong cùng thời kỳ, đã leo từ hơn 20 phần trăm lên hơn 25 phần trăm; nhưng cũng ít hơn của Đức, nước đã lẽo đẽo theo sau Anh suốt thế kỷ mười chín nhưng đã đuổi kịp và vượt Anh trong thập niên đầu của thế kỷ hai mươi. Trong tiến trình của giai đoạn đó, hải quân Anh đã từ bá chủ không bị thách thức của biển cả xuống mức chia sẻ sự kiểm soát các đại dương với các cường quốc hải quân đang lên khác. Năm 1883 Anh đã có số tàu chiến nhiều hơn tổng cộng của tất cả các cường quốc khác. Vào 1897 ưu thế của nó đã bị lu mờ. Các quan chức Anh đã coi hải quân của họ “hoàn toàn bị mất địa vị đẳng cấp” ở Tây Bán cầu bởi Hoa Kỳ, và ở Đông Á bởi Nhật Bản, và thậm chí gần nhà hơn bởi hải quân kết hợp của Nga và Pháp, và đó đã là tình trạng trước khi hải quân Đức tăng trưởng đầy đe dọa.81 Đấy là những sự suy giảm đều đặn, rõ rệt, có thể đo lường về hai trong các số đo quan trọng nhất của sức mạnh trong tiến trình của một nửa thế kỷ.
Một số lý lẽ cho sự suy giảm tương đối của Mỹ những ngày này sẽ có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn giả như chúng đã không chỉ xuất hiện theo sau khủng hoảng tài chính 2008. Hệt như một con én không làm nên mùa xuân, một cuộc suy thoái, hay thậm chí một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, không nhất thiết có nghĩa là sự chấm dứt của một cường quốc lớn. Hoa Kỳ đã chịu các cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc và kéo dài trong các năm 1890, các năm 1930, và các năm 1970. Trong mỗi trường hợp, nó đã hồi phục trong thập niên tiếp theo và cuối cùng đã kết thúc ở một vị trí mạnh hơn tương đối với các cường quốc khác so với trước khủng hoảng. Thập niên đầu tiên của thế kỷ hai mươi, các năm 1940, và các năm 1980 tất cả đã đều là các điểm cao của sức mạnh và ảnh hưởng toàn cầu của Mỹ.
Mới chưa đầy một thập niên trước, hầu hết các nhà quan sát đều đã không nói về sự suy tàn Mỹ mà đã nói về địa vị số một, về tính ưu việt lâu dài của nó. Năm 2002 sử gia Paul Kennedy, người mà vào cuối các năm 1980 đã viết một cuốn sách được thảo luận nhiều về “sự thăng trầm của các cường quốc lớn,” kể cả Hoa Kỳ, đã tuyên bố rằng chưa bao giờ trong lịch sử đã có một “sự không ngang bằng sức mạnh” lớn đến vậy như giữa Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới.82 John Ikenberry đã đồng ý rằng “không cường quốc lớn nào khác” đã nắm được “những lợi thế kinh khủng đến vậy về các năng lực quân sự, kinh tế, công nghệ, văn hóa hay chính trị … Tính hơn hẳn của sức mạnh Mỹ” đã là “chưa từng có”.83 Năm 2004, Fareed Zakaria đã mô tả Hoa Kỳ như đang hưởng một “sự đơn cực toàn diện” không giống bất cứ thứ gì kể từ thời La Mã.84 Nhưng chỉ bốn năm sau, Zakaria viết về “thế giới hậu–Mỹ,” còn Kennedy, lại, viết về tính không thể tránh khỏi của sự suy tàn Mỹ. Có thật những cái căn bản của Mỹ đã thay đổi một cách đầy kịch tính đến vậy chỉ trong vài năm ngắn ngủi?
Câu trả lời là không. Hãy bắt đầu với các chỉ số cơ bản. Về mặt kinh tế, và thậm chí bất chấp các năm suy thoái và tăng trưởng chậm hiện thời, vị trí của Mỹ trên thế giới đã không thay đổi. Phần của nó trong GDP thế giới đã vững vàng một cách đáng chú ý, không chỉ trong thập niên vừa qua, mà suốt bốn thập niên vừa qua. Năm 1969 Hoa Kỳ đã tạo ra đại thể một phần tư đầu ra kinh tế của thế giới. Ngày nay nó vẫn tạo ra đại thể một phần tư, và nó vẫn không chỉ là nền kinh tế lớn nhất mà là giàu nhất trên thế giới. Người ta đã bị mê hoặc một cách đúng đắn bởi sự đi lên của Trung Quốc, Ấn Độ, và các quốc gia Á châu khác mà phần của họ trong nền kinh tế toàn cầu đã leo lên đều đặn, nhưng điều này cho đến nay đã xảy ra hầu như hoàn toàn với sự trả giá của Châu Âu và Nhật Bản, mà phần của chúng trong nền kinh tế toàn cầu đã giảm sút.85 Những người lạc quan về sự phát triển của Trung Quốc tiên đoán rằng nó sẽ vượt Hoa Kỳ với tư cách nền kinh tế lớn nhất thế giới vào lúc nào đó trong hai thập niên tới. Điều này có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ đối mặt với một thách thức ngày càng tăng đối với vị thế kinh tế của nó trong tương lai. Quy mô tuyệt đối của một nền kinh tế, tuy vậy, tự nó không là một số đo tốt cho sức mạnh tổng thể bên trong hệ thống quốc tế. Giả như nó là, thì Trung Quốc của đầu thế kỷ mười chín, với nền kinh tế của nó khi đó là nền kinh tế lớn nhất thế giới, đã phải là một cường quốc chiếm ưu thế hơn là một nạn nhân bị các quốc gia Âu châu nhỏ hơn đánh gục. Cho dù Trung Quốc có đạt được cực điểm này lần nữa – và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đối mặt với các trở ngại đáng kể để duy trì sự tăng trưởng vô thời hạn – nó vẫn đứng xa sau cả Hoa Kỳ và Châu Âu về GDP trên đầu người.
Năng lực quân sự cũng quan trọng, như Trung Quốc đầu thế kỷ mười chín đã học được và các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngày nay biết. Như Diêm Học Thông đã nhận xét gần đây, “Sức mạnh quân sự làm nòng cốt cho quyền bá chủ”.86 Ở đây vẫn chưa ai sánh kịp Hoa Kỳ. Không nghi ngờ gì nữa nó là quốc gia hùng mạnh nhất mà thế giới từng biết đến, và đã không có sự giảm sút nào về năng lực quân sự tương đối của Mỹ – chí ít vẫn chưa. Những người Mỹ hiện thời tiêu khoảng 600 tỷ USD một năm về quốc phòng, hơn tổng số chi tiêu của các cường quốc lớn khác còn lại. Hơn nữa, họ làm vậy, trong khi tiêu thụ khoảng 4 phần trăm GDP hàng năm, một tỷ lệ phần trăm cao hơn các cường quốc lớn khác nhưng về mặt lịch sử thấp hơn mức 10 phần trăm GDP mà Hoa Kỳ đã tiêu cho quốc phòng trong giữa các năm 1950, và 7 phần trăm GDP đã chi trong cuối các năm 1980. Các khoản chi tiêu cao hơn nhiều đánh giá thấp sự ưu việt thực sự của Mỹ về năng lực quân sự. Các lực lượng bộ binh và không quân Mỹ được trang bị các vũ khí tiên tiến nhất, là các lực lượng có kinh nghiệm nhất trong chiến đấu thực sự, và sẽ làm thất bại bất cứ đối thủ nào trong một trận đánh đối đầu. Sức mạnh hải quân Mỹ vẫn chiếm ưu thế ở mọi khu vực trên thế giới.
Bằng các số đo quân sự và kinh tế này, chí ít, Hoa Kỳ hiện nay là không giống nước Anh khoảng năm 1990 tí nào, khi sự suy sụp tương đối của đế chế đó đã bắt đầu trở nên rõ ràng. Nó giống nước Anh khoảng 1870 hơn, khi đế chế đã ở đỉnh cao quyền lực của nó. Có thể tưởng tượng một thời gian khi điều này có thể không còn đúng thế nữa, nhưng thời điểm đó còn chưa đến.
Nhưng còn “sự đi lên của phần còn lại” – sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, và Thổ Nhĩ Kỳ – thì sao? Câu trả lời là, còn tùy. Sự thực rằng các quốc gia khác trên thế giới đang hưởng các thời kỳ tăng trưởng cao không có nghĩa rằng vị thế của Mỹ với tư cách cường quốc chiếm ưu thế đang sụt giảm, hay thậm chí rằng “phần còn lại” đuổi kịp về mặt sức mạnh và ảnh hưởng tổng thể. Phần của Brazil trong GDP toàn cầu đã hơn 2 phần trăm một chút trong năm 1990 và vẫn hơn 2 phần trăm một chút bây giờ. Phần của Thổ Nhĩ Kỳ đã là dưới 1 phần trăm năm 1990 và vẫn dưới 1 phần trăm hiện nay.88 Người dân, nhất là dân kinh doanh, đầy hứng khởi một cách tự nhiên về các thị trường mới nổi này, nhưng chỉ bởi vì một quốc gia là một cơ hội đầu tư hấp dẫn không có nghĩa nó cũng là một cường quốc lớn đang lên. Của cải là quan trọng trong chính trị quốc tế, nhưng không có tương quan đơn giản nào giữa tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng quốc tế. Không rõ là, một Ấn Độ giàu hơn ngày nay, chẳng hạn, có ảnh hưởng lớn hơn trên sân khấu toàn cầu so với một Ấn Độ nghèo hơn đã có trong các năm 1950 và 1960 dưới thời Nehru, khi nó đã là một lãnh đạo của Phong trào Không Liên kết, hặc Thổ Nhĩ Kỳ, dẫu cho có sự độc lập và sự lóe sáng của Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan, thực sự có nhiều ảnh hưởng hơn nó đã có một thập niên trước.
Còn về tác động của các nền kinh tế gia tăng này lên vị thế của Hoa Kỳ, thì hoàn toàn tùy thuộc vào ai làm ra sự tăng trưởng. Vấn đề đối với Đế chế Anh vào đầu thế kỷ hai mươi đã không phải là sự sụt giảm thực chất của nó tương đối so với Hoa Kỳ, một cường quốc thân hữu nói chung mà các lợi ích của nó không xung đột một cách căn bản với các lợi ích của Anh. Thậm chí ở Tây Bán Cầu, thương mại Anh đã tăng khi nó nhường sự thống trị cho Hoa Kỳ. Vấn đề đã là sự suy giảm của Anh tương đối với Đức, nước nhắm tới quyền tối cao ở lục địa Âu châu, đã cố gắng cạnh tranh với Anh trên biển khơi, và trong cả hai khía cạnh đặt ra một sự đe dọa cho an ninh cốt lõi của Anh. Trong trường hợp của Hoa Kỳ, sự đi lên đầy kịch tính và nhanh của các nền kinh tế Đức và Nhật Bản trong Chiến tranh Lạnh đã làm giảm địa vị đứng đầu của Mỹ nhiều hơn rất nhiều so với “sự đi lên của phần còn lại” gần đây hơn. Phần của Mỹ trong GDP của thế giới, đã là gần 50 phần trăm sau Chiến tranh Thế giới II, đã rớt xuống còn khoảng 25 phần trăm vào đầu các năm 1970, rồi nó vẫn ở mức đó từ khi ấy. Nhưng “sự đi lên của phần còn lại” đó đã không làm yếu Hoa Kỳ. Nếu có thể nói như vậy, nó đã tăng cường sức mạnh Mỹ. Đức và Nhật Bản đã và đang là các liên minh dân chủ gần gũi, là các trụ cột then chốt của trật tự thế giới Mỹ. Sự tăng trưởng của các nền kinh tế của họ đã thực sự làm thay đổi cán cân một cách không thể lấy lại được chống lại khối Soviet và đã giúp dẫn đến cái chết của nó. Khi đo kiểm tác động của các nền kinh tế đang lên của các nước khác hiện nay, ta phải tiến hành cùng các loại cân nhắc. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Brazil, hay của nền kinh tế Ấn Độ, có làm giảm sức mạnh toàn cầu của Mỹ? Cả hai quốc gia là thân hữu, và Ấn Độ ngày càng trở thành đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Nếu đối thủ cạnh tranh tương lai của Hoa Kỳ trên thế giới chắc là Trung Quốc, thì một Ấn Độ giàu hơn và hùng mạnh hơn là một vốn quý, chứ không phải là một cái của nợ, đối với Hoa Kỳ. Nhìn tổng thể, sự thực rằng Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Phi đang hưởng một thời kỳ tăng trưởng kinh tế – mà có thể hoặc không thể kéo dài mãi – là hoặc không liên quan đến hoặc có lợi cho vị thế chiến lược của Mỹ. Hiện tại, chỉ có tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc có thể nói là có các hệ lụy đối với quyền lực Mỹ trong tương lai, và cũng chỉ trong chừng mực mà người Trung Quốc chuyển đủ sức mạnh kinh tế tăng lên của họ thành sức mạnh quân sự.
Nếu Hoa Kỳ không bị suy giảm về các số đo cơ bản này của sức mạnh, chẳng phải đơn giản là đúng, tuy nhiên, rằng ảnh hưởng của nó đã giảm đi, rằng nó có một thời kỳ khó khăn hơn để có được cái nó muốn trên thế giới? Giả định hầu như phổ quát là, Hoa Kỳ quả thực đã mất ảnh hưởng. Bất luận sự lý giải có thể là gì – sự suy tàn của Mỹ, “sự đi lên của phần còn lại”, sự thất bại rõ ràng của mô hình tư bản chủ nghĩa Mỹ, bản chất loạn chức năng của hoạt động chính trị Mỹ, sự phúc tạp ngày càng tăng của hệ thống quốc tế – được chấp nhận rộng rãi rằng Hoa Kỳ không còn có thể định hình thế giới cho phù hợp với các lợi ích và các lý tưởng của nó như nó đã từng làm được một thời. Mỗi ngày dường như mang lại nhiều bằng chứng hơn, vì các thứ xảy ra trên thế giới mà có vẻ cả ngược với các lợi ích của Mỹ lẫn ngoài tầm kiểm soát của Mỹ.
Và, tất nhiên, là đúng: Hoa Kỳ không có khả năng để có được cái nó muốn trong phần lớn thời gian. Nhưng khi đó, nó đã chẳng bao giờ có thể. Nhiều trong các ấn tượng ngày nay về ảnh hưởng suy giảm của Mỹ dựa trên một ảo tưởng, một sai lầm luyến tiếc quá khứ, rằng đã từng có một thời khi Hoa Kỳ đã có thể định hình thế giới cho phù hợp với mong muốn của nó, nó đã có thể sai khiến các quốc gia khác làm cái mà nó muốn họ làm, và nó đã có thể, như nhà khoa học chính trị Stephen Walt diễn đạt, “dàn xếp hoạt động chính trị, kinh tế và những sắp xếp an ninh cho hầu như toàn bộ địa cầu”.89
Nếu chúng ta đo kiểm vị thế tương đối của Mỹ ngày nay, thật quan trọng để nhận ra rằng bức tranh này của quá khứ là một ảo ảnh. Đã chẳng bao giờ có một thời như vậy. Chúng ta có xu hướng hồi tưởng và ngẫm lại các năm đầu của Chiến tranh Lạnh như một thời khắc của sự thống trị toàn cầu đầy đủ của Mỹ. Đã không có gì thuộc loại đó. Hoa Kỳ đã hoàn thành những việc vĩ đại lạ thường trong thời kỳ đó: Kế hoạch Marshall, liên minh NATO, Liên Hiệp Quốc, và hệ thống kinh tế Bretton Woods tất cả đã định hình thế giới chúng ta biết ngày nay. Thế nhưng đối với mỗi thành quả lớn ở đầu Chiến tranh Lạnh, đã có ít nhất một sự thất bại, một sự thoái trào đồ sộ ngang vậy.
Trong các năm dưới thời Truman, đã là chiến thắng của Cách mạng Cộng sản ở Trung Quốc năm 1949, mà các quan chức Mỹ đã coi là một tai họa cho các lợi ích của Mỹ ở trong khu vực và quả thực đã tỏ ra rất tốn kém; nếu không gì khác, nó đã là nhân tố chính khuyến khích Bắc Triều Tiên tấn công miền Nam năm 1950. Nhưng Hoa Kỳ đã bất lực để ngăn chặn nó. Như Dean Acheson đã tổng kết, “kết quả báo điềm gở của nội chiến ở Trung Quốc” đã tỏ ra “nằm ngoài tầm kiểm soát … của Hoa Kỳ,” sản phẩm của “các lực lượng mà đất nước này đã thử để ảnh hưởng nhưng đã không thể”.90 Khi chiến thắng của Trung Quốc được mau chóng tiếp sau bằng các cuộc nổi dậy chống sự kiểm soát Tây phương ở Đông Dương, Acheson lại đã nhận xét rằng các sự kiện “ngoài tầm kiểm soát của chúng ta” đã “đang diễu hành trên lục địa Á châu”.91 Một năm sau thì đến cuộc tấn công của Bắc Triều tiên lên Nam Triều Tiên một cách bất ngờ và không được (Mỹ) chuẩn bị, và sự can thiệp của Mỹ, mà, sau hơn ba mươi lăm ngàn người Mỹ chết và gần một trăm ngàn bị thương, để lại tình hình hầu như chính xác như trước chiến tranh. Có lẽ tin xấu nhất trong các tin đã đến trong năm 1949: người Soviet có được bom nguyên tử và sự chấm dứt độc quyền hạt nhân mà trên đó chiến lược quân sự và việc lập ngân sách quốc phòng của Mỹ đã dựa vào.
Một năm sau, năm 1950, NSC 68, tài liệu chiến lược nổi tiếng đã cảnh báo về lỗ hổng ngày càng tăng giữa sức mạnh quân sự của Mỹ và các cam kết chiến lược toàn cầu của nó. Nếu các xu hướng hiện hành tiếp tục, nó tuyên bố, thì kết quả sẽ là “một sự suy sụp nghiêm trọng về sức mạnh của thế giới tự do so sánh tương đối với Liên Xô và các chư hầu của nó”. “Tính toàn vẹn và sức sống của hệ thống của chúng ta,” tài liệu tuyên bố, đã “ở trong cảnh hiểm nguy lớn hơn từ trước đến nay trong lịch sử của chúng ta”.92 Douglas MacArthur, trình bày bài phát biểu chính trước Đại Hội Quốc gia của Đảng Cộng Hòa năm 1952, đã than vãn “sự thay đổi gây hoảng sợ của cán cân quyền lực thế giới,” “gánh nặng gia tăng của các cam kết tài khóa của chúng ta,” sức mạnh đang lên của Liên Xô, “và sự sa sút tương đối của chính chúng ta”.93
Cả chính quyền Truman sắp mãn nhiệm lẫn chính quyền Eisenhower mới nhậm chức đã tin chính chiến lược Soviet là cái để “phá vỡ nền kinh tế của Hoa Kỳ” bằng cách ép nó phải chi quá nhiều cho quốc phòng, và cả hai đã sợ nó sẽ thành công.94 Năm 1957, Ủy Ban Gaither đã báo cáo rằng nền kinh tế Nga đã tăng với một nhịp điệu nhanh hơn nhịp điệu của Hoa Kỳ rất nhiều và rằng vào năm 1959 Nga sẽ có khả năng bắn trúng đất Mỹ bằng một trăm tên lửa đạn đạo vượt đại châu, thúc giục Sam Rayburn, Chủ tịch Hạ Viện, để hỏi, “Một nền kinh tế lành mạnh và một ngân sách cân bằng thì hay ho nỗi gì, nếu chúng ta mất cuộc sống quốc gia của mình và đồng Rúp Nga trở thành đồng tiền trên đất nước này?”95
Hoa Kỳ cũng đã chẳng luôn luôn có khả năng thuyết phục những người khác, ngay cả các đồng minh thân nhất, để làm cái nó muốn, hay để kiềm chế và đừng làm cái nó không muốn. Năm 1949 Acheson đã thử và đã thất bại để ngăn cản các đồng minh Âu châu, kể cả Anh, khỏi việc công nhận Trung hoa Cộng sản. Năm 1954 chính quyền Eisenhower đã thất bại để đạt được cái nó muốn ở Hội nghị Geneva về Việt Nam và đã từ chối ký hiệp định cuối cùng. Hai năm sau nó đã thử ngăn cản Anh, Pháp, và Israel khỏi việc xâm chiếm Ai Cập vì việc đóng cửa Kênh đào Suez, chỉ để thấy họ lao vào một cuộc xâm lấn mà không có ngay cả thông tin hay cảnh báo nào cho Washington. Khi Hoa Kỳ chạm trán với Trung Quốc trên các đảo Kim Môn và Mã Tổ, chính quyền Eisenhower đã thử và đã thất bại để có một cuộc trình diễn ủng hộ từ các đồng minh Âu châu, khiến cho John Foster Dulles sợ rằng NATO đã “bắt đầu tan rã”.96 Vào cuối các năm 1950, Mao đã tin Hoa Kỳ đã là một siêu cường suy sụp, “sợ đảm nhiệm những dính líu mới trong Thế giới Thứ Ba và ngày càng không có khả năng duy trì quyền bá chủ của nó trên các nước tư bản chủ nghĩa”.97
Thế còn “quyền lực mềm” thì sao? Chẳng phải đúng ư, như nhà khoa học chính trị Joseph S. Nye đã biện hộ, rằng Hoa Kỳ đã thường có khả năng để “có được cái nó muốn trên thế giới” bởi vì “các giá trị được bày tỏ” bằng văn hóa Mỹ như được phản ánh thông qua truyền hình, phim ảnh, và nhạc, và bởi vì tính hấp dẫn của các chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ? Những yếu tố này của quyền lực mềm khiến các dân tộc khác trên khắp thế giới muốn đi theo Hoa Kỳ, “ngưỡng mộ các giá trị của nó, noi theo tấm gương của nó, khao khát mức thịnh vượng và cởi mở của nó”.98
Lại lần nữa, sự thật lịch sử là phức tạp hơn. Trong ba thập niên đầu tiên sau Chiến tranh Thế giới II, phần lớn thế giới đã không ngưỡng mộ Hoa Kỳ. Họ đã không tìm cách noi gương nó, và họ đã không đặc biệt hài lòng về cách nó cư xử trong công việc quốc tế. Đúng, các phương tiện truyền thông đại chúng Mỹ đã phổ biến văn hóa Mỹ, nhưng nó đã phổ biến các hình ảnh mà đã không luôn luôn làm đẹp mắt. Trong các năm 1950 thế giới đã có thể xem các hình ảnh được truyền hình về Joseph McCarthy và sự săn lung những người cộng sản ở Bộ Ngoại giao và Hollywood. Phim ảnh Mỹ đã mô tả chủ nghĩa tuân thủ tư bản chủ nghĩa gây nghẹt thở của văn hóa công ty Mỹ mới. Các tiểu thuyết bán chạy nhất như The Ugly American (Người Mỹ Xấu xí) đã vẽ lên bức tranh về sự ức hiếp và tính thô lỗ Mỹ. Đã có các cuộc chiến về phân biệt trong các năm 1950 và 1960, các hình ảnh được truyền toàn cầu về những người da trắng phỉ nhổ học sinh da đen và cảnh sát thả chó cắn người biểu tình. (“Chúng tôi” cũng “đã từng thế” nữa.) Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Mỹ trên thực tế đã “hủy hoại” hình ảnh toàn cầu Mỹ, Dulles đã sợ, đặc biệt trong cái được gọi là Thế giới Thứ ba.99 Cuối các năm 1960 và đầu các năm 1970 đến lượt cuộc nổi loạn Watts, các vụ ám sát Martin Luther King Jr. và Robert Kennedy, vụ bắn giết (người biểu tình ở Đại học) Kent State, rồi đến vụ tai tiếng Watergate làm lung lay chính phủ. Đấy đã không phải là các loại hình ảnh có thể làm cho thế giới yêu mến Hoa Kỳ, không quan trọng là đã có bao nhiêu phim Jerry Lewis và Woody Allen được chiếu ở các rạp phim ở Paris.
Phần lớn thế giới cũng đã chẳng thấy chính sách đối ngoại Mỹ đặc biệt hấp dẫn trong các năm đó. Eisenhower đã ao ước “để có được một số người ở các nước bị áp bức này thích thay cho căm ghét chúng ta,” nhưng việc CIA sắp đặt các cuộc lật đổ Mohamadd Mossadegh ở Iran và Jacobo Árbenz ở Guatemala đã không giúp được (cho việc đó).100 Năm 1957 những người biểu tình đã tấn công đoàn xe hộ tống của phó Tổng thống ở Venezuela, hô vang, “Nixon cút đi!” “Ra đây, đồ chó!” “Chúng tao không quên Guatemala!”101 Năm 1960, Khrushchev đã làm nhục Eisenhower bằng cách hủy bỏ cuộc gặp thượng đỉnh khi một máy bay trinh thám Mỹ bị bắn rơi ở Nga. Muộn hơn trong năm đó, trên đường cho một cuộc viếng thăm “thiện chí” đến Tokyo, Eisenhower đã phải quay lại giữa chuyến bay khi chính phủ Nhật Bản cảnh báo nó không thể đảm bảo sự an toàn cho ông đối lại các sinh viên phản đối “chủ nghĩa đế quốc” Mỹ.
Những người dân chủ kế vị của Eisenhower đã làm ăn khá hơn một chút. John F. Kennedy và vợ ông ta đã được yêu mến trong một thời gian, nhưng ánh sáng rực của Mỹ phai đi sau vụ ám sát ông. Sự xâm lấn của Lyndon Johnson vào Cộng hòa Dominic năm 1965 đã bị lên án rộng rãi không chỉ ở Mỹ Latin mà cả bởi các đồng minh Âu châu nữa. De Gaulle đã cảnh cáo các quan chức Mỹ rằng Hoa Kỳ, giống “tất cả các nước có sức mạnh áp đảo,” đã đi đến “tin rằng vũ lực sẽ giải quyết mọi thứ” và sẽ mau chóng học được rằng “không phải thế”.102 Và sau đó, tất nhiên, đến Việt Nam, với sự tàn phá của nó, các cảnh bom napalm, vụ tàn sát Mỹ Lai, sự đột nhập bí mật vào Căm Pu Chia, việc ném bom Hà Nội, và cảm nhận chung của một siêu cường thực dân Tây phương nện một nước nhỏ nhưng ngang ngạnh thuộc Thế giới Thứ ba bắt phải phục tùng. Khi phó tổng thống của Johnson, Hubert Humphrey, đi thăm Tây Berlin năm 1967, trung tâm văn hóa Mỹ bị tấn công, hàng ngàn sinh viên đã biểu tình chống các chính sách của Mỹ, và các tin đồn rộ lên về các âm mưu ám sát. Năm 1968, khi hàng triệu thanh niên Âu châu xuống đường, họ đã không bày tỏ sự ngưỡng mộ của họ đối với nền văn hóa Mỹ. Như một quan chức cấp cao của Johnson đã diễn đạt, “Những thứ mà chúng ta phải làm ở Việt Nam và những nơi khác là một gánh nặng đối với chúng ta phải gánh vác trong thế giới Á–Phi cũng như Châu Âu”.103
Tuyệt đại đa số các quốc gia quanh thế giới cũng đã chẳng thử noi gương hệ thống Mỹ. Trong các thập niên đầu của Chiến tranh Lạnh, nhiều người đã bị lôi cuốn bởi các nền kinh tế do nhà nước kiểm soát của Liên Xô và Trung Quốc, mà đã có vẻ hứa hẹn sự tăng trưởng mà không có các vấn đề lộn xộn của nền dân chủ.104 Các nền kinh tế của khối Soviet đã có tốc độ tăng trưởng cao như tốc độ tăng trưởng ở phương Tây suốt phần lớn thời kỳ này, chủ yếu do một sự dấy lên được nhà nước chỉ huy trong công nghiệp nặng.105 Theo giám đốc CIA, Allen Dulles, nhiều nhà lãnh đạo trong Thế giới Thứ ba đã tin rằng hệ thống Soviet “có nhiều hơn để chào mời về cách đạt những kết quả nhanh so với hệ thống Hoa Kỳ”.106 Các nhà độc tài như Nasser của Ai Cập, Sukarno của Indonesia đã thấy mô hình nhà nước–chi phối đặc biệt hấp dẫn, nhưng Nehru của Ấn Độ cũng đã thế.107
Các lãnh đạo của Phong trào Không Liên kết mới nổi – Nehru, Nasser, Tito, Sukarno, Nkrumah – đã bày tỏ ít sự ngưỡng mộ đối với cung cách Mỹ. Công bằng hay không công bằng, một số trong “những sự oán giận bị kìm nén sâu của họ chống lại các chính sách bóc lột và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của phương Tây” được chuyển từ các ông chủ thuộc địa trước đây của họ sang cho Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ trở thành siêu cường. Hơn nữa, sau cái chết của Stalin, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đã tiến hành cạnh tranh nóng để lôi kéo Thế giới Thứ ba, tiến hành “các chuyến đi thiện chí” và cung cấp các chương trình viện trợ riêng của họ. Eisenhower đã suy ngẫm, “đường lối Cộng sản mới ngọt ngào và nhẹ nhàng đã có lẽ nguy hiểm hơn tuyên truyền của họ trong thời Stalin”.108 Các chính quyền Eisenhower, Kennedy, và Johnson đã lo lắng liên tục về sự thiên tả của tất cả các quốc gia này và đã hào phóng cấp viện trợ phát triển cho họ với hy vọng lôi kéo con tim và trí óc họ. Thế mà họ đã thấy, viện trợ, trong khi được nhận một cách háo hức, đã không đảm bảo lòng trung thành, cũng chẳng mang lại sự cảm kích.109 Eisenhower đã thường xuyên lo rằng “nhân dân Cận Đông và Bắc Phi và, trong mức độ nào đó, toàn bộ Châu Á và toàn bộ châu Phi, sẽ thống nhất chống lại phương Tây ở mức độ mà, tôi sợ, không thể khắc phục được trong một thế hệ và, có lẽ, không ngay cả trong một thế kỷ, đặc biệt sau khi nhớ đến năng lực của những người Nga để gây mối bất hòa”.110 Một kết quả của sự thù oán của Thế giới Thứ ba đã là, Hoa Kỳ đã mất ảnh hưởng một cách đều đặn ở Liên Hiệp Quốc sau 1960. Chỗ, một thời đã là nơi chiến tranh của Mỹ ở Triều Tiên được hợp pháp hóa, thì từ 1960 cho đến cuối Chiến tranh Lạnh Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã trở thành một diễn đàn cho sự bày tỏ liên tục của chủ nghĩa bài Mỹ”.111
Vào cuối các năm 1960, Henry Kissinger đã tuyệt vọng về tương lai. “Sự vỡ ra từng mảnh ngày càng tăng của quyền lực, sự phổ biến ngày càng rộng của hoạt động chính trị, và các hình mẫu ngày càng phức tạp của xung đột và liên kết quốc tế,” ông viết cho Nixon, đã làm giảm đột ngột năng lực của cả hai siêu cường để ảnh hưởng đến “các hành động của các chính phủ khác”.112 Và tình hình cuối cùng có vẻ trở nên khó hơn khi các năm 1970 mở ra. Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam trong thất bại, và thế giới đã theo dõi sự từ chức chưa từng có của một Tổng thống Mỹ bị vấy bẩn trong vụ tai tiếng. Và rồi, có lẽ cũng quan trọng như tất cả những cái còn lại, giá dầu lên đến nóc.
Vấn đề cuối cùng đã chỉ ra một khó khăn mới đáng kể: sự bất lực của Hoa Kỳ để sử dụng ảnh hưởng một cách hiệu quả ở Trung Đông. Ngày nay người ta chỉ ra sự thất bại của Mỹ để đưa người Israel và người Palestin đến một sự dàn xếp được thương lượng, hoặc để chế ngự được (phong trào) Arab Thức tỉnh náo động hỗn độn như dấu hiệu của sự yếu đuối và sa sút. Nhưng năm 1973 Hoa Kỳ thậm chí đã chẳng thể ngăn cản được các cường quốc chính ở Trung Đông tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực. Khi Ai Cập và Syria mở cuộc tấn công bất ngờ của họ lên Israel, cũng đã là một sự ngạc nhiên đối với Washington nữa. Cuối cùng Hoa Kỳ đã phải báo động hạt nhân để răn đe sự can thiệp Soviet vào xung đột. Cuộc chiến tranh đã dẫn đến cấm vận dầu hỏa, đến việc thiết lập OPEC như một lực lượng chủ yếu trong công việc của thế giới, và sự khám phá đột nhiên rằng, như sử gia Daniel Yergin đã diễn đạt, “bản thân Hoa Kỳ bây giờ, cuối cùng, đã có thể bị tổn thương”. “Siêu cường đứng đầu thế giới” đã bị “đẩy vào thế thủ, bị làm nhục bởi một ít quốc gia nhỏ”. Nhiều người Mỹ “đã sợ rằng sự kết thúc của một thời đại đã cận kề”.113
Trong các năm 1970 giá dầu tăng đột ngột, cùng với các chính sách kinh tế của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã dẫn nền kinh tế Mỹ vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã sụt 6 phần trăm giữa 1973 và 1975. Tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi từ 4,5 phần trăm lên 9 phần trăm.114 Nhân dân Mỹ đã phải chịu đựng vì phải xếp hàng mua xăng và hiện tượng kinh tế mới về đình lạm, sự kết hợp của một nền kinh tế đình trệ và lạm phát cao. Nền kinh tế Mỹ đã trải qua ba đợt suy thoái giữa 1973 và 1982. “Khủng hoảng dầu” đối với người Mỹ khi đó, là cái “khủng hoảng tài chính” ngày nay. Trong thông điệp quốc gia lần đầu tiên được truyền hình, Jimmy Carter đã gọi nó là “thách thức lớn nhất đất mà nước chúng ta sẽ phải đối mặt trong cả cuộc đời chúng ta”. Đã đặc biệt nhục nhã rằng cuộc khủng hoảng một phần đã được phát động bởi hai đồng minh thân cận của Mỹ, Hoàng gia Saudi và (Hoàng đế) Shah của Iran. Như Carter đã nhớ lợi trong hồi ký của ông, nhân dân Mỹ “đã phẫn uất sâu sắc rằng quốc gia vĩ đại nhất trên trái đất đã bị ngược đãi bởi vài quốc gia sa mạc”.115
Điểm thấp nhất đến vào năm 1979, khi Shah bị lật đổ, cách mạng Islamic cực đoan đứng đầu bởi Ayatollah Khomeini lên nắm quyền, và năm mươi hai người Mỹ đã bị bắt làm con tin và bị giữ hơn một năm trời. Khủng hoảng con tin, như Yergin đã nhận xét, “đã truyền đi một thông điệp mạnh mẽ: rằng sự thay đổi về quyền lực trên thị trường dầu thế giới trong các năm 1970 đã chỉ là một phần của một vở kịch lớn hơn đang xảy ra trong chính trị toàn cầu. Hoa Kỳ và phương Tây, dường như có thể nói, đã thực sự trong suy sụp, giữ thế thủ, và, đã có vẻ, không có khả năng làm bất cứ thứ gì để bảo vệ các quyền lợi, bất luận kinh tế hay chính trị, của họ”. Bộ trưởng Bộ Năng lượng James Schlessinger đã tuyên bố rằng những người Mỹ đối mặt với “một cuộc khủng hoảng có các chiều kích to lớn hơn các chiều kích mà Churchill đã mô tả nửa thế kỷ trước – các vấn đề dầu hỏa báo những điềm gở tồi tệ hơn.” Đã có, ông nói, “ít sự giảm nhẹ, nếu có, trong viễn cảnh.” Như Carter diễn đạt, “Họ đã kiểm soát hoàn toàn chúng ta”.116
Nếu ta muốn đưa ra lý lẽ để biện hộ cho sự suy tàn của Mỹ, thì các năm 1970 đã là thời gian để làm việc đó; và nhiều người đã làm. Hoa Kỳ, Kissinger đã tin, hiển nhiên đã “trải qua điểm cao lịch sử của nó giống rất nhiều nền văn minh trước đó … Mọi nền văn minh từng tồn tại cuối cùng đã sụp đổ. Lịch sử là một truyện về các nỗ lực thất bại”.117 Chính các năm 1970 đã là các năm mà nền kinh tế Mỹ đã mất vị trí đứng đầu áp đảo của nó, khi thặng dư thương mại của Mỹ bắt đầu chuyển thành thâm hụt thương mại, khi chi tiêu cho các quyền được hưởng và các chương trình phúc lợi xã hội phình ra, khi dự trữ vàng và tiền tệ của Mỹ cạn kiệt.
Với những khó khăn kinh tế, đã đến sự bất an ninh chính trị và chiến lược. Đầu tiên là sự tin tưởng rằng trào lưu lịch sử đã là với Liên Xô. Bản thân các nhà lãnh đạo Soviet đã tin “tương quan lực lượng” đã có lợi cho chủ nghĩa cộng sản; sự thất bại và sự rút lui của Mỹ khỏi Việt Nam đã dẫn các quan chức Soviet, lần đầu tiên, đến tin họ có thể thực sự “thắng” trong cuộc đấu tranh Chiến tranh Lạnh kéo dài. Một thập niên sau, năm 1987, Paul Kennedy đã mô tả cả hai siêu cường đã bị “sự kéo quá căng đế quốc” nhưng đã gợi ý rằng hoàn toàn có thể là Hoa Kỳ sẽ sụp đổ đầu tiên, theo một truyền thống lịch sử dài của các đế chế bị kiệt sức và phá sản. Nó đã làm tê liệt mình bằng chi tiêu quá nhiều về quốc phòng và gánh vác quá nhiều trách nhiệm toàn cầu trải rộng bao la. Nhưng trong vòng hai năm, bức tường Berlin đã đổ, và hai năm sau Liên Xô tan rã. Sự suy tàn hóa ra đã xảy ra ở nơi khác.
Rồi đã có chuyện thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản. “Sự đi lên của phần còn lại” đã bắt đầu vào cuối các năm 1970 và đã tiếp tục trong một thập niên rưỡi tiếp theo, khi Nhật Bản, cùng với “các con hổ Á châu” khác – Nam Hàn, Singapore, và Đài Loan – đã có vẻ làm lu mờ Hoa Kỳ về mặt kinh tế. Đã không chỉ sức mạnh tương đối của nền kinh tế của Nhật là cái đã gây ấn tượng cho các nhà quan sát mà là tính ưu việt rõ ràng của mô hình kinh tế của nó. Năm 1989 nhà báo James Fallows đã cho rằng nền kinh tế do nhà nước chỉ đạo của Nhật Bản đã rõ ràng ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản tự do (laissez–faire) của Hoa Kỳ và đã được định sẵn để vượt qua nó.118 Nhật Bản sẽ là siêu cường tiếp theo. Năm 1992, trong cuốn sách bán chạy nhất, cuốn Rising Sun (Mặt trời Lên), Michael Crichton đã khuyên những người Mỹ “hãy cố gắng hiểu và đối phó với sự thực rằng Nhật Bản đã trở thành quốc gia công nghiệp dẫn đầu trên thế giới. Người Nhật có tuổi thọ dài nhất. Họ có công ăn việc làm cao nhất, có sự biết đọc biết viết cao nhất, có khoảng cách nhỏ nhất giữa những người giàu và những người nghèo. Các sản phẩm chế tác của họ có chất lượng cao nhất”.119 Trong khi Hoa Kỳ đã làm phá sản mình bằng tiến hành Chiến tranh Lạnh, thì người Nhật bận rộn lấy hết phần thắng. Như tác giả Charlmers Johnson đã diễn tả năm 1995, “Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và Nhật Bản đã thắng”.120
Ngay khi Johnson đánh máy những từ đó, thì nền kinh tế Nhật Bản đang rơi vào vòng xoáy xuống đến một thời kỳ đình trệ mà từ đó nó vẫn chưa phục hồi. Với Liên Xô đã tan rã và Trung Quốc còn phải chứng tỏ khả năng tiếp tục sự hưng thịnh bùng phát kinh tế của nó, Hoa Kỳ đột nhiên hiện ra là “siêu cường độc nhất” của thế giới. Thế nhưng ngay cả khi đó Hoa Kỳ đã không thành công một cách rõ rệt đến thế nào trong giải quyết nhiều vấn đề toàn cầu nghiêm trọng. Những người Mỹ đã thắng Chiến tranh vùng Vịnh, đã mở rộng NATO sang phía đông, cuối cùng đã mang lại hòa bình cho những người Balkan, sau nhiều sự đổ máu, và, suốt hầu hết các năm 1990, đã dẫn phần lớn thế giới đi theo “đồng thuận Washington” về kinh tế. Nhưng vài trong số những thành công này đã bắt đầu làm sáng tỏ và sánh được với những thất bại đáng kể. Đồng thuận Washington đã bắt đầu sụp đổ với khủng hoảng tài chính Á châu năm 1997, nơi các đơn thuốc của Mỹ đã được coi một cách rộng rãi là sai lầm và gây thiệt hại. Hoa Kỳ đã thất bại để ngưng hay hay làm chậm đáng kể các chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên và Iran, bất chấp việc tuyên bố đi tuyên bố lại ý định của nó để làm vậy. Những biện pháp trừng phạt được áp đặt để chống Iraq của Sadam Hussein đã cả là vô ích và, vào cuối thập niên, đã sụp đổ. Hoa Kỳ, và thế giới, đã chẳng làm gì để ngăn ngừa nạn diệt chủng ở Rwanda, một phần bởi vì một năm trước đó Hoa Kỳ đã bị đuổi khỏi Somalia sau một sự can thiệp quân sự thất bại. Một trong những nỗ lực quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong các năm 1990 đã là nỗ lực để ủng hộ một sự chuyển đổi ở nước Nga hậu–Soviet sang nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do. Nhưng bất chấp việc cung cấp hàng tỷ đôla và vô số lời khuyên và ý kiến chuyên môn, Hoa Kỳ đã thấy các sự kiện ở Nga một lần nữa lại ngoài tầm kiểm soát của nó.
Các nhà lãnh đạo Mỹ, ngay cả trong thời được cho là hoàng kim của ưu thế toàn cầu của nó, cũng đã chẳng thành công hơn ngày nay chút nào để giải quyết vấn đề Israel–Palestin. Ngay cả với một nền kinh tế hưng thịnh và một tổng thống rất được yêu mến, sốt sắng làm việc để đạt một sự hòa giải, chính quyền Clinton đã về tay không. Như nhà đàm phán hòa bình Trung Đông Aaron David Miller kể lại, Bill Clinton “đã quan tâm nhiều hơn về và đã đầu tư nhiều thời gian và năng lượng hơn vào hòa bình Arab–Israel trong một thời kỳ dài hơn bất cứ người tiền nhiệm nào của ông,” ông đã được cả những người Israel lẫn những người Palestin ngưỡng mộ và đánh giá cao, ông còn đã tổ chức “ba cuộc họp thượng đỉnh trong vòng sáu tháng và [đã] thất bại trong mỗi cuộc”.121 Nhiệm kỳ của Clinton kết thúc với sự đổ vỡ của đàm phán hòa bình và sự bắt đầu của intifada [phong trào nổi dậy] của người Palestin.
Ngay cả sự được dân chúng ưa thích đã là khó hiểu đối với Hoa Kỳ trong các năm 1990. Năm 1999, Samuel P. Huntington đã gán nhãn “siêu cường cô đơn” cho Hoa Kỳ, bị căm ghét một cách rộng rãi khắp địa cầu vì ứng xử “xâm phạm, can thiệp, bóc lột, đơn phương, bá quyền, đạo đức giả” của nó. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp đã chê bai “siêu cường–hyperpower” và đã công khai mong mỏi một thế giới “đa cực” mà trong đó Hoa Kỳ sẽ không còn áp đảo nữa. Một nhà ngoại giao Anh đã bảo Huntington: “Người ta đọc về sự ao ước của thế giới đối với sự lãnh đạo của Mỹ chỉ ở Hoa Kỳ. Ở tất cả những nơi khác người ta đọc về sự ngạo mạn và chủ nghĩa đơn phương Mỹ”.122
Đấy là điều vô nghĩa, tất nhiên. Ngược với luận điệu của nhà ngoại giao Anh, nhiều nước khác đã có mong đợi Hoa Kỳ lãnh đạo, bảo vệ, và ủng hộ trong các năm 1990 và suốt Chiến tranh Lạnh. Điểm cốt yếu không phải là Mỹ đã luôn luôn thiếu ảnh hưởng toàn cầu. Từ Chiến tranh Thế giới II trở đi, Hoa Kỳ quả thực đã là cường quốc chiếm ưu thế trên thế giới. Nó đã có được ảnh hưởng khổng lồ, nhiều hơn bất cứ cường quốc lớn nào kể từ thời La Mã, và nó đã hoàn thành nhiều.
Nhưng nó đã không có quyền vô hạn – còn xa mới thế. Nếu chúng ta (muốn) đo kiểm một cách chính xác liệu Hoa Kỳ hiện nay có trong (quá trình) suy tàn hay không, chúng ta cần phải có một đường cơ sở hợp lý mà để đo lường từ đó. Đi so sánh ảnh hưởng của Mỹ hiện nay với một quá khứ hoang đường, được tưởng tượng về địa vị thống trị át hẳn chỉ có thể làm chúng ta lạc lối. Ngay cả [theo nghĩa] bao quát nhất của nó, như Huntington đã nhận xét, địa vị đứng đầu quốc tế [international primacy] “có nghĩa rằng một chính phủ có khả năng để thực hiện nhiều ảnh hưởng hơn lên ứng xử của nhiều nhân vật hơn đối với nhiều vấn đề hơn bất cứ chính phủ khác nào có thể”.123 Không có nghĩa là nó có thể xác định ứng xử của tất cả các quốc gia khác về mọi vấn đề hay thậm chí về hầu hết các vấn đề.
Khả năng để ra lệnh cho các quốc gia khác khắp nơi, thậm chí không phải là biện pháp tốt nhất của sự lãnh đạo thành công trong trật tự thế giới hiện thời. Sự độc lập dễ thấy của một số cường quốc đang lên của thế giới hiện nay đôi khi có thể là một dấu hiệu của sự thành công hơn là sự suy giảm của cảnh hưởng Mỹ. Vì đó chính xác là một trong những đặc trưng của trật tự thế giới Mỹ rằng nhiều quốc gia hơn có nhiều quyền tự do hành động hơn. Một phần của việc này liên quan đến cung cách Mỹ lãnh đạo toàn cầu, với sự lưỡng lự và sự không kiên định bẩm sinh của nó, cũng như cách tiếp cận dân chủ nói chung của nó đến ngoại giao quốc tế. Một phần của nó đơn giản mang tính cấu trúc và nội tại đối với bản chất của một trật tự thế giới đơn cực trong đó một cường quốc “đảo” sử dụng ảnh hưởng của nó trong các trung tâm quyền lực của thế giới từ xa. So với những sắp đặt khả dĩ khác, điều này đã làm tăng quyền tự do hành động cho nhiều quốc gia hơn.
Trật tự hai cực của Chiến tranh Lạnh đã hạn chế hơn bởi vì nhiều quốc gia bị khóa cứng nhắc vào phe Tây phương hay phe Soviet. Các quốc gia trong Phong trào Không Liên Kết và Pháp Gaullist đã sống qua Chiến tranh Lạnh vùng vẫy để lách tự do khỏi sự trói buộc chính sách đối ngoại này. Các trật tự thế giới đa cực cũng ràng buộc hơn. Các cường quốc lớn cần phải cẩn trọng không làm bất cứ thứ gì mà có thể có vẻ đe dọa các cường quốc lớn khác, để không dẫn tới chiến tranh. Các cường quốc nhỏ hơn bị ràng buộc, vì mỗi cường quốc lớn muốn trở nên chi phối bên trong phạm vi ảnh hưởng của riêng mình – đó là phần của định nghĩa về một cường quốc lớn – và các cường quốc nhỏ trong quỹ đạo của họ không được phép để tiến hành các hành động mà có thể xúi giục xung đột giữa các cường quốc lớn, như Serbia đã làm trong việc châm ngòi Chiến tranh Thế giới I. Trong một trật tự đơn cực, các cường quốc nhỏ hơn được hưởng sự độc lập lớn hơn bởi vì siêu cường có thể, nếu nó chọn, ngăn chặn các cường quốc lớn khu vực khỏi việc áp bức họ.
Cho nên không phải là một dấu hiệu của điểm yếu nếu nhiều quốc gia hơn có nhiều quyền tự do hành động hơn trong trật tự hiện hành. Số đo thành công của trật tự không phải là liệu Hoa Kỳ có thể bảo mọi người phải làm cái gì hay không. Mà là bản thân trật tự – sự mở rộng dân chủ, thịnh vượng, và an ninh – có duy trì được hay không. Quyền tự do và sự độc lập lớn hơn của Brazil trong chính sách đối ngoại có thể là một dấu hiệu thành công của trật tự. Quyền tự do lớn hơn của Iran để chế tạo vũ khí hạt nhân có thể là cái báo hiệu sự thất bại của nó.
Ngày nay Hoa Kỳ thiếu năng lực để đạt được cái nó muốn trong nhiều vấn đề, nhưng điều này không ngăn cản nó có được đúng nhiều thành công, và phải chịu đúng nhiều thất bại như trong quá khứ. Cho dù có bàn cãi, Hoa Kỳ ở Iraq đã thành công hơn ở Việt Nam. Nó đã không có khả năng kiềm chế các tham vọng hạt nhân của Iran đúng như nó đã không thể trong các năm 1990, nhưng nó đã thiết lập một mạng lưới toàn cầu chống phổ biến [hạt nhân] hiệu quả hơn thông qua nỗ lực của hai chính quyền [Mỹ]. Các nỗ lực của nó để nhổ bật rễ và tiêu diệt al Qaeda đã thành công xuất sắc, đặc biệt khi so sánh với những thất bại để phá hủy các mạng lưới khủng bố trong các năm 1990 – những thất bại lên đến đỉnh điểm trong các cuộc tấn công 11 tháng Chín 2001. Khả năng để dùng các máy bay không người lái (drone) là một tiến bộ so với các loại vũ khí – tên lửa hành trình và tấn công bằng máy bay – mà đã được dùng để nhắm vào bọn khủng bố và các phương tiện trong các thập niên trước. Trong lúc đó, các đồng minh của Mỹ ở Châu Âu vẫn khỏe mạnh; đã không phải là lỗi của Hoa Kỳ rằng bản thân Châu Âu có vẻ yếu hơn trước. Các đồng minh của Mỹ ở Châu Á có thể cho rằng đã trở nên mạnh hơn trong vài năm vừa qua, và Hoa Kỳ đã có khả năng củng cố các mối quan hệ với Ấn Độ mà trước đây đã căng thẳng.
Như thế bảng thành tích là lẫn lộn, nhưng nó đã luôn luôn là lẫn lộn. Đã có các thời điểm khi Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng hơn ngày nay và các thời điểm ít ảnh hưởng hơn. Việc sử dụng ảnh hưởng đã luôn luôn là cuộc chiến đấu, mà có thể giải thích vì sao trong mỗi thập niên kể từ cuối Chiến tranh Thế giới II những người Mỹ đã đều lo lắng về ảnh hưởng sút giảm của họ và đã có vẻ bồn chồn khi các cường quốc khác đã có vẻ đang lên gây tổn hại cho họ. Những khó khăn trong việc định hình môi trường quốc tế ở bất cứ lĩnh vực nào là rất lớn. Ít cường quốc thậm chí thử làm việc đó, và ngay cả cường quốc mạnh nhất cũng hiếm khi đạt tất cả hay thậm chí hầu hết mục tiêu của nó. Chính sách đối ngoại giống việc đánh một quả bóng chày: nếu bạn đánh trượt 70 phần trăm, bạn được vinh danh (đi vào Hall of Fame, Sảnh Danh dự).
Những thách thức ngày nay là to lớn, và sự đi lên của Trung Quốc là thách thức hiển nhiên nhất trong số đó. Nhưng chúng không lớn hơn các thách thức mà Hoa Kỳ đã phải đối mặt trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ khi nhìn lại thì Chiến tranh Lạnh mới có vẻ dễ. Những người Mỹ vào lúc chấm dứt Chiến tranh Thế giới II đã đối mặt với một khủng hoảng chiến lược lớn. Liên Xô, phải chi chỉ vì độ lớn và vị trí của nó, đã có vẻ đe dọa các trung tâm chiến lược sống còn ở Châu Âu, Trung Đông, và Đông Á. Trong tất cả các khu vực này, nó đã đối mặt các quốc gia đã bị tàn phá và kiệt sức do chiến tranh. Để đương đầu với thách thức này, Hoa Kỳ đã phải phóng sức mạnh to lớn nhưng có giới hạn của riêng mình vào mỗi trong các khu vực đó. Nó đã phải lập ra các liên minh với các cường quốc địa phương, một vài trong số đó là các kẻ thù trước đó, và cung cấp cho họ sự trợ giúp kinh tế, chính trị và quân sự để giúp họ tự đứng trên đôi chân mình và chống lại áp lực Soviet. Trong Chiến tranh Lạnh, những người Soviet đã sử dụng ảnh hưởng và gây áp lực lên các lợi ích Mỹ chỉ bằng cách đứng yên, trong khi Hoa Kỳ đã phải tranh giành. Đáng nhớ lại rằng chiến lược “ngăn chặn” này, bây giờ được thánh hóa bởi thành công rõ rệt của nó, đã gây ấn tượng cho một số nhà quan sát có ảnh hưởng thời đó như là hoàn toàn không thể thực hiện được. Walter Lippmann đã tấn công nó như “được quan niệm sai,” dựa trên “hy vọng,” nhường “sáng kiến chiến lược” cho những người Soviet trong khi Hoa Kỳ đã vét cạn các nguồn lực của nó để thử thiết lập “các nhà nước tay sai, các chính phủ bù nhìn” mà chúng yếu, không có hiệu quả, và không tin cậy được.124
Ngày nay, trong trường hợp Trung Quốc, tình hình đảo ngược. Tuy Trung Quốc đang và sẽ giàu hơn và sẽ nắm được ảnh hưởng kinh tế trên thế giới lớn hơn Liên Xô đã từng có rất nhiều, nhưng vị thế địa chiến lược của nó khó hơn. Chiến tranh Thế giới II đã để Trung Quốc vào một vị thế tương đối yếu mà nó đã làm việc cật lực suốt từ đó để phục hồi. Nhiều láng giềng của nó là các quốc gia mạnh có các mối quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ. Nó sẽ có một thời gian khó khăn để trở thành một bá chủ khu vực chừng nào Đài Loan vẫn còn độc lập và gắn bó một cách chiến lược với Hoa Kỳ, và chừng nào các cường quốc mạnh trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Australia còn tiếp tục cho binh lính và các căn cứ Mỹ đóng. Trung Quốc sẽ cần chí ít vài đồng minh để có bất cứ cơ may nào để đẩy Hoa Kỳ ra khỏi các thành trì của nó trong vùng tây Thái Bình Dương, nhưng đúng bây giờ chính Hoa Kỳ là nước có các đồng minh. Chính Hoa Kỳ là quốc gia có binh lính được triển khai ở các căn cứ tiền phương. Chính Hoa Kỳ là nước hiện đang có ưu thế hải quân trong các vùng nước và các đường thủy then chốt mà qua đó Trung Quốc phải buôn bán. Nhìn toàn bộ, nhiệm vụ của Trung Quốc với tư cách là một cường quốc lớn đang lên, mà để đẩy Hoa Kỳ khỏi vị trí hiện tại của nó, là khó hơn nhiệm vụ của Hoa Kỳ rất nhiều, mà nhiệm vụ đó chỉ là giữ chặt cái nó có.
Hoa Kỳ có thể làm việc đó? Trong tâm trạng bi quan ngày nay của họ, một số người Mỹ có thể nghi ngờ rằng Hoa Kỳ có thể. Quả thực, họ nghi ngờ liệu Hoa Kỳ có thể có đủ sức để tiếp tục đóng vai trò chiếm ưu thế mà nó đã đóng trong quá khứ ở bất cứ phần nào của thế giới hay không. Một số người cho rằng trong khi cảnh báo của Paul Kennedy về sự kéo quá căng mang tính đế quốc có thể đã không đúng vào năm 1987, nó mô tả chính xác tình trạng khó khăn hiện nay của Mỹ. Khủng hoảng tài chính, hệ thống chính trị bế tắc, các căn bệnh khác nhau của xã hội Mỹ, bao gồm sự đình trệ lương và bất bình đẳng thu nhập, sự yếu kém của hệ thống giáo dục, hạ tầng cơ sở bị xuống cấp – tất cả những thứ này được dẫn ra trong những ngày này như các lý do vì sao Hoa Kỳ cần phải giảm bớt về mặt quốc tế, để rút lại một số cam kết ở nước ngoài, để tập trung vào “xây dựng quốc gia ở trong nước” hơn là thử giữ việc định hình thế giới như nó đã làm trong quá khứ.
Lần nữa, những giả định này đòi hỏi sự xem xét nào đó. Trước hết, Hoa Kỳ “bị kéo quá căng” đến thế nào? Câu trả lời, về mặt lịch sử, là còn xa mới như nhiều người tưởng tượng. Hãy xem xét vấn đề thẳng thắn của số quân mà Hoa Kỳ triển khai ở nước ngoài. Lắng nghe các cuộc tranh luận ngày nay, ta có thể tưởng tượng có nhiều quân lính Mỹ được cam kết ở nước ngoài hơn từ trước đến giờ. Nhưng không phải thế. Năm 1953, Hoa Kỳ đã có gần một triệu quân triển khai ở nước ngoài – 325.000 chiến đấu ở Triều Tiên và hơn 600.000 đóng tại Châu Âu, Châu Á, và những nơi khác. Năm 1968, nó đã có hơn một triệu quân trên đất của nước ngoài – 537.000 ở Việt nam và nửa triệu khác đóng ở các nơi khác. Ngược lại, mùa hè 2011, đã có khoảng 200.000 quân chiến đấu ở Iraq và Afghanistan cộng lại, và khoảng 160.000 quân nữa đóng ở Châu Âu và Đông Á. Nhìn toàn bộ, và kể cả các lực lượng khác đóng khắp thế giới, đã có khoảng 500.000 quân được triển khai ở nước ngoài. Con số này thấp hơn ngay cả số được triển khai trong thời bình của Chiến tranh Lạnh. Năm 1957, chẳng hạn, đã có hơn 750.000 quân được triển khai ở nước ngoài. Chỉ trong thập niên giữa sự tan vỡ của Đế chế Soviet và các cuộc tấn công 11 tháng Chín, thì số các lực lượng được triển khai ở nước ngoài mới thấp hơn con số ngày nay. Sự so sánh còn nổi bật hơn nếu ta tính đến sự tăng dân số Mỹ. Khi Hoa Kỳ đã có 1 triệu quân được triển khai ở nước ngoài năm 1953, tổng dân số Mỹ đã chỉ là 160 triệu người. Ngày nay, khi có nửa triệu quân được triển khai ở nước ngoài, dân số Mỹ là 313 triệu. Nước đông gấp đôi, với số quân triển khai bằng nửa so với năm mươi năm trước.
Còn phí tổn tài chính thì sao? Nhiều người có vẻ tin rằng chi phí của những sự triển khai này, và của các lực lượng vũ trang nói chung, là nhân tố chính gây ra các khoản thâm hụt tài khóa tăng cao vút mà có thể đe dọa khả năng trả nợ của nền kinh tế quốc gia. Nhưng điều này cũng chẳng đúng. Như cựu sa hoàng ngân sách Alice Rivlin đã nhận xét, “những việc dự toán thâm hụt ngân sách tương lai gây khiếp sợ không phải “do chi tiêu quân sự gia tăng gây ra,” do chi tiêu viện trợ nước ngoài còn ít hơn nhiều.125 Các khoản thâm hụt ngân sách lồng lên được dự toán cho các năm sắp thới chủ yếu là kết quả của chi tiêu phúc lợi phồng lên. Ngay cả việc cắt hà khắc nhất về ngân sách quốc phòng sẽ tạo ra các khoản tiết kiệm chỉ từ 50 tỷ đến 100 tỷ USD, một phần nhỏ – giữa 4 đến 8 phần trăm – của các khoản thâm hụt 1,5 ngàn tỷ USD mà Hoa Kỳ đối mặt.
Năm 2002, khi Paul Kennedy đã lấy làm lạ về khả năng của Hoa Kỳ để vẫn là “siêu cường duy nhất rẻ tiền của thế giới,” Hoa Kỳ đã chi khoảng 3,4 phần trăm của GDP cho quốc phòng. Ngày nay nó chi 4 phần trăm, và trong các năm sắp tới, tỷ lệ đó chắc lại xuống thấp hơn – vẫn “rẻ” theo các tiêu chuẩn lịch sử. Chi phí để vẫn là cường quốc chiếm ưu thế của thế giới là không rất cao.
Vả lại, nếu chúng ta nghiêm túc về bài tập này trong tính toán, không thể đo các chi phí để duy trì vị trí này mà không cân nhắc đến cái giá của việc mất nó. Một vài cái giá của việc giảm bớt vai trò của Mỹ trên thế giới, tất nhiên, là không thể lượng hóa được: Đáng bao nhiêu đối với những người Mỹ để sống trong một thế giới được chi phối bởi các nền dân chủ hơn là bởi các chế độ chuyên quyền? Nhưng một vài trong số những cái giá đó là có thể đo lường được, nếu bất kỳ ai quan tâm để thử tính. Thí dụ, nếu sự suy giảm sức mạnh quân sự Mỹ tạo ra một manh mối làm sáng tỏ trật tự kinh tế quốc tế mà sức mạnh Mỹ đã giúp đỡ để duy trì; nếu các tuyến đường thương mại và đường thủy trở nên không an toàn, bởi vì hải quân Hoa Kỳ không còn khả năng bảo vệ chúng; nếu các cuộc chiến tranh khu vực nổ ra giữa các cường quốc lớn bởi vì họ không còn bị kiềm chế bởi siêu cường Mỹ nữa; nếu các đồng minh của Hoa Kỳ bị tấn công bởi vì Hòa Kỳ có vẻ không có khả năng đến bảo vệ họ; nếu bản chất tự do và mở nói chung của hệ thống quốc tế trở nên ít như thế – sẽ có những chi phí có thể đo lường được. Và không phải là quá gượng gạo để tưởng tượng rằng các chi phí này là lớn hơn rất nhiều so với khoản tiết kiệm 100 tỷ USD một năm có được do cắt giảm ngân sách quốc phòng và viện trợ nước ngoài. Bạn có thể tiết kiệm tiền bằng cách mua một chiếc xe hơi cũ đã qua sử dụng mà không có bảo hành và không có các tính năng an toàn nào đó, nhưng cái gì xảy ra khi bạn gặp tai nạn? Sức mạnh quân sự Mỹ cả làm giảm rủi ro của các tai nạn, bằng cách làm nhụt chí sự xung đột, lẫn làm hạ cái giá phải trả của xung đột xảy ra, bằng giảm cơ hội thất bại. Những khoản tiết kiệm này cũng phải là phần của sự tính toán. Như một vấn đề tiền bạc đơn giản, có thể là rẻ hơn nhiều để duy trì mức độ dính líu của Mỹ trên thế giới hơn là giảm nó.
Có lẽ mối lo ngại lớn nhất nằm dưới tâm trạng lo xuống dốc nói chung ở trong nước ngày nay không thực sự là liệu Hoa Kỳ có đủ sức để tiếp tục đóng vai trò của nó trên thế giới hay không. Mà là liệu những người Mỹ có khả năng giải quyết bất cứ vấn đề nào trong các vấn đề kinh tế và xã hội cấp bách nhất của họ hay không. Và là đúng: nếu Hoa Kỳ không thể giải quyết khủng hoảng tài chính của nó, chẳng hạn, thì nó rất có thể đối mặt với suy gảm kinh tế. Việc này sẽ có các hệ lụy đối với khả năng của nó để duy trì năng lực quân sự, mà đến lượt lại nêu ra các câu hỏi về khả năng của nó để tiếp tục với tư cách cường quốc có ảnh hưởng nhất của thế giới. Người dân cũng chẳng sai để lo ngại về các căn bệnh xã hội, sự bế tắc chính trị, và khả năng của những người Mỹ để cạnh tranh với những dân tộc đầy tham vọng và có khả năng trong các nền kinh tế đang lên trên khắp thế giới. Như Thomas Friedman và những người khác đã hỏi, những người Mỹ có thể làm cái cần phải làm để cạnh tranh một cách hiệu quả trong thế kỷ hai mươi mốt hay không?
Câu trả lời chân thật duy nhất là, ai mà biết được? Tuy vậy, nếu lịch sử Mỹ có là bất cứ chỉ dẫn nào, có chí ít lý do nào đó để hy vọng. Đã có nhiều lần trong hai thế kỷ vừa qua khi hệ thống chính trị đã loạn chức năng, bị bế tắc một cách vô vọng, và dường như không có khả năng để tìm ra các giải pháp để giải quyết các vấn đề của quốc gia – từ chế độ nô lệ và rồi Tái Thiết, đến trục trặc của công nghiệp hóa vào cuối thế kỷ mười chín và khủng hoảng phúc lợi xã hội trong Đại Suy Thoái, đến những hỗn loạn và paranoia (hoang tưởng đa nghi) của những năm đầu Chiến tranh Lạnh. Bất cứ ai, người nhớ lại một cách trung thực các năm 1970, với Watergate, Việt Nam, đình lạm, và khủng hoảng năng lượng, thực sự không thể tin các khó khăn hiện thời lại không thể sánh được. Người ta chỉ ra các thăm dò cho thấy những người Mỹ tuyệt vọng về tương lai của quốc gia họ; trong tháng Chín 2011, chỉ có 11 phần trăm những người Mỹ được hỏi đã thỏa mãn với “cách mà các thứ xảy ra.” Nhưng đó không phải là rất lạ trong các thời kỳ kinh tế gieo neo. Năm 1992, đã chỉ có 14 phần trăm thỏa mãn. Năm 1979, con số đã là 12 phần trăm. Cả độ lớn của các vấn đề lẫn mức độ tuyệt vọng cũng chẳng phải là không có tiền lệ. Thành công trong quá khứ không bảo đảm cho thành công trong tương lai. Nhưng một thứ có vẻ rõ ràng từ chứng cứ lịch sử: hệ thống Mỹ, cho dù có các tính chất làm mất tác dụng của nó, cũng đã chứng tỏ một năng lực lớn hơn để thích nghi và phục hồi từ các khó khăn so với hệ thống của nhiều quốc gia khác, kể cả các đối thủ địa chính trị của nó. Điều này không nghi ngờ gì có liên quan gì đó đến quyền tự do tương đối của xã hội, mà tưởng thưởng các nhà đổi mới sáng tạo, thường ở bên ngoài cấu trúc quyền lực hiện tồn, vì việc tạo ra những cách mới để làm các thứ và một hệ thống chính trị tương đối mở, mà cho phép các hoạt động để lấy được hơi và ảnh hưởng đến ứng xử của giới chính trị quyền uy. Hệ thống Mỹ là chậm chạp và vụng về một phần bởi vì các Nhà Sáng Lập đã thiết kế nó theo cách ấy, với một hệ thống liên bang, kiểm soát và cân bằng, và một Hiến pháp thành văn và Tuyên ngôn về các Quyền. Nhưng hệ thống cũng có một khả năng xuất sắc để thực hiện những thay đổi đúng khi nồi hơi có vẻ sắp thổi bay cái nắp (van) của nó. Có “các cuộc bầu cử quyết định” thi thoảng mà cho phép những biến đổi xảy ra, cung cấp các giải pháp cho các vấn đề cũ và dường như không thể giải quyết nổi. Tất nhiên, không có các đảm bảo nào: hệ thống chính trị đã không thể giải quyết nổi vấn đề nô lệ mà không có chiến tranh. Nhưng về nhiều vấn đề lớn trong suốt lịch sử của họ, những người Mỹ đã tìm ra được một cách để đạt và thực hiện đồng thuận quốc gia.126
Khi Paul Kennedy đã lấy làm lạ về thành công tiếp tục của siêu cường Mỹ trong năm 2002, ông đã lưu ý rằng một trong các lý do chính đã là khả năng của những người Mỹ để vượt qua cái mà đã có vẻ đối với ông năm 1987 như một khủng hoảng kinh tế dài hạn không thể giải quyết nổi. Các nhà kinh doanh và chính trị gia Mỹ “đã phản ứng mạnh với cuộc tranh luận về ‘suy tàn’ bằng hành động: cắt giảm chi phí, làm cho các công ty thon thả hơn và thành thạo hơn, đầu tư vào các công nghệ mới hơn, thúc đẩy cách mạng truyền thông, cắt tỉa thâm hụt chính phủ, tất cả những thứ đó đã giúp tạo ra sự tiến bộ hàng năm về năng suất”.127 Là có thể để tưởng tượng rằng những người Mỹ cũng có khả năng đối phó với thách thức kinh tế mới nhất này nữa.
Cũng hợp lý để cho rằng các quốc gia khác, như trong quá khứ, sẽ vấp phải những khó khăn của riêng họ. Chẳng có quốc gia nào trong các quốc gia hiện đang hưởng sự thần kỳ kinh tế mà không có vấn đề. Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nga, tất cả đều có lịch sử gập ghềnh mà lịch sử đó gợi ý con đường phía trước sẽ không đơn giản là một con đường đi lên trơn tru. Có một câu hỏi thực tế liệu mô hình chuyên quyền Trung Quốc, mà có thể rất hiệu quả trong đưa ra một số quyết định về nền kinh tế trong ngắn hạn, có thể đủ linh hoạt trong dài hạn để cho phép thích nghi với một môi trường kinh tế, chính trị và chiến lược quốc tế thay đổi hay không.
Tóm lại, có thể là nhiều hơn sự may mắn mà đã cho phép Hoa Kỳ trong quá khứ vượt qua các cuộc khủng hoảng và nổi lên mạnh hơn và khỏe khoắn hơn các quốc gia khác trong khi các đối thủ khác nhau của nó đã vấp ngã. Và có thể là nhiều hơn điều mơ tưởng đơn thuần để tin rằng nó sẽ làm vậy lần nữa.
NHƯNG CÓ MỘT sự nguy hiểm. Đó là giữa chừng, trong khi quốc gia tiếp tục vật lộn, những người Mỹ có thể thuyết phục chính mình rằng sự suy sụp quả thực là không thể tránh khỏi, hoặc rằng Hoa Kỳ có thể lấy một thời gian tạm ngưng các trách nhiệm toàn cầu của nó trong khi dọn dẹp nhà mình ngăn nắp. Đối với nhiều người Mỹ, việc chấp nhận sự suy sụp có thể cung cấp một lối thoát dễ chịu khỏi các gánh nặng đạo đức và vật chất mà đã đè nặng lên họ từ Chiến tranh Thế giới II. Nhiều người có thể ước ao một cách vô ý thức để quay trở lại cách các thứ đã xảy ra trong năm 1900, khi Hoa Kỳ đã giàu, hùng mạnh, và không có trách nhiệm về trật tự thế giới. Mọi ứng viên tổng thống kể từ cuối Chiến tranh Lạnh đã hứa bằng cách này hay cách khác để tập trung nhiều sự chú ý hơn vào công việc trong nước và để bớt sự dính líu của Mỹ ở nước ngoài, nhưng lại phá vỡ lời hứa đó hầu như ngay lập tức khi nhậm chức.
Giả định cơ sở của một tiến trình như vậy là, trật tự thế giới hiện thời sẽ ít nhiều vẫn còn mà không có sức mạnh Mỹ (hay chí ít, với sức mạnh Mỹ ít hơn nhiều), rằng các quốc gia khác có thể phục hồi sự uể oải, hoặc đơn giản rằng các lợi ích của trật tự thế giới là vĩnh cửu và không đòi hỏi sự nỗ lực của bất kể ai. Đáng tiếc, tuy vậy, trật tự thế giới hiện thời cũng mong manh như nó là độc nhất. Duy trì nó là một cuộc đấu tranh trong mỗi thập niên và vẫn sẽ là một cuộc chiến đấu trong các thập niên sắp tới. Các tổng thống, những người đã nhậm chức chờ đợi để có khả năng làm ít hơn, đã mau chóng đối mặt với thực tế trần trụi – thường rõ ràng hơn đối với các tổng thống hơn là với các ứng viên tổng thống – rằng duy trì trật tự thế giới hiện thời đòi hỏi sự lãnh đạo kiên định của Mỹ và sự cam kết liên tục của Mỹ.
Người dịch: Nguyễn Quang A
Nguồn: THE WORLD AMERICA MADE - ROBERT KAGAN - Alfred A. Knoff - NEW YORK 2012
Chú thích:
81. Paul Kennedy, The Rise and Fall of British Naval Mastery (Hampshire, U.K., 1983), pp. 208–9.
82. Paul Kennedy, “The Eagle Has Landed,” Financial Times, February 2, 2002.
83. G. John Ikenberry, ed., America Unrivaled: The Future of the Balance of Power (Ithaca, N.Y., 2002), p. 1.
84. Được trích trong Jonathan Marcus, “America: An Empire to Rival Rome?,” BBC News, January 26, 2004.
85. Phần của Hoa Kỳ trong GDP toàn cầu đã là 28 phần trăm trong năm 1969; 27 phần trăm trong năm 1979; 27 phần trăm trong năm 1989; 28 phần trăm trong năm 1999; 27 phần trăm trong năm 2009. Phần của Châu Âu đã giảm từ 35 phần trăm trong năm 1969 xuống 26 phần trăm trong năm 2009. Phần của Châu Á đã tăng từ 13 phần trăm trong năm 1969 lên 25 phần trăm trong năm 2009. Nhưng phần của Nhật Bản đã giảm từ 18 phần trăm trong năm 1994 xuống khoảng 9 phần trăm. USDA Economic Research Service, Real Historical Gross Domestic Product (GDP) Shares and Growth Rates of GDP Shares for Baseline Countries/Regions (in Percent), 1969–2010 (updated December 22, 2010); GDP table in the ERS International Macroeconomic Data Set, http://www.ers.usda.gov/Data/Macroeconomics/.
86. Yan, “How chína Can Defeat America.”
87. Con số này không bao gồm sự triển khai ở Iraq, mà đang chấm dứt, hay lực lượng chiến đấu ở Afghanistan, mà chắc là sẽ giảm đều đặn trong vài năm tới.
88. USDA Economic Research Service, Real Historical Gross Domestic Product (GDP) Shares and Growth Rates of GDP Shares for Baseline Countries/Regions (in Percent), 1969–2010; GDP table in the ERS International Macroeconomic Data Set,
http://www.ers.usda.gov/Data/Macroeconomics/.
89. Stephen Walt, “The End of the American Era,” National Interest, November–December 2011.
90. Donovan, Tumultuous Years, p. 83.
91. Ibid., p. 141.
92. NSC 68: United States Objectives and Programs for National Security (April 14, 1950), Một Báo cáo cho Tổng thống được thực hiện theo Chỉ thị của Tổng Thống ngày 31, tháng Giêng, 1950; Donovan, Tumultuous Years, p. 160.
93. Douglas MacArthur, bài phát biểu chính, Hội nghị Toàn quốc Đảng Cộng Hòa, July 7, 1952.
94. Donovan, Tumultuous Years, p. 59; Herbert Parmet, Eisenhower and the American Crusades (New York, 1972), p. 361.
95. Parmet, Eisenhower, p. 537.
95. Parmet, Eisenhower, p. 537.
96. Stephen E. Ambrose, Eisenhower: Soldier and President (New York, 1991), p. 484.
97. Westad, Global Cold War, p. 184.
98. Joseph S. Nye, The Paradox of American Power: Why the World’s Only Superpower Can’t Go It Alone (New York, 2003), p. 10.
99. Westad, Global Cold War, p. 135.
100. Ibid., p. 122.
101. Ibid., p. 149.
102. Ibid., p. 152.
103. Ibid.
104. Kennedy đã nhận thấy rằng ở châu Phi những người “muốn một sự thay đổi” đã “bị ấn tượng bởi tấm gương của Liên Xô và Trung Quốc” và đã tin rằng “hệ thống Cộng sản nắm được các bí mật về tổ chức các nguồn lực của nhà nước nhằm mang lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.” Ibid., pp. 134–35.
105. Dulles đã lo ngại rằng các láng giềng Á châu của Liên Xô đã thấy quốc gia ấy “trong vòng một thế hệ đã phát triển mình thành một cường quốc công nghiệp lớn.” Peter W. Rodman, More Precious Than Peace: The Cold War and the Struggle for the Third World (New York, 1994), p. 69.
106. Robert J. McMahon, “Introduction: The Challenge of the Third World,” trong Empire and Revolution: The United States and the Third World Since 1945, ed. Peter L. Hahn and Mary Ann Heiss (Columbus, Ohio, 2001), p. 7.
107. Westad, Global Cold War, p. 93.
108. Elizabeth Cobbs Hoffman, “Decolonization, the Cold War, and the Foreign Policy of the Peace Corps,” trong Hahn and Heiss, Empire and Revolution, p. 136.
109. Như Rodman đã nhận thấy, các lãnh tụ Thế giới Thứ Ba đã kích cả hai bên chống lại nhau, tìm cách để có được nhiều nhất cho họ và cho các quốc gia của họ. Họ đã “không phán xét một cuộc thi về tính đại chúng hoặc đưa ra bất cứ loại phán xét đạo đức nào về phần đức hạnh của hai siêu cường.” Rodman, More Precious Than Peace, p. 73.
110. Westad, Global Cold War, p. 125.
111. Ibid., p. 136.
112. Ibid., p. 196.
113. Daniel Yergin, The Prize: The Epic Quest for Oil, Money, and Power (1991; New York, 2008), pp. 594, 616.
114. Ibid., p. 635.
115. Ibid., p. 662.
116. Ibid., pp. 698, 701.
117. Walter Isaacson, Kissinger: A Biography (New York, 1992), pp. 697, 696.
118. James Fallows, “Containing Japan,” Atlantic Monthly, May 1989, p. 40.
119. Michael Crichton, Rising Sun (New York, 1992), p. 349.
120. Chalmers Johnson, Japan: Who Governs? The Rise of the Developmental State (New York, 1995), p. 9.
121. Aaron David Miller, The Much Too Promised Land (New York, 2008), pp. 310–14.
122. Samuel P. Huntington, “The Lonely Superpower,” Foreign Affairs, March/April 1999.
123. Samuel P. Huntington, “Why International Primacy Matters,” International Security 17, no. 4 (Spring 1993).
124. Walter Lippmann, The Cold War: A Study in U.S. Foreign Policy Since 1945 (New York, 1947), p. 47.
125. Alice Rivlin, tuyên bố tại một thảo luận panel về ngân sách quốc phòng Hoa Kỳ, Brookings Institution, December 22, 2010. Để cho rõ, bà đã kêu gọi cắt giảm ngân sách quốc phòng bởi vì bà cảm thấy tất cả các bộ phận của chính phủ phải trả phần công bằng của mình trong việc tìm kiếm cho việc giảm nợ nần.
126. Tôi đã được nhắc nhở về điểm này bởi Gary Schmitt, một học giả thuộc Tổng thống và một bậc có thẩm quyền về các Nhà sáng lập và về hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ. Ông làm việc tại American Enterprise Institute.
127. Kennedy, “Eagle Has Landed.”