Tản Đà nói thời ấy “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”. Nhưng rẻ thế nào thì vẫn có thể bán được văn và người viết văn vẫn có thể sống được bằng sản phẩm do mình làm ra. Tô Hoài kể, ông thôi việc ở một hãng buôn để chuyên tâm vào nghề văn, vì lương thư ký, tháng chỉ 4 đồng, mà nhuận bút cho một cái truyện ngắn, Vũ Ngọc Phan trả ông những 6 đồng. Thế mới biết, nghề văn vẫn sang hơn chán vạn nghề khác và dẫu “sống mòn”, người cầm bút vẫn có thể dấn thân với nghề. Có lẽ cả một thế hệ những cây bút phê bình lỗi lạc như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Hải Triều, Phan Khôi… đã sống bằng nghề lao động tự do như vậy. Cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, chúng ta vẫn còn nhà phê bình chuyên nghiệp, do họ được nhà nước trả lương. Chỉ hơn hai chục năm trở lại đây mới không còn chỗ nào trả lương cho những người yêu văn chương, muốn chọn phê bình làm nghề nghiệp suốt đời. Xóa bỏ bao cấp theo kiểu nhà nước hóa hoạt động văn học là một quy luật tất yếu. Có điều, chế độ thù lao, nhuận bút trả cho sản phẩm văn học ngày càng rẻ mạt, rẻ mạt đến thảm hại. Phải mất hai tuần, tôi mới dịch xong một tiểu luận của R.Barthes. Sau khi Văn nghệ trẻ in, tôi được trả bốn trăm nghìn nhuận bút. Cả năm trời, tôi mới nghĩ ra được một ý khả thủ, khảo sát đủ tư liệu, tìm đủ chứng lý để viết thành bài nghiên cứu tử tế dài hơn 30 chục trang, đem in trên Nghiên cứu văn học rất sang trọng, tôi nhận được năm trăm nghìn nhuận bút. Không được chỗ nào trả lương, nhuận bút lại rẻ mạt thế, thử hỏi người ta còn bụng dạ nào mà ngồi viết lý luận, phê bình? Tôi thấy trên các cơ quan truyền thông có nhiều người nói về sự xuống cấp của phê bình văn học. Tôi nghĩ, nếu chỉ mới “xuống cấp” thôi thì vẫn còn là đại phúc, bởi vì, tôi sợ, cứ đà này, chỉ cần ít năm nữa, không khéo sẽ chẳng còn ai làm lý luận - phê bình, khi ấy, loại hoạt động này sẽ trở thành nghề cần đưa gấp vào “sách đỏ” để bảo vệ, giống như người ta bảo vệ các loài thú quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng.
Đội ngũ làm phê bình đông nhất ở nước ta hiện nay là các nhà giáo dạy đại học và một số nghiên cứu viên ở Viện Văn học. Sau nhà giáo, ở ta, rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo cũng tham gia viết phê bình văn. Nhưng nhiệm vụ của nhà giáo là dạy học. Chức năng của nghiên cứu viên ở Viện Văn học là nghiên cứu theo các lĩnh vực chuyên ngành. Họ không được chuẩn bị để viết phê bình văn học. Viết phê bình văn học với họ chỉ là nghề tay trái, dẫu không viết, thì họ vẫn cứ được công nhận danh hiệu Lao động tiên tiến, thậm chí, được bầu là Chiến sỹ thi đua. Cho nên, các ông bà giáo viên thường chỉ viết phê bình khi còn trẻ. Về già, họ rút vào nghiên cứu, thôi không viết phê bình nữa. Bộ phận phê bình là các nhà văn cũng vậy. Người Việt yêu văn nghệ, nên độc giả Việt Nam rất thích kiểu phê bình nhà văn. Nhưng thiên chức của nhà văn, nhà thơ dĩ nhiên là làm thơ, viết truyện chứ không phải là viết lý luận phê bình. Cho nên, hứng lên thì họ viết, hết hứng thì lại thôi.
Đúng là chúng ta đang có một nền lý luận, phê bình văn học của rất nhiều loại “nhà”, chỉ thiếu mỗi sự tham gia của giới lý luận, phê bình chuyên nghiệp. Thực chất, đó là nền lý luận - phê bình văn học nghiệp dư. Nghề gì cũng cần đến sự hỗ trợ của hoạt động nghiệp dư. Nhưng một nền lý luận - phê bình văn học lấy hoạt động nghiệp dư thay thế cho hoạt động chuyên nghiệp thì lại là chuyện không bình thường và tình trạng ấy chắc chắn sẽ để lại rất nhiều hệ luỵ.
2. Hội thảo thì tốt. “Cờ, đèn, kèn, trống”: rầm rộ mấy cũng không hay. Nói đi rồi lại muốn nói lại. Bởi vì, tôi có thể kể ra đây tên tuổi của hàng chục nhà văn từng để lại cho nhân loại những công trình mỹ học, lý luận và phê bình văn học bất hủ, xứng đáng được gọi là những kiệt tác. J.W.Goethe của Đức, L.Tolstoi của Nga, Edgar Allan Poe của Mỹ, Lỗ Tấn của Trung Quốc, hay Thạch Lam với cuốn Theo giòng của ông chẳng phải là những trường hợp như thế hay sao? Lại nữa, từ đầu thế kỷ XX, bất luận là ở Đức, Pháp, Anh, Nga, hay Mỹ, hầu như mọi trào lưu, trường phái phê bình văn học hiện đại nhất, chuyên nghiệp nhất đều là sản phẩm của phê bình đại học, do các giáo sư đại học khởi xướng. Xin hãy nhớ lại uy tín, vai trò cầm cân nảy mực của Gustave Lanson đối với phê bình Pháp và các môn đệ của ông. Xin hãy suy ngẫm về những ảnh hưởng lớn lao mà Trường phái Chicago, hay Trường phái Yale đã để lại đối với phê bình toàn thế giới. Nói như thế để thấy, việc nhà văn, nhà thơ, hay nhà giáo tham gia viết phê bình, tự nó, không phải là nguyên nhân tạo nên tính chuyên nghiệp, hay tình trạng nghiệp dư của một nền lý luận - phê bình văn học. Tôi hiểu phê bình nghiệp dư là một loại hình phê bình. Loại hình này có những đặc điểm riêng. Những đặc điểm ấy bộc lộ ở cung cách hoạt động, ở hệ thống vấn đề thường được mang ra bàn thảo, nhất là ở hình thức thể loại, ở phương pháp tiếp cận tác phẩm văn nghệ mà người viết thường chọn để tiến hành phê bình văn học.
Mỗi khi nghĩ về cung cách hoạt động của nền lý luận - phê bình văn học Việt Nam, không hiểu sao bao giờ tôi cũng hình dung ra ngay một bầu không khí thật “rầm rộ”.
Đúng là đời sống phê bình văn học ở Việt Nam thường rất “rầm rộ”. Chắc nhiều người vẫn chưa quên những cuộc hội thảo vô cùng rầm rộ của giới lý luận, phê bình diễn ra vào những năm 80 của thế kỷ trước. Khi công cuộc đổi mới đất nước vừa được khởi xướng, tôi thấy, ở đâu cũng mở hội thảo: hội thảo ở trung ương, hội thảo ở các tỉnh, hội thảo ở Hội Nhà văn, hội thảo ở các trường đại học và một số trường phổ thông cũng mở hội thảo bàn về đổi mới văn nghệ. Tôi được mời tham dự một cuộc hội thảo như thế ở trường cấp III Nguyễn Huệ trong Hà Đông và trường cấp III Lam Sơn ở Thanh Hóa. Báo Văn nghệ, tạp chí Cửa Việt và nhiều tờ báo, tạp chí khác liên tiếp tổ chức các cuộc tranh luận, thảo luận “Bàn tròn”. Đến lúc không khí của thời đổi mới lắng xuống, tôi thấy Hội Nhà văn Việt Nam và các Hội văn nghệ địa phương rất có công trong việc tạo ra sự “rầm rộ” để giữ lửa nhiệt tình cho hoạt động lý luận, phê bình. Tôi nhớ, năm ngoái, trên tờ Văn nghệ trẻ (số 26, ra ngày 26.6.2011), Văn Giá cho in bài Những nguy cơ của lý luận phê bình hiện nay. Theo Văn Giá, hiện nay “giới làm lý luận phê bình bị bỏ rơi” và “các tác phẩm lý luận phê bình bị rẻ rúng”. Chỉ một tuần sau (ngày 2.7.2011), trên báo mạng của Hội Nhà văn, Lê Thành Nghị đã có lời Trao đổi… Ông chứng minh: “Chưa bao giờ giới lý luận phê bình được quan tâm như bây giờ, cả trên bình diện tổ chức, hỗ trợ, đầu tư và các hoạt động nghề nghiệp”. Theo tôi đây là bài viết hay nhất, mô tả đầy đủ nhất quang cảnh rầm rộ của các hoạt động lý luận, phê bình văn học do Hội Nhà văn khởi xướng trong những năm qua.
Có điều, được quan tâm nhiều thế, hoạt động rầm rộ thế, mà sao lý luận, phê bình vẫn chẳng thấy khởi sắc được là bao, thậm chí, người ta vẫn cứ gióng lên những hồi chuông cảnh báo về tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của nó. Lời giải đáp cho câu hỏi này xem ra hoàn toàn có thể tìm thấy trong hệ thống vấn đề được mang ra bàn luận ở những cuộc “làm việc”, “hội thảo”, “hội nghị”, ở những lớp “tập huấn”, “bồi dưỡng” rất rầm rộ kia. Nhiều người còn nhớ, vào những năm 80 của thế kỷ trước, báo Văn nghệ xới lên hai chủ đề: “văn nghệ và chính trị” và “văn nghệ và hiện thực”. Hai chủ đề này được các cuộc hội thảo rầm rộ thời ấy nhiệt liệt hưởng ứng, ý kiến tham gia cực kỳ sôi nổi. Tôi nhắc lại sự kiện ấy, vì hơn hai chục năm sau, tôi thấy Hội nhà văn vẫn trở đi trở lại với chủ đề này. Hội thảo phê bình ở Ba Vì bàn về “Văn học và hiện thực”. Hội thảo phê bình ở Đà Lạt cũng lại bàn về “Văn học nghệ thuật và hiện thực đời sống”. Không thấy ở đâu tổ chức hội thảo về “Văn nghệ và chính trị” nữa. Bây giờ thay vào đấy là các chủ đề “Văn học nghệ thuật trong cơ chế trị trường”, hoặc “Về tính dân tộc và hiện đại trong văn học nghệ thuật hiện nay”. Tại sao suốt mấy chục năm qua, các cuộc hội thảo do Hội Nhà văn tổ chức cứ bàn mãi một chuyện như thế? Không thể phủ nhận, các chủ đề “dân tộc và hiện đại”, “văn nghệ và kinh tế thị trường”, “văn nghệ và chính trị”, “văn nghệ và hiện thực” có khía cạnh khoa học của nó. Nhưng ai cũng thấy, ở Việt Nam, trước hết đó là những chủ đề có ý nghĩa thời sự - xã hội, đem ra bàn, ai cũng có thể nói được dăm câu ba điều. Thành thử, theo dõi mãi, tôi mới thấy các học giả hàng đầu nước ta nêu được vài luận điểm đáng ghi nhớ. Ở cuối thế kỷ trước có luận điểm cho rằng: văn học không phản ánh hiện thực, mà “suy ngẫm về hiện thực”. Đến đầu thế kỷ này, tôi thấy có ý kiến bổ sung: văn học “không phản ánh”, “không suy ngẫm”, mà “sống với hiện thực’. Tôi tin, đây là những tư tưởng lý thuyết đã được nghiền ngẫm cẩn thận, chứ không phải chỉ cốt nói ra cho vui. Có điều, không hiểu vì sao, chẳng thấy tác giả của những luận điểm lý thuyết vô giá này đem triển khai chúng vào thực tiễn phân tích tác phẩm, giúp mọi người vận dụng rộng rãi đặng nâng cao chất lượng của phê bình văn học.
Không đặt ra và giải quyết được những vấn đề thực sự mang tính khoa học về văn học, các cuộc hội thảo, hội nghị càng rầm rộ, càng bộc lộ tính chất hình thức của một thứ hoạt động thường được gọi là “cờ, đèn, kèn, trống”, tức là càng lộ rõ tính chất nghiệp dư của nó.
3. Độc diễn mãi món “ét - xe”, khi nào thành chuyên nghiệp? Về cơ bản, nền phê bình của nước ta hiện nay là phê bình “ét - xe”. Những người Việt có viết văn, làm báo đều chẳng lạ gì chữ “essai” trong tiếng Pháp. Chữ ấy có thể dịch sang tiếng Việt là “tiểu phẩm”, hoặc “tiểu luận”. Tôi chọn chữ “tiểu phẩm” vì nó vừa bao hàm được nghĩa của “tiểu luận” - một công trình khoa học nhỏ, lại vừa làm nổi bật bản chất “viết văn”, “làm văn” của loại diễn ngôn phê bình này. Theo tôi, có thể gọi nền phê bình văn học Việt Nam là nền “phê bình tiểu phẩm”. Tiểu phẩm là hình thức “diễn ngôn”, là “lối viết”, là “thể loại lời nói” được phê bình nghiệp dư cực kỳ ưa chuộng. Vì sao phê bình nghiệp dư lại chọn lối viết tiểu phẩm. Điều này xem ra có quan hệ tới đặc trưng của thể tiểu phẩm và con đường đến với nghề của các cây bút nghiệp dư.
Phê bình đứng cùng hàng với nghiên cứu văn học. Nhưng nếu nghiên cứu văn học phải đẩy đối tượng ra xa mà phân tích, thì phê bình phải kéo đối tượng xích lại gần để định giá. Mô tả quy luật vận động khách quan của đối tượng phân tích là mục đích của nghiên cứu văn học. Định giá tác phẩm văn học là chức năng của phê bình. Nhà phê bình chuyên nghiệp định giá văn học bằng toàn bộ bề dày tri thức và sự hiểu biết thấu đáo đối tượng. Anh ta đến với nghề chủ yếu bằng sự “biết”. Nhà phê bình nghiệp dư lại đánh giá văn học chủ yếu nhờ vào sự tinh tế và sành sỏi của cá nhân. Anh ta đến với nghề chủ yếu bằng năng khiếu bẩm sinh. Có trường hợp, nhà phê bình chỉ dựa vào khiếu khẩu hoạt và tài bặm trợn mà vẫn làm náo loạn cả dư luận xã hội.
Tiểu phẩm có đầy đủ các đặc điểm phù hợp với kiểu phê bình nghiệp dư. Nó rất gần với tùy bút. Nó cho phép bộc lộ công khai quan điểm định giá và thái độ chủ quan của người viết đối với hiện tượng văn học được đưa ra xem xét, mổ xẻ. Về mặt này, tiểu phẩm gần với văn bút chiến. Những người có thiên hướng sử dụng phê bình như thứ vũ khí công kích địch thủ rất chuộng thể văn này. Quan trọng nhất, tiểu phẩm cho phép sử dụng rộng rãi các thao tác, thủ pháp của sáng tác văn học thay cho các thao tác, thủ pháp nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, nó chọn lối viết phê bình hệt như sáng tác văn học, vì bản thân sự sáng tác nghệ thuật tự nó đã bao hàm sự định giá. Trong tiểu phẩm, có 4 thủ pháp của sáng tác văn học thường được mang ra dùng như những công cụ phê bình văn học. Thứ nhất: uyển ngữ, tức là bẻ chữ, nắn câu để, một mặt, tầm thường hóa các thuật ngữ chuyên môn, mặt khác, lạ hóa những ý tình mòn sáo. Đây là thao tác thường gặp trong nghệ thuật ngôn từ nói chung. Thứ hai: dựng chân dung. Nhà văn biến người đời thành nhân vật, nhà phê bình cũng biến nhà văn thành nhân vật của mình. Thứ ba: diễn nôm, tức là dùng ngôn ngữ của mình để tóm tắt cốt truyện, hoặc giảng giải ý thơ. Nó tựa như mạch trần thuật trong cả thơ lẫn truyện. Thứ tư: tán, tức là dùng khả năng liên tưởng, tưởng tượng mà bàn rộng ra, ví như bình bài Tiếng thu của Lưu trọng Lư, thể nào cũng phải lan sang chuyện cảnh thu trong ca dao, hơi thu trong thơ Đường, cho tới tận khí thu trong Thu ẩm, Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Có người tán: dòng thơ vỏn vẹn hai tiếng “đồng chí” được đặt vào giữa cái đoạn toàn những câu 7, hoặc 8 tiếng khiến cho bài Đồng chí của Chính Hữu đẹp tựa một “cô gái thắt đáy lưng ong”. Đến như Xuân Diệu cũng tán: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, ở giữa là các thanh bằng, “bến” và “khách” là hai thanh trắc vút lên ở hai đầu, thành ra câu thơ giống như con thuyền. Viết về Đặng Tiến, một người gốc Việt sống lâu năm bên Pháp, Hoàng Ngọc Hiến khái quát: “Cách phê bình thơ của Đặng Tiến chung quy lại vẫn là “diễn nghĩa”, “bàn góp”, “tán rộng” (…) Số phận của những người viết phê bình ở nước ta trở đi trở lại vẫn là ba cái trò: “diễn…”, “bàn…”, “tán…”. Hơn nhau là ở chỗ biết “diễn…”, biết “ bàn…”, biết “tán…”. Không biết “diễn” thì thành “diễn thuyết” dạy tác giả, độc giả, không biết “bàn” thì thành “bàn suông” hoặc “nói leo”, không biết “tán” thì thành “tán phét”” ( Xem: Tạp chí Nhà văn Việt Nam, ngày 19.6.2009).
Vẫn có thể tìm thấy ở ta những nhà phê bình tài hoa, “biết tán”, “biết diễn”, “biết bàn”. Nhưng số ấy ít lắm, đọc chỗ nào cũng chỉ gặp rặt những bài “tán” nhàm, “bình” nhạt, lại hay lên giọng dạy giỗ búa lớn đao to. Nói phê bình nghiệp dư đang phát triển tràn lan, chính là có cơ sở ở đó.