Triều Tiên được chia tại vĩ tuyến 38 thành hai khu vực ảnh hưởng. Miền Nam được quản lý bởi Hoa Kỳ. Miền Bắc, bởi Nga. Hòa bình khó chịu của chiến tranh lạnh bị tan vỡ vào tháng Sáu năm 1950 khi quân đội Bắc Triều Tiên xâm lược miền Nam. Mặc dầu ban đầu quân Bắc Triều Tiên đã tiến hành đột nhập lớn, chiếm thủ đô Seoul, vào mùa thu, họ đã rút lui hoàn toàn. Chính khi đó Hwang Poyŏng-Wŏn và anh trai của mình bị chia ly. Hwang Poyŏng-Wŏn đã tìm được cách để trốn và tránh bị tuyển vào quân đội Bắc Triều Tiên. Ông ở lại Seoul và làm như một dược sĩ. Anh ông, một bác sĩ làm việc ở Seoul chữa trị cho những người lính bị thương từ quân đội Nam Hàn, đã bị bắt về miền bắc khi quân Bắc Triều Tiên rút lui. Bị lôi tách khỏi nhau năm 1950, họ đã gặp lại năm 2000 ở Seoul lần đầu tiên trong năm mươi năm, sau khi hai chính phủ cuối đùng đã đồng ý để bắt đầu một chương trình hạn chế về đoàn tụ gia đình.
Với tư cách một bác sĩ, anh của Hwang Poyŏng-Wŏn đã làm việc cho không quân, một việc làm tốt trong một chế độ độc tài quân sự. Nhưng ngay cả những người với các đặc quyền ở Bắc Triều Tiên [cũng] không làm ăn khấm khá. Khi hai anh em gặp nhau, Hwang Poyŏng-Wŏn đã hỏi về cuộc sống ở bắc vĩ tuyến 38 thế nào. Ông có xe hơi, nhưng anh ông không có. “Anh có điện thọa không?” ông hỏi anh mình. “Không”, người anh nói. “Con gái anh, nó làm ở Bộ Ngoại giao, có một điện thoại, nhưng nếu không biết mã, thì không thể gọi được”. Hwang Poyŏng-Wŏn nhớ tất cả những người từ miền Bắc đã xin tiền thế nào, cho nên ông đưa một số tiền cho anh mình. Nhưng anh ông bảo, “Nếu anh mang tiền về chính phủ sẽ bảo, ‘Đưa số tiền đó cho chúng tôi’, cho nên em giữ lấy”. Hwang Poyŏng-Wŏn để ý thấy áo của anh mình bị sờn: “Anh cởi áo đó ra và bỏ lại đây, và khi anh về hãy mặc cái áo này,” ông gợi ý. “Anh không thể làm điều đó,” anh ông trả lời. “Cái áo này vừa mượn được từ chính phủ để đi đến đây.” Hwang Poyŏng-Wŏn nhớ lại khi họ chia tay, anh ông không thoải mái đến thế nào và luôn luôn lo lắng cứ như có ai đó đang nghe lén. Ông nghèo hơn mức Hwang Poyŏng-Wŏn đã tưởng tượng. Anh ông nói ông sống tốt, nhưng Hwang Poyŏng-Wŏn nghĩ ông nhìn đáng sợ và gầy như cây sậy.
Nhân dân Nam Hàn có mức sống tương tự như mức sống của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Về phía bắc, ở cái gọi là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, hay Bắc Triều Tiên, mức sống hơi giống mức sống của một nước châu Phi hạ-Sahara, khoảng một phần mười mức sống ở Nam Hàn. Sức khỏe của những người Bắc Triều Tiên thậm chí còn trong trạng thái tồi tệ hơn; người Bắc Triều Tiên có thể kỳ vọng sống mười năm ngắn hơn anh em họ của mình ở phía nam vĩ tuyến 38. Bản đồ 7 minh họa theo cách đầy kịch tính về khoảng cách kinh tế giữa hai miền Triều Tiên. Nó thể hiện số liệu về cường độ ánh sáng vào ban đêm từ các bức ảnh vệ tinh. Bắc Triều Tiên hầu như hoàn toàn đen thui do thiếu điện; Nam Hàn rực lên với ánh sáng.
Những khác biệt nổi bật này không phải là cổ xưa. Thực ra, chúng đã không tồn tại trước cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhưng sau 1945, các chính phủ khác nhau ở miền Bắc và miền Nam đã chọn theo những cách khác nhau để tổ chức nền kinh tế của họ. Nam Hàn được lãnh đạo, và các thể chế kinh tế và chính trị ban đầu của nó đã được định hình, bởi Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), một người được đào tạo tại [các đại học] Havard và Princeton và chống cộng kiên định, với sự ủng hộ đáng kể của Hoa Kỳ. Lý đã được bầu làm tổng thống năm 1948. Được rèn đúc giữa Chiến tranh Triều Tiên và chống lại mối đe dọa về chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía nam vĩ tuyến 38, Nam Hàn đã không là một nền dân chủ. Cả Lý lẫn người kế vị của ông, Park Chung Hee, nổi tiếng ngang như ông, đã đảm bảo các vị trí của họ trong lịch sử như các tổng thống chuyên quyền. Nhưng cả hai đã cai trị một nền kinh tế thị trường nơi quyền tài sản tư nhân được công nhận, và sau 1961 Park đã thực sự dùng sức mạnh và ảnh hưởng của nhà nước để ủng hộ sự tăng trưởng nhanh, hướng tín dụng và các khoản trợ cấp cho các hãng thành công.

Tình hình ở phía bắc vĩ tuyến 38 đã khác. Kim Nhật Thành (Kim Il-Sung), một nhà lãnh đạo của những người du kích cộng sản chống Nhật trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, đã xác lập mình như nhà độc tài vào năm 1947 và, với sự giúp đỡ của Liên Xô, đã đưa vào một dạng cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như một phần của cái gọi là hệ thống Juche [Tự lực]. Quyền tài sản tư nhân bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, và các thị trường bị cấm. Quyền tự do bị cắt bớt không chỉ trên thương trường, mà trong mọi lĩnh vực cuộc sống của những người Bắc Triều Tiên – trừ những người tình cờ thuộc thành phần của elite rất nhỏ cai trị xung quanh Kim Nhật Thành và, muộn hơn, xung quanh Kim Jong-Il, con ông và người thừa kế của ông.
Phải là không ngạc nhiên đối với chúng ta rằng vận may kinh tế của Nam và Bắc Triều Tiên đã rẽ theo các hướng khác nhau rõ rệt. Nền kinh tế chỉ huy và hệ thống Tự lực của Kim Nhật Thành chẳng bao lâu đã chứng tỏ là một thảm họa. Từ Bắc Triều Tiên không sẵn có những số liệu thống kê, mà là bí mật nhà nước, để nói giảm nhẹ nhất. Tuy nhiên, bằng chứng sẵn có xác nhận cái chúng ta biết từ các nạn đói xảy ra định kỳ quá thường xuyên: không chỉ sản xuất công nghiệp đã không cất cánh, mà thực ra Bắc Triều Tiên đã trải qua một sự sụp đổ về năng suất nông ngiệp. Thiếu quyền tài sản tư nhân đã có nghĩa rằng ít người có khuyến khích để đầu tư hay cố gắng để làm tăng hoặc thậm chí để duy trì năng suất. Chế độ bóp nghẹt, áp bức đã không thân thiện với đổi mới sáng tạo và thích nghi các công nghệ mới. Nhưng Kim Nhật Thành, Kim Jong-Il, và những cánh hẩu của họ đã không có ý định nào về cải cách hệ thống, hay đưa vào quyền tài sản tư nhân, thị trường, hợp đồng tư nhân, hoặc thay đổi các thể chế kinh tế và chính trị. Bắc Triều Tiên tiếp tục trì trệ về mặt kinh tế.
Trong khi đó, ở miền Nam, các thể chế kinh tế khích lệ đầu tư và thương mại. Các nhà chính trị Nam Hàn đã đầu tư vào giáo dục, đạt các tỷ lệ cao về [số người] biết đọc biết viết và đến trường. Các công ty Nam Hàn đã mau chóng tận dụng lợi thế dân cư được giáo dục tương đối, các chính sách khích lệ đầu tư và công nghiệp hóa, xuất khẩu và chuyển giao công nghệ. Nam Hàn mau chóng trở thành một trong những “Nền kinh tế Thần kỳ” của Đông Á, một trong những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Vào cuối các năm 1990, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, sự tăng trưởng Nam Hàn và sự trì trệ Bắc Triều Tiên đã dẫn đến một khoảng cách mười lần giữa hai nửa của đất nước một thời thống nhất này – hãy tưởng tượng sự chênh lệch đến thế nào mà vài thế kỷ có thể tạo ra. Thảm họa kinh tế của Bắc Triều Tiên, mà đã dẫn đến sự chết đói của hàng triệu người, khi đặt đối diện với thành công kinh tế của Nam Hàn, gây ấn tượng sâu sắc: không phải văn hóa, chẳng phải địa lý, cũng chẳng phải sự dốt nát có thể giải thích các con đường rẽ theo các hướng hoàn toàn khác nhau của Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Chúng ta phải ngó tới các thể chế để có một câu trả lời.
CÁC THỂ CHẾ KINH TẾ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Các nước khác nhau về thành công kinh tế của họ bởi vì các thể chế khác nhau của họ, các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động như thế nào, và các khuyến khích làm động cơ thúc đẩy người dân. Hãy tưởng tượng những người vị thành niên ở Bắc Triều Tiên và Nam Hàn và họ kỳ vọng gì từ cuộc sống. Những người ở miền Bắc trưởng thành trong nghèo khó, mà không có sáng kiến khởi nghiệp kinh doanh, tính sáng tạo hay sự giáo dục thỏa đáng để chuẩn bị họ cho việc làm cần đến kỹ năng. Phần lớn sự giáo dục mà họ nhận được ở trường học là sự tuyên truyền thuần túy, với ý định trụ đỡ cho sự hợp pháp của chế độ; có ít sách, nói chi đến máy tính. Sau khi học xong, mọi người phải vào quân đội mười năm. Các vị thành niên này biết rằng họ sẽ không có khả năng để sở hữu tài sản, bắt đầu một doanh nghiệp, hay trở nên thịnh vượng hơn cho dù nhiều người tiến hành các hoạt động kinh tế bất hợp pháp để kiếm sống. Họ cũng biết rằng họ không có sự tiếp cận hợp pháp đến các thị trường nơi họ có thể sử dụng các năng khiếu của mình hay thu nhập của mình để mua các hàng hóa mà họ cần hay mong muốn. Họ thậm chí còn không chắc chắn về loại quyền con người nào họ sẽ có.
Các vị thành niên ở miền Nam nhận được giáo dục tốt, đối mặt với các khuyến khích cổ vũ chúng cố gắng và vượt trội trong nghề nghiệp mà họ chọn. Nam Hàn là một nền kinh tế thị trường, dựa trên quyền tài sản tư nhân. Các vị thành niên Nam Hàn biết, nếu thành công với tư cách doanh nhân hay người lao động, rồi một ngày họ có thể tận hưởng thành quả của các khoản đầu tư và nỗ lực của họ; họ có thể cải thiện mức sống của mình, mua xe hơi, nhà và chăm sóc sức khỏe.
Ở miền Nam nhà nước ủng hộ hoạt động kinh tế. Cho nên là có thể đối với các doanh nhân để vay tiền từ các ngân hàng và các thị trường tài chính, đối với các công ty nước ngoài để tham gia chung phần với các hãng Nam Hàn, đối với các cá nhân để lấy các khoản vay thế chấp để mua nhà. Ở miền Nam, nhìn chung, bạn được tự do mở bất cứ doanh nghiệp nào bạn thích. Ở miền Bắc, bạn không được. Ở miền Nam, bạn có thể thuê lao động, bán sản phẩm hay dịch vụ của mình, tiêu tiền của mình trên thương trường theo bất cứ cách nào bạn muốn. Ở miền Bắc, chỉ có các thị trường chợ đen. Các quy tắc khác nhau này là các thể chế mà dưới chúng những người Bắc Triều Tiên và Nam Hàn sống.
Các thể chế kinh tế bao gồm [inclusive], ví dụ như các thể chế ở Nam Hàn hay ở Hoa Kỳ, là các thể chế mà cho phép và khuyến khích sự tham gia của đông đảo người dân vào các hoạt động kinh tế, mà lợi dụng tốt nhất tài năng và kỹ năng của họ và cho phép các cá nhân đưa ra các lựa chọn họ muốn. Để là bao gồm, các thể chế kinh tế phải đề cao quyền tài sản tư nhân an toàn, một hệ thống luật pháp không thiên vị, và một sự cung ứng các dịch vụ công mà tạo ra một sân chơi bằng phẳng trong đó người dân có thể trao đổi và [thỏa thuận, ký kết] hợp đồng; nó cũng phải cho phép sự gia nhập của các doanh nghiệp mới và cho phép người dân lựa chọn sự nghiệp của mình.
SỰ TƯƠNG PHẢN của Nam và Bắc Triều Tiên, và của Hoa Kỳ và Mỹ Latin, minh họa một nguyên lý chung. Các thể chế kinh tế bao gồm khuyến khích hoạt động kinh tế, sự tăng năng suất, và sự thịnh vượng kinh tế. Các quyền tài sản tư nhân an toàn là chính yếu, bởi vì chỉ những người với các quyền như vậy mới sẽ sẵn sàng đầu tư và tăng năng suất. Một nhà doanh nghiệp người kỳ vọng đầu ra của mình bị ăn cắp, bị tước đoạt, hay bị đánh thuế hết sẽ có ít khuyến khích để làm việc, nói chi đến bất cứ khuyến khích nào để cam kết tiến hành đầu tư và đổi mới. Nhưng các quyền như vậy phải có cho đa số người dân trong xã hội.
Vào năm 1680 chính phủ Anh đã tiến hành một cuộc điều tra dân số ở thuộc địa Tây Ấn của nó, ở Barbados. Cuộc điều tra dân số tiết lộ rằng trong tổng số cư dân vào khoảng 60.000 người của hòn đảo, thì 39.000 người là các nô lệ Phi châu những người đã là tài sản của một phần ba dân cư còn lại. Thực ra, hầu hết họ đã là tài sản của 175 chủ đồn điền mía lớn nhất, những người cũng sở hữu phần lớn đất đai. Các chủ đồn điền lớn này đã có các quyền tài sản tư nhân an toàn và được thực thi tốt đối với đất của họ thậm chí đối với các nô lệ của họ. Nếu một chủ đồn điền đã muốn bán nô lệ cho chủ khác, ông ta đã có thể làm vậy và kỳ vọng tòa án để thực thi một việc bán như vậy hay bất cứ hợp đồng khác nào mà ông đã ký. Vì sao? Trong số bốn mươi thẩm phán và thẩm phán trị an trên đảo, có hai mươi chín là chủ đồn điền lớn. Hơn nữa, tất cả tám sĩ quan quân đội cao cấp nhất đều là các chủ đồn điền lớn. Bất chấp các quyền tài sản tư nhân và các hợp đồng an toàn, được xác định rõ, được thực thi tốt cho elite của đảo, Barbados đã không có các thể chế kinh tế bao gồm, bởi vì hai phần ba dân số đã là nô lệ mà không có sự tiếp cận nào đến giáo dục hay đến các cơ hội kinh tế, và không có khả năng hay các khuyến khích để sử dụng tài năng và kỹ năng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi các quyền tài sản tư nhân an toàn và các cơ hội kinh tế không chỉ cho elite mà cả cho một bộ phận rộng lớn của xã hội.
Các quyền tài sản an toàn, luật, các dịch vụ công, và quyền tự do hợp đồng và trao đổi, tất cả đều dựa vào nhà nước, thể chế với năng lực cưỡng chế để áp đặt trật tự, ngăn chặn trộm cắp và gian lận, thực thi các hợp đồng giữa các bên tư nhân. Để hoạt động tốt, xã hội cũng cần các dịch vụ công: đường sá và mạng lưới giao thông để có thể vận chuyển hàng hóa; một hạ tầng cơ sở công sao cho hoạt động kinh tế có thể hưng thịnh; và loại nào đó của sự điều tiết, của quy chế để ngăn chặn gian lận và hành động bất lương. Mặc dù nhiều trong số các dịch vụ công này có thể được cung cấp bởi các thị trường và các công dân tư nhân, mức độ điều phối cần thiết để làm vậy trên quy mô lớn thường vượt quá [khả năng của] tất cả trừ một nhà chức trách trung ương. Như vậy nhà nước đan xen một cách không lay chuyển được vào các thể chế kinh tế, với tư cách người thực thi luật pháp và trật tự, tài sản và các hợp đồng tư nhân, và thường với tư cách nhà cung cấp chủ chốt của các dịch vụ công. Các thể chế kinh tế bao gồm cần đến và sử dụng nhà nước.
Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên hay của Mỹ Latin thuộc địa – các mita, ecomienda, hoặc repartimiento được mô tả trước đây – không có các tính chất này. Quyền tài sản tư nhân không tồn tại ở Bắc Triều Tiên. Ở Mỹ Latin thuộc địa, đã có tài sản tư nhân cho người Tây Ban Nha, nhưng tài sản của người bản địa đã rất không an toàn. Cả trong hai loại xã hội này số đông quần chúng nhân dân đã không thể đưa ra các quyết định kinh tế mà họ muốn; họ đã phải chịu sự cưỡng bức hàng loạt. Trong cả hai loại xã hội, sức mạnh của nhà nước đã không được dùng để tạo ra các dịch vụ công then chốt, thúc đẩy sự thịnh vượng. Ở Bắc Triều Tiên, nhà nước đã xây dựng một hệ thống trường học để khắc sâu sự tuyên truyền, nhưng đã không có khả năng ngăn chặn nạn đói. Ở Mỹ Latin thuộc địa, nhà nước đã chú tâm vào cưỡng bức dân bản địa. Trong cả hai loại xã hội, đã không có sân chơi bình đẳng hay một hệ thống pháp lý không thiên vị. Ở Bắc Triều Tiên, hệ thống pháp lý là cánh tay của Đảng Cộng sản, và ở Mỹ Latin nó đã là một công cụ phân biệt đối xử chống lại quần chúng nhân dân. Chúng ta gọi các thể chế như vậy, mà có các tính chất ngược lại với tính chất của các thể chế mà chúng ta đã gọi là các thể chế bao gồm, là các thể chế kinh tế khai thác (extractive) – khai thác bởi vì các thể chế như vậy được thiết kể để vắt, chiết, khai thác thu nhập và của cải từ một tập hợp con của xã hội để làm lợi cho một tập con khác.
CÁC ĐỘNG CƠ CỦA SỰ THỊNH VƯỢNG
Các thể chế kinh tế bao gồm tạo ra các thị trường bao gồm, mà không chỉ trao cho người dân quyền tự do để theo đuổi nghề nghiệp phù hợp nhất với tài năng của họ trong cuộc sống mà cũng tạo ra một sân chơi bằng phẳng tạo cho họ cơ hội để làm vậy. Những người có các ý tưởng hay sẽ có khả năng khởi tạo các doanh nghiệp, những người lao động có xu hướng đi làm các công việc nơi năng suất của họ lớn hơn, và các hãng kém hiệu quả có thể được thay bằng các hãng hiệu quả hơn. Đối sánh việc người dân chọn nghề nghiệp của mình thế nào dưới các thị trường bao gồm so với Peru và Bolivia thuộc địa, nơi dưới mita, nhiều người đã bị cưỡng ép làm việc tại các mỏ bạc và thủy ngân, bất chấp kỹ năng của họ hay liệu họ có muốn hay không. Các thị trường bao gồm không chỉ là các thị trường tự do. Barbados trong thế kỷ mười bảy cũng đã có các thị trường. Nhưng theo cùng cách mà nó đã thiếu các quyền tài sản tư nhân cho tất cả trừ elite chủ đồn điền hạn hẹp, các thị trường của nó còn xa mới bao gồm; các thị trường về nô lệ thực ra đã là một phần của các thể chế kinh tế cưỡng bức một cách có hệ thống đa số dân cư và cướp đoạt mất của họ khả năng để chọn nghề nghiệp và cách họ sử dụng tài năng của mình.
Các thể chế kinh tế bao gồm cũng mở đường cho hai động cơ khác của sự thịnh vượng: công nghệ và giáo dục. Tăng trưởng kinh tế bền vững hầu như luôn luôn đi cùng với những cải thiện công nghệ mà cho phép người dân (lao động), đất đai, và vốn hiện tồn (nhà, máy móc hiện hành, và vân vân) trở nên hiệu quả hơn. Hãy nghĩ về các cụ các kỵ của chúng ta, vừa hơn một thế kỷ trước, những người đã không tiếp cận được đến máy bay, ô tô, hay hầu hết các tân dược và chăm sóc sức khỏe mà bây giờ chúng ta coi là nghiễm nhiên, không nhắc đến hệ thống ống nước trong nhà, điều hòa nhiệt độ, siêu thị, radio, hay phim ảnh; nói chi đến công nghệ thông tin, máy móc tự động, hay máy móc điều khiển bằng máy tính. Và lùi thêm vài thế hệ nữa, know-how công nghệ và mức sống còn thậm chí lạc hậu hơn, nhiều đến mức chúng ta thấy khó để tưởng tượng hầu hết người dân đã vật lộn với cuộc sống như thế nào. Những cải thiện này xảy ra như kết quả từ khoa học và từ các doanh nhân như Thomas Edison, những người đã áp dụng khoa học để tạo ra các doanh nghiệp sinh lời. Cái đã khiến cho quá trình này của đổi mới sáng tạo trở nên có thể, là các thể chế kinh tế cổ vũ tài sản tư nhân, ủng hộ các hợp đồng, tạo ra sân chơi bằng phẳng, và khuyến khích và cho phép các doanh nghiệp mới có thể đưa các công nghệ mới vào cuộc sống. Vì thế không ngạc nhiên rằng xã hội Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico hay Peru, là xã hội đã tạo ra Thomas Edison, và rằng Nam Hàn, chứ không phải Bắc Triều Tiên, tạo ra các công ty đổi mới về mặt công nghệ như như Samsung và Hyundai ngày nay.
Gắn mật thiết với công nghệ là giáo dục, các kỹ năng, năng lực, và know-how của lực lượng lao động, kiếm được trong các trường, ở nhà, và ở nơi làm việc. Chúng ta hiệu quả hơn một thế kỷ trước hết sức nhiều không chỉ bởi vì công nghệ tốt hơn được chứa đựng trong các máy móc mà cũng bởi vì know-how lớn hơn mà những người lao động có được. Tất cả công nghệ trên thế giới sẽ có ít ích lợi nếu không có những người lao động biết làm cho nó hoạt động thế nào. Nhưng có nhiều kỹ năng và năng lực hơn khả năng đơn thuần để vận hành máy móc. Chính là giáo dục và các kỹ năng của lực lượng lao động là cái tạo ra tri thức khoa học mà dựa vào đó sự tiến bộ của chúng ta được dựng nên và là cái cho phép sự thích nghi và sự chấp nhận làm theo các công nghệ này trong các ngành kinh doanh khác nhau. Mặc dù chúng ta đã thấy trong chương 1 rằng nhiều nhà đổi mới sáng tạo, như Thomas Edison, đã không học cao, các đổi mới đó đã đơn giản hơn công nghệ hiện đại rất nhiều. Ngày nay sự thay đổi công nghệ đòi hỏi giáo dục cả cho các nhà đổi mới lẫn cho người lao động. Và ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng của các thể chế kinh tế mà tạo ra sân chơi bằng phẳng. Hoa Kỳ có thể tạo ra, hay thu hút từ các nước ngoài, những người giống như Bill Gates, Steve Jobs, Sergey Brin, Larry Page, và Jeff Bezos, và hàng trăm nhà khoa học những người đã thực hiện các phát minh cơ bản trong công nghệ thông tin, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, và các lĩnh vực khác mà dựa vào đó các doanh nhân khởi nghiệp này đã xây dựng các doanh nghiệp của mình. Cung tài năng có ở đó để được khai thác bởi vì các vị thành niên ở Hoa Kỳ có sự tiếp cận đến nhiều việc học ở trường như họ muốn hay họ có khả năng theo học. Bây giờ hãy tưởng tượng một xã hội khác, thí dụ Congo hoặc Haiti, nơi phần lớn dân cư không có phương tiện nào để theo học ở trường, hoặc nơi, nếu họ tìm được cách để đến trường, chất lượng dạy là thảm hại, nơi các giáo viên không có mặt để dạy, và cho dù họ có, có thể không có cuốn sách nào.
Mức giáo dục thấp của các nước nghèo bị gây ra bởi các thể chế kinh tế mà không tạo ra các khuyến khích cho cha mẹ để giáo dục con em mình, và bởi các thể chế chính trị mà không xui khiến chính phủ để xây dựng, cấp tài chính, và hỗ trợ các trường và mong ước của cha mẹ và trẻ em. Cái giá, mà các quốc gia này phải trả cho mức giáo dục thấp của dân cư của họ và cho sự thiếu các thị trường bao gồm, là cao. Họ không động viên được tài năng mới sinh của họ. Họ có nhiều Bill Gates tiềm năng và có lẽ một hay hai Albert Einsteins những người đang làm việc như các nông dân nghèo, không được học hành, bị ép làm những việc họ không muốn làm hay bị tuyển vào quân đội, bởi vì họ đã chẳng bao giờ có cơ hội để thực hiện năng khiếu của họ trong đời.
Khả năng của các thể chế kinh tế để khai thác tiềm năng của các thị trường bao gồm, khuyến khích đổi mới công nghệ, đầu tư vào con người, và động viên tài năng và kỹ năng của số đông cá nhân là cốt yếu cho tăng trưởng kinh tế. Giải thích vì sao rất nhiều thể chế kinh tế không thỏa mãn các mục tiêu đơn giản này là chủ đề trung tâm của cuốn sách này.
CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Tất cả các thể chế kinh tế được tạo ra bởi xã hội. Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên, chẳng hạn, được áp đặt lên các công dân bởi những người cộng sản, những người đã tiếp quản đất nước trong các năm 1940, trong khi các thể chế kinh tế của Mỹ Latin được áp đặt bởi những kẻ chinh phục Tây Ban Nha. Nam Hàn đã kết thúc với các thể chế kinh tế rất khác với miền Bắc bởi vì những người khác với các lợi ích và mục tiêu khác đã đưa ra các quyết định về tổ chức xã hội thế nào. Nói cách khác, Nam Hàn đã có một nền chính trị khác.
Chính trị là một quá trình theo đó một xã hội chọn ra các quy tắc mà sẽ chi phối nó. Chính trị bao quanh các thể chế vì lý do đơn giản rằng trong khi các thể chế bao gồm có thể là tốt cho sự thịnh vượng của một quốc gia, một số người hay nhóm, chẳng hạn elite của Đảng Cộng sản ở Bắc Triều Tiên hay các chủ đồn điền mía của Barbados thuộc địa, sẽ khấm khá hơn rất nhiều bằng cách dựng lên các thể chế mà là các thể chế khai thác. Khi có sự xung đột về các thể chế, cái gì xảy ra sẽ phụ thuộc vào những người nào hay các nhóm nào chiến thắng trong trò chơi chính trị – ai có thể kiếm được nhiều sự ủng hộ, nhận được các nguồn lực thêm, và tạo được các liên minh hữu hiệu hơn. Tóm lại, ai thắng phụ thuộc vào phân bố quyền lực chính trị trong xã hội.
Các thể chế chính trị của một xã hội là chìa khóa quyết định kết quả của trò chơi này. Chúng là các quy tắc chi phối các khuyến khích trong chính trị. Chúng xác định việc chính phủ được chọn thế nào và phần nào của chính phủ có quyền làm những gì. Các thể chế chính trị xác định ai có quyền lực trong xã hội và quyền lực đó có thể được sử dụng cho các mục đích nào. Nếu sự phân bố quyền lực là hẹp và không bị ràng buộc, thì các thể chế chính trị là chuyên chế (absolutist), như được minh họa bởi các các nền quân chủ chuyên chế trị vì trên khắp thế giới trong phần lớn lịch sử. Dưới các thể chế chính trị chuyên chế như ở Bắc Triều Tiên và Mỹ Latin thuộc địa, những người có thể nắm quyền lực này sẽ có khả năng đặt ra các thể chế kinh tế để làm giàu cho chính họ và làm tăng quyền lực của họ gây phí tổn cho xã hội. Ngược lại, các thể chế chính trị mà phân phối quyền lực rộng rãi trong xã hội và bắt nó phải chịu các ràng buộc, là các thể chế đa nguyên. Thay cho việc được trao cho một cá nhân duy nhất hay một nhóm hẹp, quyền lực chính trị thuộc về một liên minh rộng hay một đa số của các nhóm.
Rõ ràng có một mối quan hệ mật thiết giữa chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và các thể chế kinh tế bao gồm. Nhưng chìa khóa cho sự hiểu vì sao Nam Hàn và Hoa Kỳ có các thể chế kinh tế bao gồm không chỉ là các thể chế chính trị đa nguyên của chúng mà cũng là các nhà nước tập trung đủ và hùng mạnh của chúng. Một sự tương phản đích đáng là quốc gia Đông Phi, Somalia. Như chúng ta sẽ thấy muộn hơn trong cuốn sách này, quyền lực chính trị ở Somalia từ lâu đã được phân phối rộng rãi – hầu như đa nguyên. Thực vậy không có nhà chức trách trung ương nào mà có thể kiểm soát hay cho phép cái bất cứ ai làm. Xã hội bị chia rẽ thành các thị tộc đối kháng sâu sắc mà không thể thống trị lẫn nhau. Quyền lực của một thị tộc chỉ bị ràng buộc bởi súng của thị tộc khác. Sự phân bổ quyền lực này dẫn không đến các thể chế bao gồm, mà đến hỗn loạn, và ở gốc rễ của nó là nhà nước Somalia thiếu bất cứ sự tập trung hóa chính trị hay sự tập trung hóa nhà nước nào, và sự bất lực của nó để thực thi ngay cả mức tối thiểu của luật pháp và trật tự để ủng hộ hoạt động kinh tế, thương mại, hay thậm chí sự an toàn cơ bản của các công dân của nó.
Max Weber, người chúng ta đã gặp trong chương trước, đã cung cấp một định nghĩa nổi tiếng và được chấp nhận rộng rãi về nhà nước, đồng nhất nó với “độc quyền về bạo lực hợp pháp” trong xã hội. Không có sự độc quyền như vậy và một mức độ tập trung hóa mà nó cần phải có, nhà nước không thể đóng vai trò của nó với tư cách người thực thi pháp luật và trật tự, chưa kể đến cung cấp các dịch vụ công và cổ vũ và điều tiết hoạt động kinh tế. Khi nhà nước không đạt hầu như bất cứ sự tập trung hóa chính trị nào, thì xã hội sớm muộn sẽ sa đọa vào hỗn loạn, như Somalia đã sa vào.
Chúng ta sẽ nói đến các thể chế chính trị mà đủ tập trung và đa nguyên như các thể chế chính trị bao gồm. Khi một trong hai điều kiện này không thỏa mãn, chúng ta nói đến các thể chế như các thể chế chính trị khai thác.
Có sự đồng vận [synergy] mạnh giữa các thể chế kinh tế và chính trị. Các thể chế chính trị khai thác tập trung quyền lực vào tay một elite hẹp và đặt ít ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực này. Các thể chế kinh tế sau đó thường được tổ chức bởi elite này để khai thác các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội. Các thể chế kinh tế khai thác như thế đi cùng một cách tự nhiên với các thể chế chính trị khai thác. Thực ra, chúng phải phụ thuộc một cách cố hữu vào các thể chế chính trị khai thác cho sự sống sót của chúng. Các thể chế chính trị bao gồm trao quyền lực một cách rộng rãi, sẽ có xu hướng nhổ bật rễ các thể chế kinh tế mà tước đoạt nguồn lực của nhiều người, dựng các rào cản gia nhập, và ngăn hoạt động của các thị trường sao cho chỉ một số ít được hưởng lợi.
Ở Barbados, chẳng hạn, hệ thống đồn điền dựa trên sự bóc lột nô lệ đã không thể sống sót mà không có các thể chế chính trị ngăn và loại trừ hoàn toàn các nô lệ khỏi các quá trình chính trị. Hệ thống kinh tế gây nghèo khó cho hàng triệu người vì lợi ích của một elite cộng sản hẹp ở Bắc Triều Tiên cũng không thể tưởng tượng được mà không có sự thống trị chính trị hoàn toàn của Đảng Cộng Sản.
Mối quan hệ đồng vận [synergistic] này giữa các thể chế kinh tế khai thác và các thể chế chính trị khai thác tạo ra một vòng phản hồi mạnh: các thể chế chính trị cho phép elite kiểm soát quyền lực chính trị để chọn các thể chế kinh tế với ít ràng buộc hay ít lực lượng chống đối. Chúng cũng cho phép elite tổ chức các thể chế chính trị tương lai và sự tiến hóa của chúng. Các thể chế kinh tế khai thác, đến lượt mình, làm giàu cho cùng elite, và sự giàu có và quyền lực kinh tế củng cố sự thống trị chính trị của họ. Ở Barbados hay ở Mỹ Latin, chẳng hạn, các nhà thực dân đã có khả năng sử dụng quyền lực chính trị của họ để áp đặt một tập các thể chế kinh tế khiến cho họ kiếm được các gia tài kếch xù với sự tổn hại của phần còn lại của dân cư. Những nguồn lực mà các thể chế kinh tế này tạo ra đã cho phép những elite này xây dựng các quân đội và các lực lượng an ninh để bảo vệ sự độc quyền tuyệt đối của họ về quyền lực chính trị. Hệ lụy dĩ nhiên là, các thể chế chính trị khai thác và các thể chế kinh tế khai thác ủng hộ lẫn nhau và có xu hướng tồn tại dai dẳng.
Thực ra, có nhiều hơn sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và chính trị khai thác. Khi các elite hiện tồn bị thách thức dưới các thể chế chính trị khai thác và những người mới đến thắng, những người mới đến cũng thế chỉ phải đối mặt với ít ràng buộc, Như vậy họ có các khuyến khích để duy trì các thể chế chính trị này và tạo ra một tập tương tự của các thể chế kinh tế, như Porfirio Díaz và elite xung quanh ông đã làm vào cuối thế kỷ mười chín ở Mexico.
Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt, được rèn đúc trên nền tảng được xây bởi các thể chế chính trị bao gồm, mà khiến cho quyền lực được phân phối rộng trong xã hội và kiềm chế việc sử dụng tùy tiện nó. Các thể chế chính trị như vậy cũng làm cho việc những người khác chiếm đoạt quyền lực và làm xói mòn nền tảng của các thể chế bao gồm trở nên khó hơn. Những người kiểm soát quyền lực chính trị không thể dễ dàng sử dụng nó để dựng lên các thể chế kinh tế khai thác cho lợi ích riêng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt mình, tạo ra một sự phân bổ nguồn lực công bằng hơn, tạo thuận lợi cho sự bền bỉ của các thể chế chính trị bao gồm.
Đã không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng vào năm 1618, khi Công ty Virginia đã trao đất cho, và đã giải phóng các nhà thuộc địa, mà trước đó nó đã thử cưỡng bức, khỏi các hợp đồng hà khắc của họ, và Đại Hội Đồng trong năm tiếp theo đã cho phép các nhà thuộc địa để bắt đầu cai quản chính họ. Các quyền kinh tế mà không có các quyền chính trị không được các nhà thuộc địa tin cậy, những người đã thấy các nỗ lực kiên trì của Công ty Virginia để cưỡng bức họ. Các nền kinh tế này cũng đã chẳng ổn định và lâu bền. Thực ra, những sự kết hợp của các thể chế khai thác và các thể chế bao gồm nói chung không ổn định. Các thể chế kinh tế khai thác dưới các thể chế chính trị bao gồm không chắc sống sót trong thời gian dài, như thảo luận của chúng ta về Barbados gợi ý.
Tương tự, các thể chế kinh tế bao gồm sẽ không được ủng hộ và cũng đã chẳng được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác. Hoặc chúng sẽ biến thành các thể chế kinh tế khai thác làm lợi cho các nhóm lợi ích hẹp nắm quyền, hoặc động học kinh tế mà chúng tạo ra sẽ gây bất ổn cho các thể chế chính trị khai thác, mở đường cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao gồm cũng có xu hướng làm giảm các lợi ích mà elite có thể hưởng bằng thống trị các thể chế chính trị khai thác, vì các thể chế đó đối mặt với cạnh tranh trên thương trường và bị ràng buộc bởi các hợp đồng và các quyền tài sản của phần còn lại của xã hội.
VÌ SAO KHÔNG LUÔN LUÔN CHỌN SỰ THỊNH VƯỢNG?
Các thể chế chính trị và kinh tế, mà rốt cuộc là các lựa chọn của xã hội, có thể là bao gồm và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế. Hoặc chúng có thể là khai thác và trở thành những vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia thất bại khi chúng có các thể chế kinh tế khai thác, được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác mà cản trở và thậm chí chặn sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng điều này có nghĩa rằng sự lựa chọn các thể chế – tức là, chính trị học về các thể chế – là cốt yếu cho sự tìm kiếm của chúng ta để hiểu các lý do cho thành công và thất bại của các quốc gia. Chúng ta phải hiểu vì sao chính trị của một số xã hội đã dẫn đến các thể chế bao gồm mà cổ vũ tăng trưởng kinh tế, trong khi chính trị của đại đa số các xã hội trong suốt lịch sử đã dẫn đến, và ngày nay vẫn dẫn đến, các thể chế kinh tế mà cản trở tăng trưởng kinh tế.
Có thể có vẻ hiển nhiên rằng mọi người đều có lợi ích trong việc tạo ra loại thể chế kinh tế mà sẽ mang lại sự thịnh vượng. Chẳng phải mọi công dân, mọi chính trị gia, và thậm chí một nhà độc tài cướp bóc đã đều muốn làm cho nước mình càng giàu càng tốt?
Hãy quay lại Vương quốc Kongo mà chúng ta đã thảo luận trước đây. Mặc dù vương quốc này đã sụp đổ trong thế kỷ mười bảy, nó đã cho cái tên cho một nước hiện đại mà đã trở nên độc lập khỏi sự cai trị thuộc địa Bỉ năm 1960. Với tư cách một chính thể độc lập, Congo đã trải qua sự sa sút kinh tế hầu như không bị gián đoạn và sự nghèo khó gia tăng dưới sự cai trị của Joseph Mobutu giữa 1965 và 1997. Sự sa sút này đã tiếp tục sau khi Mobutu bị Laurent Kabila lật đổ. Mobutu đã tạo ra một tập của các thể chế kinh tế khai thác hết sức. Các công dân bị bần cùng hóa, nhưng Mobutu và elite quanh ông ta, được biết đến như Les Grosses Légumes (các Quan to), đã trở nên cực kỳ giàu có. Mobutu đã xây dựng cho mình một lâu đài ở quê nơi ông sinh, Gbadolite, ở miền bắc, với một sân bay đủ lớn để máy bay phản lực siêu thanh Concord hạ cánh, máy bay mà ông thường thuê từ Hãng Hàng không Pháp, Air France, cho việc đi châu Âu. Ở châu Âu ông đã mua các lâu đài và sở hữu các dải đất lớn của Brussells, thủ đô Bỉ.
Chẳng phải đã tốt hơn cho Mobutu để dựng lên các thể chế mà làm tăng của cải của những người Congo hơn là khoét sâu sự nghèo khó của họ? Nếu giả như Mobutu đã xoay xở để làm tăng sự thịnh vượng của quốc gia mình, chẳng phải ông ta đã có thể tước đoạt còn nhiều tiền hơn, mua một máy bay Concord thay cho thuê một chiếc, có nhiều nhà lớn và lâu đài hơn, có lẽ một quân đội lớn hơn và hùng mạnh hơn? Đáng tiếc đối với công dân của nhiều quốc gia trên thế giới, câu trả lời là không. Các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cho tiến bộ kinh tế có thể đồng thời tái phân phối thu nhập và quyền lực theo một cách mà kẻ độc tài cướp bóc và những kẻ khác có quyền lực chính trị có thể trở nên tệ hơn, chứ không phải khá hơn.
Vấn đề cơ bản là, sẽ nhất thiết có những tranh cãi và xung đột về các thể chế kinh tế. Các thể chế khác nhau có các hệ quả khác nhau đối với sự thịnh vượng của quốc gia, sự thịnh vượng đó được phân phối thế nào, và ai có quyền lực. Tăng trưởng kinh tế, do các thể chế có thể mang lại, tạo ra cả những người thắng và những kẻ thua. Điều này đã là rõ trong Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh, mà đã đặt nền móng của sự thịnh vượng chúng ta thấy ở các nước giàu của thế giới ngày nay. Nó đã tập trung vào một loạt những thay đổi công nghệ mở đường trong sức hơi nước, giao thông, và sản xuất hàng dệt. Cho dù cơ khí hóa đã dẫn đến sự tăng khổng lồ về thu nhập và cuối cùng đã trở thành nền tảng của xã hội công nghiệp hiện đại, nó đã bị phản đối kịch liệt bởi nhiều người. Không phải bởi vì sự dốt nát hay sự thiển cận; hoàn toàn ngược lại. Đúng hơn, sự phản đối tăng trưởng kinh tế như vậy, đáng tiếc, có logic riêng của nó. Tăng trưởng kinh tế và thay đổi công nghệ luôn đi cùng với cái mà nhà kinh tế học vĩ đại Joseph Schumpeter đã gọi là sự phá hủy sáng tạo. Chúng thay cái cũ bằng cái mới. Các khu vực mới thu hút nguồn lực từ các khu vực cũ. Các hãng mới lấy mất công việc kinh doanh của các hãng đã được xác lập. Các công nghệ mới làm cho các kỹ năng và các máy móc hiện hành trở nên lỗi thời. Quá trình tăng trưởng kinh tế và các thể chế kinh tế bao gồm mà sự tăng trưởng dựa vào, tạo ra những người thua cũng như những kẻ thắng trên chính trường và trên thương trường. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo thường nằm ở gốc rễ của sự chống đối các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm.
Lịch sử Âu châu cho một thí dụ sinh động về các hậu quả của sự phá hủy sáng tạo. Vào trước Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ mười tám, các chính phủ của hầu hết các nước Âu châu đã được kiểm soát bởi các giới quý tộc và elite truyền thống, mà nguồn thu nhập chính của họ đã từ việc làm chủ đất hoặc từ các đặc quyền buôn bán mà họ được hưởng nhờ sự độc quyền được ban cho và các rào cản tham gia được áp đặt bởi các quốc vương. Phù hợp với ý tưởng về sự phá hủy sáng tạo, sự mở rộng của các ngành công nghiệp, các nhà máy, và các thị trấn đã lấy đi các nguồn lực từ đất, đã làm giảm tiền thuê [tô] đất, đã làm tăng lương mà các địa chủ phải trả cho những người làm công của họ. Các elite này cũng đã thấy sự nổi lên của các nhà kinh doanh và thương gia mới làm xói mòn các đặc quyền buôn bán của họ. Xét về mọi mặt, họ đã là những người thua thiệt kinh tế rõ ràng do công nghiệp hóa. Việc đô thị hóa và sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu và lao động có ý thức về mặt xã hội cũng đã thách thức độc quyền chính trị của các giới quý tộc có nhiều đất. Như thế với sự mở rộng của Cách mạng Công nghiệp, các giới quý tộc đã không chỉ là những kẻ thua về mặt kinh tế; họ cũng còn bị rủi ro trở thành những kẻ thua về mặt chính trị, mất ảnh hưởng của họ lên quyền lực chính trị. Với quyền lực kinh tế và chính trị của họ bị đe dọa, các elite này thường đã tạo ra sự chống đối ghê gớm chống lại công nghiệp hóa.
Tầng lớp quý tộc đã không phải là người thua duy nhất từ công nghiệp hóa. Các thợ thủ công, mà các kỹ năng chân tay của họ được thay thế bằng cơ giới hóa, tương tự cũng đã chống sự mở rộng công nghiệp. Nhiều người đã tổ chức chống lại nó, náo loạn và phá hủy máy móc mà họ coi là chịu trách nhiệm về sự sụt giảm sinh kế của họ. Họ đã là các Luddite, một từ mà ngày nay trở thành đồng nghĩa với chống đối thay đổi công nghệ. John Key, nhà sáng chế Anh của “chiếc thoi bay” trong năm 1733, một trong những cải thiện đáng kể trong cơ giới hóa dệt vải, nhà của ông đã bị các Luddite đốt trong năm 1753. James Hargreaves, nhà sáng chế của “spinning jenny-máy kéo sợi cơ khí”, một cải thiện bổ sung mang tính cách mạng trong xe sợi, đã nhận được sự đối xử tương tự.
Trên thực tế, các thợ thủ công đã ít hiệu quả hơn các địa chủ và các elite rất nhiều trong chống lại công nghiệp hóa. Các Luddite đã không có quyền lực chính trị – khả năng để ảnh hưởng đến các kết quả chính trị chống lại mong muốn của các nhóm khác – của giới quý tộc có nhiều đất. Ở Anh, công nghiệp hóa đã tiến bước, bất chấp sự chống đối của các Luddite, bởi vì sự chống đối của giới quý tộc, tuy thực, đã câm lặng. Ở các đế chế Áo-Hung và Nga, nơi các quốc vương chuyên quyền và các quý tộc đã có thể mất nhiều hơn rất nhiều, công nghiệp hóa đã bị chặn. Hậu quả là, các nền kinh tế của Áo-Hung và Nga bị đình trệ. Họ đã tụt lại sau các quốc gia Âu châu khác, nơi tăng trưởng kinh tế đã cất cánh trong thế kỷ mười chín.
Bất kể thành công và thất bại của các nhóm cụ thể, một bài học là rõ: các nhóm hùng mạnh thường đứng lên chống lại tiến bộ kinh tế và chống lại các động cơ của sự thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ là một quá trình của các máy móc nhiều hơn và tốt hơn, của những con người được giáo dục nhiều hơn và tốt hơn, mà cũng là một quá trình hình thành và làm mất ổn định gắn với sự phá hủy sáng tạo rộng rãi. Như thế sự tăng trưởng tiến lên chỉ nếu không bị chặn bởi những kẻ thua kinh tế những người lường trước rằng các đặc quyền kinh tế của họ sẽ bị mất và bởi những kẻ thua chính trị những người sợ rằng quyền lực chính trị của họ bị xói mòn.
Sự xung đột về các nguồn lực khan hiếm, thu nhập và quyền lực, chuyển sang sự xung đột về các quy tắc của trò chơi, các thể chế kinh tế, mà sẽ xác định các hoạt động kinh tế và ai sẽ được hưởng lợi từ chúng. Khi có một xung đột, những mong muốn của tất cả các bên không thể được thỏa mãn đồng thời. Một số sẽ bị đánh bại và bị thất vọng, trong khi những người khác sẽ thành công trong bảo đảm các kết quả họ thích. Ai là những người thắng của cuộc xung đột này, có các hệ lụy cơ bản đến quỹ đạo kinh tế của một quốc gia. Nếu các nhóm đứng lên chống tăng trưởng là những người thắng, họ có thể thành công chặn sự tăng trưởng kinh tế, và nền kinh tế sẽ đình trệ.
Logic của việc vì sao kẻ hùng mạnh không nhất thiết muốn dựng lên các thể chế kinh tế mà thúc đẩy thành công kinh tế, có thể mở rộng dễ dàng sang sự lựa chọn các thể chế chính trị. Trong một chính thể chuyên chế, một số elite có thể sử dụng quyền lực để dựng lên các thể chế kinh tế họ ưa thích. Phải chăng họ quan tâm đến việc thay đổi các thể chế chính trị để làm cho chúng đa nguyên hơn? Nhìn chung là không, vì việc này chỉ pha loãng quyền lực chính trị của họ, làm cho khó khăn hơn, có thể là không thể, đối với họ để tổ chức các thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy các lợi ích riêng của họ. Ở đây chúng ta lại thấy một nguồn sẵn của xung đột. Những người chịu đựng các thể chế kinh tế khai thác không thể hy vọng vào các nhà cai trị chuyên chế để họ tự nguyện thay đổi các thể chế chính trị và phân chia lại quyền lực trong xã hội. Cách duy nhất để làm thay đổi các thể chế chính trị này là phải buộc elite tạo ra các thể chế đa nguyên hơn.
Theo cùng cách rằng không có lý do vì sao các thể chế chính trị lại tự động trở nên đa nguyên hơn, không có xu hướng tự nhiên nào hướng tới sự tập trung hóa chính trị. Chắc chắn có các khuyến khích để tạo ra các thể chế nhà nước tập trung hơn trong bất cứ xã hội nào, nhất là trong các xã hội không có sự tập trung hóa nào. Thí dụ, ở Somalia, nếu một thị tộc tạo ra một nhà nước tập trung có khả năng áp đặt trật tự lên đất nước này, việc này có thể dẫn đến các lợi ích kinh tế và khiến cho thị tộc này giàu hơn. Cái gì cản việc này? Rào cản chính cho sự tập trung hóa chính trị lại là một dạng của sự sợ hãi thay đổi: bất cứ thị tộc, nhóm hay chính trị gia nào thử tập trung quyền lực vào nhà nước cũng sẽ tập trung quyền lực vào tay của chính họ, và việc này chắc gặp phải sự giận dữ của các thị tộc, nhóm, và các cá nhân khác, những người sẽ là kẻ thua về mặt chính trị của quá trình này. Thiếu sự tập trung chính trị có nghĩa không chỉ là thiếu luật pháp và trật tự trong phần lớn của một lãnh thổ, mà cũng là có nhiều diễn viên với đủ quyền lực để chặn hay phá vỡ sự việc, và nỗi sợ về sự chống đối và phản ứng bạo lực của họ sẽ thường làm nhụt chí nhiều người có thể trở thành người tiến hành tập trung hóa. Sự tập trung hóa chính trị là có khả năng chỉ khi một nhóm người đủ mạnh hơn những nhóm khác để xây dựng một nhà nước. Ở Somalia, quyền lực được cân bằng đồng đều, và không một thị tộc nào có thể áp đặt ý chí của mình lên bất cứ thị tộc nào khác. Vì thế, sự thiếu tập trung chính trị tồn tại dai dẳng.
SỰ THỐNG KHỔ ĐẰNG ĐẴNG CỦA CONGO
Có ít thí dụ tốt hơn, hay phiền muộn hơn về các lực lượng giải thích vì sao thịnh vượng kinh tế lại hiếm hoi một cách dai dẳng đến vậy dưới các thể chế khai thác hoặc minh họa sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và các thể chế chính trị khai thác hơn là Congo. Các khách viếng thăm người Bồ Đào Nha và Hà Lan đến Congo vào các thế kỷ mười lăm và mười sáu đã để ý đến “sự nghèo khó khốn cùng” ở đó. Công nghệ đã thô sơ theo các tiêu chuẩn Âu châu, với những người Kongo đã không có chữ viết, bánh xe, cũng chẳng có cày. Lý do cho sự nghèo khó này, và sự miễn cưỡng của những nông dân Kongo để chấp nhận những công nghệ tốt hơn khi họ biết về chúng, là rõ từ các tường thuật lịch sử. Đã là do bản chất khai thác của các thể chế kinh tế của nước này.
Như chúng ta đã thấy, Vương quốc Kongo đã được cai trị bởi nhà vua ở Mbanza, São Salvador sau này. Các vùng xa thủ đô được cai trị bởi một elite những người đã đóng các vai trò thống đốc của các phần khác nhau của vương quốc. Sự giàu có của tầng lớp elite này đã dựa trên các đồn điền nô lệ xung quanh São Salvador và việc khai thác thuế từ phần còn lại của đất nước. Chế độ nô lệ đã là trung tâm của nền kinh tế, được dùng bởi elite để cung cấp cho các đồn điền riêng của họ và bởi những người Âu châu trên bờ biển. Các loại thuế đã rất tùy tiện; một loại thuế thậm chí đã được thu mỗi khi mũ của vua rơi xuống. Để trở nên thịnh vượng hơn, người dân Kongo lẽ ra đã phải tiết kiệm và đầu tư – thí dụ, bằng cách mua các chiếc cày. Nhưng đã không bõ công, vì mọi sản lượng thêm mà họ sản xuất ra với công nghệ tốt hơn đều sẽ bị vua và elite của ông ta tước đoạt. Thay cho đầu tư để làm tăng năng suất của họ và bán sản phẩm của họ trên thị trường, những người Kongo đã chuyển các làng của họ ra xa thị trường; họ đã cố ra càng xa đường càng tốt, nhằm để giảm việc bị tước đoạt và để thoát khỏi tầm với của bọn buôn bán nô lệ.
Sự nghèo khó của Kongo vì thế đã là kết quả của các thể chế kinh tế khai thác mà chặn tất cả các động cơ của sự thịnh vượng hay thậm chí khiến chúng hoạt động ngược lại. Chính phủ Kongo đã cung cấp rất ít dịch vụ công cho các công dân của mình, không ngay cả các dịch vụ cơ bản, như các quyền tài sản an toàn hay luật pháp và trật tự. Ngược lại, bản thân chính phủ đã là mối đe dọa lớn nhất cho tài sản và các quyền con người của các thần dân của nó. Chế độ nô lệ, đã có nghĩa rằng thị trường cơ bản nhất, một thị trường lao động bao gồm nơi người dân có thể chọn nghề hay việc làm của mình theo những cách mà hết sức cốt yếu cho một nền kinh tế thịnh vượng, đã không tồn tại. Hơn nữa, thương mại đường dài và các hoạt động buôn bán đã được kiểm soát bởi nhà vua và chỉ mở ra cho những người gắn với ông ta. Mặc dù elite nhanh chóng biết chữ sau khi những người Bồ Đào Nha đưa chữ viết vào, nhà vua đã không có nỗ lực nào để truyền bá sự biết đọc biết viết cho tuyệt đại đa số dân cư.
Tuy nhiên, dù “nghèo khó khốn cùng” đã là phổ biến rộng rãi, các thể chế khai thác của Kongo có logic riêng hoàn hảo của chúng: chúng làm cho một số ít người, những người có quyền lực chính trị, rất giàu. Trong thế kỷ mười sáu, vua Kongo và tầng lớp quý tộc đã có thể nhập khẩu các hàng hóa xa xỉ Âu châu và được bao quanh bởi những người hầu và nô lệ.
Gốc rễ của các thể chế kinh tế của xã hội Kongo bắt nguồn từ sự phân bổ quyền lực chính trị trong xã hội và như thế là từ bản chất của các thể chế chính trị. Đã chẳng có gì chặn nhà vua khỏi lấy tài sản hay thân thể của người dân, khác hơn sự đe dọa nổi loạn. Mặc dù sự đe dọa này là thực, nhưng đã không đủ để làm cho người dân hay tài sản của họ được an toàn. Các thể chế chính trị của Kongo đã thực sự là chuyên chế, khiến cho vua và elite về cơ bản không bị ràng buộc nào, và đã không cho các công dân tiếng nói nào về cách tổ chức xã hội của họ.
Tất nhiên, không khó để thấy rằng các thể chế của Kongo tương phản sắc nét với các thể chế chính trị bao gồm nơi quyền lực bị ràng buộc, bị chế ngự và được phân bổ rộng rãi. Các thể chế chuyên chế của Kongo được giữ đúng vị trí bởi quân đội. Nhà vua có một quân đội thường trực năm ngàn quân vào giữa thế kỷ mười bảy, mà nòng cốt là năm trăm lính ngự lâm – một lực lượng kinh khủng vào thời đó. Vì sao nhà vua và tầng lớp quý tộc lại hết sức háo hức chấp nhận các vũ khí Âu châu như thế là dễ hiểu.
Đã không có cơ hội nào về sự tăng trưởng kinh tế bền vững dưới tập này của các thể chế kinh tế và thậm chí các khuyến khích cho việc tạo ra sự tăng trưởng tạm thời cũng đã hết sức hạn chế. Cải cách các thể chế kinh tế để cải thiện các quyền tài sản cá nhân đã có thể khiến cho xã hội Kongo nói chung thịnh vượng hơn. Nhưng không chắc là elite được lợi từ sự thịnh vượng rộng hơn này. Thứ nhất, các cải cách như vậy làm cho elite thành những kẻ thua về kinh tế, bằng cách làm xói mòn sự giàu có mà buôn bán nô lệ và các đồn điền nô lệ mang lại cho họ. Thứ hai, các cải cách như vậy là có thể chỉ nếu quyền lực chính trị của nhà vua và elite bị cắt xén. Thí dụ, nếu nhà vua tiếp tục chỉ huy năm trăm ngự lâm quân của ông, ai tin một công bố rằng chế độ nô lệ được bãi bỏ? Cái gì chặn nhà vua khỏi việc đổi ý của ông sau đó? Bảo đảm thực tế duy nhất là một sự thay đổi về các thể chế chính trị sao cho các công dân có được quyền lực chính trị đối lập nào đó, trao cho họ tiếng nói nào đó về thuế hay về cái các ngự lâm quân đã làm. Nhưng trong trường hợp này đáng nghi rằng việc duy trì sự tiêu dùng và phong cách sống của nhà vua và elite là cao trong danh sách ưu tiên của họ [của các công dân]. Trong kịch bản này, những thay đổi tạo ra các thể chế kinh tế tốt hơn làm cho nhà vua và giới quý tộc thành những kẻ thua về mặt kinh tế và chính trị.
Sự tương tác giữa các thể chế kinh tế và chính trị năm trăm năm trước vẫn thích đáng cho việc hiểu vì sao nhà nước Congo hiện đại hiện nay vẫn nghèo khổ. Sự đến của các nhà cai trị Âu châu trong khu vực này, và sâu hơn vào lưu vực sông Congo vào thời “tranh giành châu Phi” vào cuối thế kỷ mười chín, đã dẫn đến một sự bất an toàn của các quyền con người và tài sản thậm chí còn quá xá hơn cả thời tiền thuộc địa ở Kongo. Ngoài ra, nó tái tạo hình mẫu của các thể chế khai thác và chủ nghĩa chuyên chế trao quyền và làm giàu cho một số ít gây tổn hại cho số đông, mặc dù số ít bây giờ là các nhà thực dân Bỉ, đặc biệt là Vua Leopold II.
Khi Congo trở nên độc lập vào năm 1960, cùng hình mẫu của các thể chế, các khuyến khích, và thành tích kinh tế đã tự tái tạo mình. Các thể chế kinh tế khai thác này của Congo đã lại được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác cao độ. Tình hình đã còn tồi tệ hơn bởi vì chủ nghĩa thực dân Âu châu đã tạo ra một chính thể, Congo, được tạo thành từ nhiều nhà nước tiền thuộc địa khác nhau và các xã hội mà nhà nước quốc gia, được điều hành từ Kinshasa, đã ít kiểm soát được. Mặc dù Tổng thống Mobutu đã sử dụng nhà nước để làm giàu cho mình và cho các cánh hẩu của ông – thí dụ, qua chương trình Zaire hóa năm 1973, mà dính líu đến sự tước đoạt hàng loạt các lợi ích kinh tế nước ngoài – ông đã đứng đầu một nhà nước không được tập trung hóa với ít quyền lực đối với phần lớn đất nước, và đã phải kêu gọi sự trợ giúp của nước ngoài để chặn các tỉnh Katanga và Kasai ly khai trong các năm 1960. Sự thiếu tập trung hóa chính trị này, hầu như đến điểm hoàn toàn sụp đổ của nhà nước, là một nét đặc trưng mà Congo chia sẻ với phần lớn của châu Phi hạ-Sahara.
Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại vẫn nghèo bởi vì các công dân của nó vẫn thiếu các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cơ bản làm cho một xã hội thịnh vượng. Không phải là địa lý, văn hóa, hay sự ngu dốt của các công dân hay của các chính trị gia của nó là cái giữ Congo nghèo, mà là các thể chế kinh tế khai thác của nó. Những thể chế này vẫn tồn tại sau tất cả những thế kỷ này bởi vì quyền lực chính trị tiếp tục được tập trung một cách hẹp trong tay của một elite những người có ít khuyến khích để thực thi các quyền tài sản an toàn cho người dân, để cung cấp các dịch vụ công cơ bản mà sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống, hay để cổ vũ cho sự tiến bộ kinh tế. Đúng hơn, lợi ích của họ là để khai thác thu nhập và duy trì quyền lực của họ. Họ đã không sử dụng quyền lực này để xây dựng một nhà nước tập trung, vì để làm thế sẽ tạo ra cùng các vấn đề về đối lập và các thách thức chính trị thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể tạo ra. Hơn nữa, như ở phần lớn của phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara, sự đấu đá nội bộ quyết liệt được kích bởi các nhóm đối thủ mưu toan kiểm soát các thể chế khai thác đã phá hủy bất cứ xu hướng tập trung hóa nhà nước nào mà đã có thể tồn tại.
Lịch sử của Vương quốc Kongo, và lịch sử gần đây hơn của Congo, minh họa một cách sinh động cho việc các thể chế chính trị xác định các thể chế kinh tế ra sao và, thông qua các thể chế này, xác định các khuyến khích kinh tế và quy mô cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Nó cũng minh họa mối quan hệ cộng sinh giữa chủ nghĩa chuyên chế chính trị và các thể chế kinh tế trao quyền và làm giàu cho số ít gây thiệt hại cho số đông.
TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC
Congo ngày nay là một thí dụ cực đoan, với sự vô luật pháp và các quyền tài sản rất không an toàn. Tuy vậy, trong hầu hết trường hợp sự cực đoan như vậy không phục vụ cho lợi ích của elite, vì nó sẽ phá hủy tất cả các khuyến khích kinh tế và tạo ra ít nguồn lực để khai thác. Luận đề trung tâm của cuốn sách này là, tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng gắn với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, trong khi các thể chế khai thác dẫn đến sự trì trệ và nghèo khó. Nhưng điều này không ngụ ý rằng các thể chế khai thác chẳng bao giờ có thể tạo ra tăng trưởng, cũng chẳng ngụ ý rằng tất cả các thể chế khai thác được tạo ra bằng nhau.
Có hai cách khác biệt nhưng bổ sung cho nhau mà theo đó tăng trưởng có thể nổi lên dưới các thể chế chính trị khai thác. Thứ nhất, cho dù các thể chế kinh tế là khai thác, tăng trưởng là có thể khi elite có thể trực tiếp phân bổ các nguồn lực cho các hoạt động có năng suất cao mà bản thân họ kiểm soát. Một thí dụ nổi bật của loại tăng trưởng này dưới các thể chế khai thác đã là các Đảo vùng Caribe giữa các thế kỷ mười bảy và mười tám. Hầu hết người dân đã là các nô lệ, làm việc dưới các điều kiện khủng khiếp ở các đồn điền, sống hầu như không trên mức sống qua ngày. Nhiều người đã chết do suy dinh dưỡng và kiệt sức. Ở Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica trong các thế kỷ mười bảy và mười tám, một thiểu số nhỏ, elite đồn điền, đã kiểm soát mọi quyền lực chính trị và sở hữu tất cả các tài sản, bao gồm tất cả các nô lệ. Trong khi đa số đã không có quyền nào, quyền sở hữu và tài sản của elite đồn điền đã được bảo vệ kỹ. Bất chấp các thể chế kinh tế khai thác mà đã bóc lột một cách dã man đa số dân cư, các đảo này đã là giữa các nơi giàu nhất trên thế giới, bởi vì nó đã có thể sản xuất đường và bán trên các thị trường thế giới. Nền kinh tế của các đảo này đã chỉ trì trệ khi đã có nhu cầu để chuyển sang các hoạt động kinh tế khác, mà đã đe dọa cả các khoản thu nhập và quyền lực chính trị của elite đồn điền.
Một thí dụ khác đã là tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa ở Liên Xô từ Kế hoạch Năm Năm lần thứ nhất trong năm 1928 cho đến tận các năm 1970. Các thể chế chính trị và kinh tế đã mang tính khai thác cao độ, và các thị trường đã bị hạn chế nặng nề. Tuy nhiên, Liên Xô đã có thể đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh bởi vì nó đã có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để chuyển các nguồn lực từ nông nghiệp, nơi chúng đã được sử dụng rất kém hiệu quả, sang công nghiệp.
Loại thứ hai của tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác xuất hiện khi các thể chế cho phép sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm một chút, cho dù không hoàn toàn. Nhiều xã hội với các thể chế chính trị khai thác sẽ lảng tránh các thể chế kinh tế bao gồm bởi vì sợ sự phá hủy sáng tạo. Nhưng mức độ, mà elite tìm được cách để chiếm độc quyền quyền lực, thay đổi qua các xã hội. Trong một vài xã hội, vị thế của elite đã có thể đủ an toàn nên họ có thể cho phép một số bước hướng tới các thể chế kinh tế bao gồm khi họ khá chắc chắn rằng việc này sẽ không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Một cách lựa chọn khả dĩ khác, tình thế lịch sử đã có thể đến nỗi ban cho một chế độ chính trị khai thác các thể chế kinh tế khá bao gồm, mà họ quyết định không chặn lại. Những cách này cung cấp cách thứ hai mà theo đó tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra dưới các thể chế chính trị khai thác.
Công nghiệp hóa nhanh chóng của Nam Hàn dưới thời Tướng Park là một thí dụ. Park lên nắm quyền qua một cuộc đảo chính năm 1961, nhưng ông đã làm vậy trong một xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi Hoa Kỳ và với một nền kinh tế nơi các thể chế kinh tế về thực chất đã là bao gồm. Mặc dù chế độ của Park là độc đoán, nó đã cảm thấy đủ an toàn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và thực tế đã làm vậy một cách rất tích cực – có lẽ một phần bởi vì chế độ đã không trực tiếp được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế khai thác. Khác với Liên Xô và hầu hết các trường hợp khác của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, Nam Hàn đã chuyển đổi từ các thể chế chính trị khai thác theo hướng sang các thể chế chính trị bao gồm trong các năm 1980. Sự chuyển đổi thành công này đã là do một sự hợp lưu của các yếu tố.
Vào các năm 1970, các thể chế kinh tế ở Nam Hàn đã trở nên đủ bao gồm đến mức chúng đã làm giảm một trong các lý do căn bản cho các thể chế chính trị khai thác – elite kinh tế đã có ít để kiếm được từ sự thống trị chính trị của chính họ hay của quân đội. Sự bình đẳng tương đối về thu nhập ở Nam Hàn cũng đã có nghĩa rằng elite có ít để sợ chủ nghĩa đa nguyên và dân chủ. Ảnh hưởng then chốt của Hoa Kỳ, đặc biệt căn cứ vào sự đe dọa từ Bắc Triều Tiên, cũng đã có nghĩa rằng phong trào dân chủ mạnh, mà đã thách thức chế độ độc tài quân sự, đã không thể bị đàn áp lâu. Mặc dù việc ám sát Tướng Park trong năm 1979 đã tiếp theo bởi một cuộc đảo chính quân sự khác, lãnh đạo bởi Chun Doo-hwan, người kế vị được chọn của Chun, Roh Tae-woo, đã khởi xướng một quá trình cải cách chính trị mà đã dẫn đến sự củng cố của một nền dân chủ đa nguyên sau năm 1992. Tất nhiên, không có sự chuyển đổi nào thuộc loại này đã xảy ra ở Liên Xô. Kết quả là, sự tăng trưởng Soviet đã hụt hơi kiệt sức, và nền kinh tế đã bắt đầu suy sụp trong các năm 1980 và rồi tan vỡ hoàn toàn trong các năm 1990.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện nay cũng có nhiều điểm chung với những kinh nghiệm của cả Liên Xô và Nam Hàn. Trong khi các giai đoạn ban đầu của sự tăng trưởng Trung Quốc đã được dẫn đầu bởi những cải cách thị trường triệt để trong khu vực nông nghiệp, các cuộc cải cách trong khu vực công nghiệp đã im hơi lặng tiếng hơn. Ngay cả ngày nay, nhà nước và Đảng Cộng Sản đóng vai trò trung tâm trong quyết định khu vực nào và các doanh nghiệp nào sẽ nhận được thêm vốn và sẽ mở rộng – trong quá trình, kiếm được và đánh mất các khoản tiền kếch xù. Như ở Liên Xô trong thời hoàng kim của nó, Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng, nhưng đấy vẫn là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, dưới sự kiểm soát của nhà nước, với ít dấu hiệu của một sự chuyển đổi sang các thể chế chính trị bao gồm. Sự thực rằng các thể chế kinh tế của Trung Quốc vẫn còn xa mới mang tính bao gồm đầy đủ cũng gợi ý rằng một sự chuyển đổi theo kiểu Nam Hàn là ít có khả năng, mặc dù tất nhiên không phải là không thể.
Đáng lưu ý rằng sự tập trung hóa chính trị là chìa khóa cho cả hai cách mà theo đó tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác có thể xảy ra. Không có mức độ tập trung chính trị nào đó, thì elite đồn điền ở Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica đã không thể giữ luật pháp và trật tự và bảo vệ các tích sản và tài sản riêng của họ. Không có sự tập trung chính trị đáng kể và một sự nắm chặt quyền lực chính trị, thì các elite quân sự Nam Hàn đã không, và Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã chẳng cảm thấy đủ an toàn để nghĩ ra các cải cách kinh tế quan trọng và vẫn tìm được cách để bám lấy quyền lực. Và không có sự tập trung hóa như vậy, thì nhà nước ở Liên Xô hay ở Trung Quốc đã không thể điều phối hoạt động kinh tế để hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có năng suất cao. Một đường phân chia chính giữa các thể chế chính trị khai thác vì thế là mức độ tập trung hóa chính trị của chúng. Các thể chế chính trị khai thác mà không có sự tập trung hóa, ví dụ như nhiều ở châu Phi hạ-Sahara, sẽ thấy khó để đạt ngay cả sự tăng trưởng hạn chế.
Cho dù các thể chế khai thác có thể tạo ra sự tăng trưởng nào đó, chúng sẽ thường không tạo ra sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, và chắc chắn không tạo ra loại tăng trưởng đi cùng với sự phá hủy sáng tạo. Khi cả các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế đều mang tính khai thác, các khuyến khích sẽ không có ở đó cho sự phá hủy sáng tạo và thay đổi công nghệ. Trong một thời gian nhà nước có thể có khả năng để tạo ra tăng trưởng nhanh bằng cách phân bổ các nguồn lực và con người bằng sắc lệnh, nhưng quá trình này bị hạn chế một cách cố hữu. Khi đạt các giới hạn, sự tăng trưởng ngừng lại, như đã xảy ra ở Liên Xô trong các năm 1970. Ngay cả khi những người Soviet đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đã có ít thay đổi công nghệ trong phần lớn nền kinh tế, mặc dù bằng cách đổ các nguồn lực ồ ạt vào quân đội họ đã có khả năng phát triển các công nghệ quân sự và thậm chí vượt trước Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua không gian và hạt nhân trong một thời gian ngắn. Nhưng sự tăng trưởng này mà không có sự phá hủy sáng tạo và không có sự đổi mới công nghệ trên diện rộng đã là không bền vững và đi đến một sự kết thúc đột ngột.
Ngoài ra, những sắp xếp, mà ủng hộ tăng trưởng kinh tế dưới các thể chế khai thác, do bản chất của chúng, là mong manh – chúng có thể sụp đổ hay bị phá hủy một cách dễ dàng bởi sự đấu đá nội bộ mà bản thân các thể chế khai thác gây ra. Trên thực tế, các thể chế chính trị và kinh tế khai thác tạo ra một xu hướng chung cho sự đấu đá nội bộ, bởi vì chúng dẫn đến sự tập trung của cải và quyền lực trong tay của một elite hẹp. Nếu một nhóm khác có thể lấn át và có thủ đoạn hơn elite này và nắm lấy sự kiểm soát nhà nước, thì họ sẽ là những người hưởng của cải và quyền lực này. Hệ quả là, như thảo luận của chúng ta về sự sụp đổ của Đế chế La Mã muộn hơn và các thành phố Maya sẽ minh họa, sự chiến đấu để kiểm soát nhà nước toàn năng là luôn luôn âm ỉ, và nó sẽ tăng cường một cách định kỳ và dẫn đến sự hủy hoại của các chế độ này, khi nó biến thành nội chiến và đôi khi thành sự tan vỡ và sụp đổ hoàn toàn của nhà nước. Một ngụ ý của việc này là, cho dù một xã hội dưới các thể chế khai thác ban đầu có thể đạt được mức độ tập trung nhà nước nào đó, nó sẽ không kéo dài. Trên thực tế, việc đấu đá nội bộ để kiểm soát các thể chế khai thác thường dẫn đến nội chiến và sự vô luật pháp tràn lan, coi một sự thiếu vắng dai dẳng của sự tập trung nhà nước là thiêng liêng như ở nhiều quốc gia ở châu Phi hạ-Sahara và một số quốc gia ở Mỹ Latin và Nam Á.
Cuối cùng, khi sự tăng trưởng đến dưới các thể chế chính trị khai thác nhưng ở nơi các thể chế kinh tế có các khía cạnh bao gồm, như chúng đã là ở Nam Hàn, luôn luôn có mối hiểm nguy rằng các thể chế kinh tế trở nên khai thác hơn và sự tăng trưởng ngừng lại. Những người kiểm soát quyền lực chính trị cuối cùng sẽ thấy có lợi hơn để sử dụng quyền lực của họ để hạn chế cạnh tranh, để làm tăng phần của họ trong chiếc bánh, hay thậm chí để ăn cắp và cướp bóc từ những người khác hơn là ủng hộ sự tiến bộ kinh tế. Sự phân bố và khả năng để sử dụng quyền lực cuối cùng sẽ làm xói mòn chính nền tảng của sự thịnh vượng kinh tế, trừ phi các thể chế chính trị được biến đổi từ khai thác thành bao gồm./.
Nguyễn Quang A dịch
Nguồn: Why Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York