Nhìn ra thế giới

Giáo trình lịch sử Nhật Bản (Kỳ 25)

Tiết 5: Mạc phủ Muromachi thành hình.  

5.1 Mạc phủ Kamakura diệt vong

Vào khoảng giữa thời Kamakura, trong hoàng thất đã xảy ra việc Thiên hoàng Go Saga (Hậu Tha Nga) nhường ngôi cho con cả của ông là Thiên hoàng Go Fusakusa (Hậu Thâm Thảo) và trở thành thái thượng hoàng, thực hành viện chính.

Thế nhưng sau đó, Go Fukakusa lại nhượng vị cho người em yêu là Thiên hoàng Kameyama (Quy Sơn) - nhường ngôi theo chiều ngang - thì lúc đó hoàng tộc phân rẽ thành hai nhánh. Một đằng nhánh của Go Fusakusa có tên là nhánh Jimyôintô (Trì Minh Viện thống) và nhánh của Kameyama có tên là Daikakujitô (Đại Giác Tự thống), theo như tên nơi những người trong bọn họ sinh sống sau khi rời ngôi.

Việc nối ngôi cũng như thi hành viện chính giữa hai nhà trở thành đầu mối của tranh chấp và bất hòa. Mạc phủ mới đưa ra đề án hòa giải bằng cách yêu cầu hai nhà “thay phiên” nhau làm vua. Việc đó sử Nhật gọi là ryôtô tetsuritsu (lưỡng thống điệt lập, mà điệt có nghĩa là thay phiên).

Sự luân lưu giữa hai dòng thúc bá như thế kéo đến năm 1318 (Bunpo 2), lúc Thiên hoàng Go Daigo (Hậu Đề Hồ) tức vị. Ông là một người thuộc hoàng thống Daikakuji (dòng nhà chú). Thiên hoàng Go Daigo là một người tính rất quả quyết, từng học lý luận về đại nghĩa danh phận của Tống Nho nên chủ trương đã là thiên hoàng thì phải nắm thực quyền. Với mục đích như vậy, ông mưu đồ việc thảo mạc tức đánh đuổi mạc phủ.

Một nguyên nhân gần của việc ấy là vào thời kỳ đó, chức uchikanrei (nội quản lãnh) là Nagasaki Takasuke (Trường Kỳ Cao Tư) mới là kẻ nắm thực quyền chứ không phải là shikken Hôjô Takatoki (Bắc Điều Cao Thì) nữa. Thế nhưng chính trị mạc phủ đương thời chỉ làm cho go-kenin (ngự gia nhân) bất mãn và akutô (ác đảng) lộng hành. Đối với nhà vua, có thể xem như thời cơ đã đến lúc chín mùi cho việc thảo mạc.

Thiên hoàng Go Daigo bắt đầu chuẩn bị kế hoạch đảo chánh vào năm 1324 (Shôgen nguyên niên) nhưng đã để tiết lộ bí mật nên thành ra thất bại trước khi cử sự. Đó là việc mà sử gọi là Shôchuu no hen (biến cố trong năm Shôgen, Chính Nguyên).Kết quả là Hino Tsuketomo (Nhật Dã Tư Triều), một bầy tôi thân tín bên cạnh thiên hoàng đã bị bắt và đày ra vùng Sado (thuộc tỉnh Niigata ngày nay). Sau đó lại xảy thêm biến cố gọi là Genkô no hen, những cận thần dính líu lần này bị xử chém.

Genkô no hen đã xảy ra vào năm Genkô (Nguyên Hoằng) nguyên niên (1331), lần thất bại này đã khiến cho Thiên hoàng Go Daigo bị đưa ra an trí ngoài đảo Oki (Ẩn Kỳ, nay thuộc tỉnh Shimane nhìn ra biển Nhật Bản). Mạc phủ lập Thiên hoàng Kôgon (Quang Nghiêm), người của phía nhà bác tức dòng Jimyôin. 

              

Ashikaga Takauji, người khai nghiệp Mạc phủ Muromachi

Thế nhưng mạc phủ Kamakura không sao ngăn cấm được những thế lực phản mạc phủ đang nổi dập mạnh mẽ khắp nơi.Tướng Ashikaga Takauji (Túc Lợi, Cao Thị), người mà mạc phủ gửi xuống vùng Kinai (gần kinh đô) để bình định phiến loạn, đã đánh giá tình thế bất lợi nên trở giáo đánh lại mạc phủ. Ông tấn công hành dinh Rokuhara tandai (như phủ thủ hiến đặt ở Kyôto). Vùng Kantô lại có Nitta Yoshisada (Tân Điền, Nghĩa Trinh, cùng dòng dõi Genji như Ashikaga Takauji) xua quân tấn công ngay bản doanh Kamakura. Đến năm 1333 (Genkô 3) thì một nhà Hôjô từ Takatoki trở xuống đều bị tiêu diệt. Giai đoạn Mạc phủ Kamakura như thế đã hoàn toàn chấm dứt.

5.2 Vương thất trung hưng đời Kenmu

Sau khi Mạc phủ Kamakura bị diệt vong, Thiên hoàng Go Daigo liền hồi loan. Ở kinh đô, ông bắt đầu chính quyền mới thời Kenmu (Kiến Vũ). Lý do là năm sau khi trở lại, ông đã đổi niên hiệu thành Kenmu.

Niên hiệu Kenmu vốn phỏng theo niên hiệu của Hán Quang Vũ khi ông phục hưng được nhà Hán. Ngoài việc thay đổi niên hiệu, Go Daigo còn có tham vọng xác định quyền hạn của hoàng gia với những kế hoạch xây dựng cung điện mới (daidairi = nội đại lý), phát hành tiền đồng, tiền giấy vv...

Mục đích của cuộc trung hưng đời Kenmu là việc thiên hoàng thân chính, tự mình trị nước. Do đó, ông phế bỏ các chức sesshô và kanpaku, tàn dư của chính trị sekkan. Ông cho rằng chính trị lý tưởng của hoàng gia là thời đại hoàng kim của 2 thiên hoàng Daigo, Murakami cho nên mới lấy hiệu là Go Daigo để kế tục sự nghiệp của tổ tiên mà ông sùng kính.

           

Thiên hoàng Go Daigo với giấc mộng trung hưng

Về cơ cấu chính quyền mới, Go Daigo cho thiết lập một cơ quan trung ương tối cao tên là Kirokusho (Ký lục sở) để đảm đương chính vụ. Tuy nhiên trên thực tế, vào thời kỳ này, do ảnh hưởng có từ lâu dài của Mạc phủ Kamakura, chính quyền mới vẫn phải duy trì thêm một ít lâu cung cách của nó. Zasso Ketsudansho (Kết tố quyết đoán sở) như thể tiếp nối cơ quan Hikitsuke, cơ quan tài phán của đời trước. Triều đình vẫn còn phải bổ nhiệm các chức shugo (thủ hộ) để lo việc trị an ở các tiểu quốc. Mặt khác, ở vùng Ôu (Áo Vũ) và Kantô (Quan Đông), nhà vua lại thiết lập Mutsu Shôgunfu (Lục Áo tướng quân phủ) và Kamakura Shôgunfu, giao cho các hoàng tử của mình ra đó chỉ huy.Trên thực tế thì đây là một thứ “tiểu mạc phủ” và người cầm đầu nó vẫn phải trọng dụng các bushi xuất thân từ cựu mạc phủ.

Lúc đầu khi thiên hoàng trở lại cầm quyền, ông ra pháp lệnh rằng tất cả quyền sở hữu đất đai đều phải ghi trong các rinshi (luân chỉ) tức giấy cho phép của thiên hoàng thông báo tực tiếp bởi cận thần của thiên hoàng đến các đương sự. Kể từ đó, việc sở hũu điền địa ở đâu đều phải được thiên hoàng nhìn nhận. Thế nhưng, khi làm như thế, thiên hoàng đã phủ nhận những tập quán của xã hội quân nhân, làm cho nội tình chính trị bất an và khiến các vũ sĩ đâm ra chống đối.

Trong bộ luật cơ sở của mạc phủ, Go seibai shikimoku ra đời năm 1232, điều 8 có ghi rằng “nếu như người chủ đất hiện nay trên thực tế đã giữ liên tục một mảnh đất trên 20 năm thì quyền sở hữu ưu tiên của người đó trên miếng đất đó sẽ không thể bị mất đi được” là một điều khoản pháp lý bất biến của xã hội quân nhân. Thiên hoàng nay bảo tất cả phải xuất phát từ chiếu chỉ (rinshi) của ông tức là tỏ ra coi thường điều khoản đó, một việc giới quân nhân khó lòng chấp nhận.

Cơ cấu chính trị thành lập hấp tấp nên không lường hết sự phức tạp của quan hệ giữa người và người bên trong nội bộ. Điều đó khiến cho chính vụ trở thành lộn xộn hoặc bị đình đốn. Trong năm 1334 (Kenmu nguyên niên), có kẻ dán giấy viết nhảm như thế này ở trên bãi Kawara Nijô ở thành phố Kyôto: “Độ rày ở kinh đô thường thấy xuất hiện mấy thứ sau đây nhất: đánh trộm ban đêm, cướp giật, thảo chiếu chỉ giả mạo...”. Đó là một văn bản dài trên 800 chữ, được gọi là “Báo tường ở Nijô Kawara” (Nijô kawara no rakugaki) ghi lại những hiện tượng tiêu cực về chính trị và xã hội thời ấy. Nó thật là một sử liệu đáng tham khảo.

Thấy tình hình ở kinh đô như vậy, báy giờ có một nhân vật muốn đứng ra xây dựng lại chế độ mạc phủ. Người đó chính là Ashikaga Takauji (Túc Lợi Tôn Thị). Trước kia tên ông tuy cũng đọc là Takauji nhưng viết với chữ Cao, Tôn Thị là cái tên lót mà Thiên hoàng Go Daigo đã ban cho ông từ chính tên mình (Takaharu =Tôn Trị).

Năm 1335 (Kenmu 2), Takauji (Tôn Thị) kéo binh đi Kamakura thảo phạt Hôjô Tokiyuki (Bắc Điều Thì Hành), con trai của cố shikken Takatoki, đang cử binh nổi loạn chống chính quyền mới. Đó là cuộc loạn tên là Nakasendai no ran (Nakasendai =Trung tiên đại (đời giữa), chỉ Tokiyuki vì Sendai hay tiên đại (đời trước) là Takatoki và hậu đại (đời sau) Godai là Takauji). Sau khi thu hồi được Kamakura và đuổi Tokiyuki đi rồi, Takauji lại trở mặt chống triều đình mới. Diễn tiến của cuộc tranh đoạt này sẽ được nói đến trong phần sau.

5.3 Nam Bắc Triều: Từ chia rẽ đến kết hợp

Chính quyền mới đời Kenmu như thế đã tiếp nối trong sự hỗn loạn và cuộc chia rẽ giữa hai dòng vua sẽ còn kéo dài thêm nữa trong một thời đại mà sử Nhật mệnh danh là Nambokuchô (Nam Bắc triều).

Chúng ta đã thấy Takauji trở mặt chống triều đình khi xuất quân dẹp loạn ở Kamakura. Tại đây, ông đã được sự đồng tình và ủng hộ của tầng lớp bushi vốn không bằng lòng với cách đối đãi của tân chính quyền Kenmu dưới sự lãnh đạo của Thiên hoàng Go Daigo. Thế nhưng khi Takauji đem quân tiến về kinh đô thì bị lực lượng trung thành với vương thất đánh bại, phải bôn tẩu xuống tận Kyuushuu. Ở đây, Takauji có thời gian chỉnh đốn binh mã và cử sự một lần nữa. Lần này, ông áp chế được Kyôto (1333, Engen nguyên niên), lập nhà vua mới thuộc dòng Jimyôin là Thiên hoàng Kômyô (Quang Minh) đồng thời đánh thêm ngón đòn chính trị bằng cách công bố bộ luật Kenmu shikimoku (Kiến Vũ thức mục) gồm 17 điều để tỏ rõ chủ trương của mình cũng như trình bày lý do tại sao muốn thiết lập mạc phủ. Rốt cuộc, ông đã thành công trong việc khai phủ ở Muromachi (Thất Đinh) thuộc địa phận Kyôto. Chính quyền quân sự của Takauji nhân đó mới có tên là Mạc phủ Muromachi. Như thế, cuộc trung hưng năm Kenmu của Thiên hoàng Daigo chỉ kéo được có 3 năm ngắn ngủi.

Tuy Takauji chấm dứt được chính quyền Kenmu và mở ra Mạc phủ Muromachi nhưng không vì thế mà Nhật Bản hết rối loạn.Thiên hoàng Go Daigo trốn khỏi Kyôto, vào trong vùng rừng núi Yoshino (phiá nam Nara bây giờ) tiếp tục chủ trương tính chính thống ngôi vua của mình.

Kể từ lúc này, có hai vương triều biệt lập: Nam triều ở Yoshino và Bắc triều ở Kyôto. Hai bên tiếp tục đối lập với nhau và gây nên một tình tạng bất ổn trên toàn quốc.

Về Nam triều thì những võ tướng có thế lực buổi đầu như Kusunoki Masashige (Nam Mộc Chính Thành), Nitta Yoshisada (Tân Điền Nghĩa Trinh) đều bị bại tử trong cuộc tranh hùng. Năm 1339 (Rekiô 2, Engen 4) đến lượt Thiên hoàng Go Daigo băng hà. Người nối ngôi ông là Thiên hoàng Go Murakami (Hậu Thôn Thượng) mới có 12 tuổi nên bị ở trong thế bất lợi đối với Bắc triều. Dù vậy những cận thần của ông như Kitabatake Chikafusa (Bắc +Thân Phòng)[1] đã lập nhiều cứ điểm từ Tôhoku, Kantô cho đến Kyuushuu để tiếp tục kháng chiến. Kitabatake cũng là một học giả, đã bỏ công sức viết bộ sử Jinnô shôtôki (Thần hoàng chính thống ký) để biện hộ cho tính chính thống của Nam triều.

                                         

Tướng Kusunoki Masashige, trung thần của Nam triều

Mặt khác, Bắc triều – chính quyền đang nắm ưu thế - đã phong chức Seii Taishôgun (Chinh di đại tướng quân) gọi tắt là Shôgun cho Takauji vào năm 1338 (Rekiô 1, Engen 3) để cùng với em trai là Tadayoshi (Trực Nghĩa) trông coi quốc chính.

Tưởng như vậy là yên ổn nào ngờ nội bộ mạc phủ lại nẩy sinh vấn đề mới. Thế lực đằng sau Tadayoshi, người em, chủ trương đi theo cung cách ôn hòa của Mạc phủ Kamakura đã vấp phải sự chống đối những kẻ muốn tiến nhanh tiến mạnh để giành ngay quyền trị nước mà điển hình là Kô no Moronao (Cao Sư Trực), đang giữ sức chấp sự cho anh mình.Chức shitsuji (chấp sự) của thời Muromachi rất quan trọng, được xem như người thay mặt cho Shôgun. Sự đối lập trở nên kịch liệt đến nổi hai bên đã phải dùng đến vũ lực để triệt hạ lẫn nhau vào năm 1350 (Kannô 1, Shôhei 5). Ở các địa phương cũng xảy ra những vụ xung đột. Sử gọi là Kannô no jôran (cuộc nhiễu loạn năm Kannô).

Tadayoshi thua và chết nhưng cuộc đối địch giữa hai bên không vì thế mà chấm dứt.Rốt cuộc là 3 phái (phái của Tadayoshi, phái của Takauji và phái của Nam triều) đã đánh nhau qua lại hơn 10 năm trời, lúc giảng hòa, lúc tái chiến, không biết bao nhiêu lần mà nói.

Sự kéo dài của những cuộc tranh chấp này trên phạm vi cả nước đã làm cho chính quyền trung ương cũng bị phân liệt. Xã hội của giới bushi đã có một cuộc thay đổi lớn bắt đầu từ cuối đời Kamakura và đây cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình đưa đến sự thay đổi của xã hội nói chung. Nói tóm tắt thì ta thấy sợi dây liên lạc từng thắt chặt xã hội bushi như một toàn thể đã bị đứt bung và từ đây, cuộc tranh chấp giữa các bushidan địa phương thành ra kịch liệt.

Cho đến nay, trong gia đình bushi, các honke (con trưởng) và bunke (con thứ) vẫn có một sự hợp tác nào đó nhưng bây giờ, họ trở nên độc lập với nhau.Trong mỗi nhà một, các cậu đích tử (chakushi) sẽ hưởng hết của thừa tự trong khi các em (shôshi = thứ tử) không có phần như trước mà phải nương tựa vào anh.Sự thay đổi này làm cho các bushidan ở địa phương có sự phân liệt và đối lập trong nội bộ của họ. Ngoài ra nếu một bên theo Bắc triều thì phe đối lập lại ngã về Nam triều và các cuộc xung đột cứ như thế mà lan rộng.

Cuộc tranh chấp giữa hai triều Nam Bắc đã kéo dài ước chừng 60 năm. Đến đời cháu nội của Takauji là Shôgun thứ 3 Ashikaga Yoshimitsu (Túc Lợi Nghĩa Mãn) thì mới có dấu hiệu dần dần lắng dịu. Mạc phủ Muromachi từ đó trở đi mới biết đến hòa bình.

                           

Shôgun Ashikaga Yoshimitsu

Trong thời gian đó, giữa hai bên Nam Bắc triều đã có bao cuộc hòa nghị nhưng lúc nào cũng vấp phải khó khăn không vượt qua nổi.Cuối cùng, với Yoshimitsu, vào năm 1392 (Meitoku 3, Genchuu 4), hai bên mới đi đến thỏa hiệp, thực hiện được sự kết hợp gọi là Nanbokuchô no gattai (hợp thể), thành công trong việc chấm dứt một cuộc huynh đệ tương tàn. Thiên hoàng Go Kameyama (Hậu Quy Sơn) về lại Kyôto, với hình thức nhượng vị, trao các món thần khí (tượng trưng của vương quyền) cho Thiên hoàng Go Komatsu (Hậu Tiểu Tùng).

Một trong những điều kiện để hai nhà ngồi lại nói chuyện với nhau là họ sẽ phục hồi chế độ ryôtô tetsuritsu (lưỡng thống điệt lập) mà thay nhau làm vua như đã có từ trước. Tuy nhiên, trên thực tế, đó chỉ là một lời ước hẹn suông và tất cả sau đó đã rơi vào quên lãng.          

Chúng ta vừa điểm qua những biến cố xảy ra trong thời kỳ đầu tiên khi Mạc phủ Muromachi mới thiết lập cũng như quá trình “hợp nhất” hai triều đình Nam Bắc để đem lại hòa bình. Mạc phủ qua những năm tháng đó đã củng cố được cơ sở. Shôgun đời thứ 3 Yoshimitsu xây dựng một thời đại vàng son, một phủ đệ Shôgun trong vùng đầy hoa nên được mệnh danh là hana no gosho (ngự sở hoa) ở khu vực Muromachi. Ông là vị Shôgun đương thời đã xác định được quyền lực của Shôgun và hoàn chỉnh một thể chế Mạc phủ.

Đó cũng là thời kỳ văn hóa Kitayama (Bắc sơn văn hóa) xán lạn mà người Nhật ngày nay thảy đều tự hào.

Phụ Lục:

Đối Chiếu Lịch Sử Nhật Bản Cổ Đại và Âu Á

 

Niên đại

Âu Châu

Trung quốc

Triều Tiên

Việt Nam

Nhật Bản

-30.000à

-10.000

Người (mới) Cromagnon (-40.000), Thời đại trung thạch khí.

Người hang động ở Chu khẩu điếm (-40.000)

Gốm màu Ngưỡng Thiều (khoảng -5.000)

Thời hậu băng hà.

Đồ đá.

Thời cựu thạch khí (đá thô, tiền gốm)

-5000

 

-500

Bắt đầu văn minh biển Egean (-3.000) và văn minh Mykenai (-1.500 đến -1.200)

Chữ giáp cốt trên mai rùa xương thú (-1.300)

Khổng tử và môn đệ (-520)

Thời dụng cụ bằng thanh đồng

Họ Hồng Bàng làm vua  2622 năm (-2879 đến -258)

Bắt đầu thời Jômon (Gốm Jômon và đá mài, -10.000). Nhà hố (-5.000)

à

-400

 

Alexandre Đại Đế đông chinh (-334).

Cộng hòa La Mã

Xuân thu (bách gia chư tử)

Triều tiên họ Vệ

(Vệ Mãn)

 

Thời đại Jômon

(khuyết sử)

à

 

300

Người Galia xâm nhập La Mã

Chiến quốc thất hùng

An Dương Vương Thục Phán (-257)

 

Thời Yayoi bắt đầu ở  Kyuushuu với văn minh lúa nước (khuyết sử)

à

 

200

Chiến tranh Macedoine

Tần thống nhất

Hán thống nhất

Tướng Tần Đồ Thư đánh Tượng Quận (-214)

Triệu Đà độc lập (-208)

Thời Yayoi (khuyết sử)

à

 

100

Hannibal chết

Loạn Ngô Sở thất hùng

Lập 4 quận ở Triều Tiên

Kỷ VN thuộc Tây Hán (-110)

Thời đại Yayoi. Văn minh Yayoi đến được vùng Kantô

(khuyết sử)

à

 

 

 

 

1

Nô lệ Spartacus nổi loạn

Tam đầu chế La Mã

Độc tài của Ceasar

Hán viễn chinh Đại Uyển

Sử Ký Tư Mã Thiên

Phật giáo đến Trung Quốc (Hán Ai Đế)

Phù Dư

Cao Cú Li

Thời Yayoi  (khuyết sử)

à

100

Hòa bình kiểu Roma

Bạo chúa Nero

Vương Mãng xưng đế

Hậu Hán Quang Vũ

Trưng Nữ Vương (40)

Kỷ VN thuộc Đông Hán (từ 43)

Hán Thư cho biết có một vùng đất tên Wa. Tiểu quốc Na người Wa gửi sứ sang nhà Hán (57)

à

 

200

Năm vua hiền La Mã

Giặc Hoàng Cân

Sĩ Nhiếp (187)

Một tiểu quốc người Wa khác gửi sứ sang nhà Hán (107)

à

 

 

 

 

 

300

Thời các hoàng đế quân nhân La Mã.

Chiến tranh với Ba Tư (Perse)

Tam Quốc (Ngụy Thục Ngô)

 

Nhà Tấn dấn lên

Họ Công Tôn ở Liêu Đông lập  quận Đới Phương.

Kỷ VN thuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương (227).

Văn hóa mộ  cũ (kofun) lan rộng.

Himiko làm vua nước Yamatai (239).

Nữ vương Iyo nước Yamatai gửi sứ nhà Hán ( 266)

à

400

Đạo Ki-tô trở thành quốc giáo

Đế quốc La Mã phân liệt Đông Tây.

Ngũ Hồ thập lục quốc. Các triều Đông Tấn, Bắc Ngụy, Tiền Tần

Cao Cú Li diệt Lạc Lãng. Bách Tế và Tân La dấy lên. Nhật Bản tìm cách sang Nhiệm Na (Mimana).

Triều Yamato tiếp sứ giả Bách Tế (367). Cử binh sang Triều Tiên (391).

à

 

 

 

 

 

 

500

Thời của hai đế quốc Đông và Tây La Mã.

Tộc Goth chiếm lĩnh châu Âu. Hoàng đế La Mã Romulus Augustulus bị phế.

Clovis (Pháp) lên ngôi.

Ngũ Hồ thập lục quốc tiếp tục ở miền bắc.Lục Triều (chủ yếu là Tống và Tề) ở miền nam.

Văn biền ngẫu tứ lục và phép quân điền thành hình.

Thủy Kinh Chú ra đời.

Cao Cú Lệ thiên đô về Bình Nhưỡng.

Cao Cú Lệ đánh Tân La.

Tiền Lý (Lý Nam Đế)

( 541-547)

Triệu Việt Vương ( 548-570)

Triều Yamato (Thiên hoàng Nintoku?) gửi sứ sang Đông Tấn (413).

Triều Yamato (Thiên hoàng Yuuryaku?) gửi quốc thư (478).

à

 

 

 

 

 

 

 

 

600

Thời 7 nước 7 vua Anglo-Saxon (Tây La Mã) và Justinian ở Byzance (Đông La Mã)

Ngũ hồ thập lục quốc tiếp tục. Lục Triều (chủ yếu Lương, Trần, Tùy).

Văn Tuyển của Chiêu Minh Thái Tử (501-531) nhà Lương.

Tùy Văn Đế (581-604)

Tân La tiêu diệt chính quyền Kaya (lãnh thổ cực nam bán đảo)

Chân Lạp thôn tính Phù Nam.Chân lạp phân chia thủy lục.

 

Hậu Lý (Lý Phật Tử) ( 571-602)

Kỷ VN thuộc Tùy Đường (từ 603)

Bách Tế gữi Ngũ Kinh Bác Sĩ sang Nhật (khoảng 513)

Phật giáo truyền vào đất Nhật (khoảng 538).

 

Thái tử Shôtoku nhiếp chính (593-621)

à

 

 

 

 

 

700

Quyền lực giáo hoàng La Mạ vững chắc.

Nhà nước Hồi giáo thành lập ở phương Đông (Tiên tri Muhammad đến Medina).

Tùy Dượng Đế (604-618)

Đường Cao Tổ (618-626)

Nhà Đường từ Thái Tôn đến Vũ Hậu.

Bách Tế bị diệt vong (660), Cao Cú Lệ bị diệt vong (668), Tân La thống nhất bán đảo (676) nhờ sức nhà Đường. Nhà Đường rút lui (676).

Ono no Imoko đi sứ sang Tùy (607)

Cuộc cải cách năm Taika (645).

Thời trị vì của Thiên hoàng Tenji (661-671) và Tenmu (673-686)

à

 

 

 

 

 

 

 

 

800

Vua Pippin  (751-768) và con là Đại đế Charlemagne (768-814) trị vì

Thời của 2 thi nhân Đổ Phủ và Lý Bạch.

Loạn An Sử (755-763)

 

Đường Đức Tông (779-805)

Xây Khai Thành (Kaesong) và trường thành ở biên giới phía Bắc.

Quí tộc nổi loạn và tranh giành ngôi vua.

 

Mai Hắc Đế ( 722)

 

Bộ luật Taihô (701) ra đời. Sử thư Nihon shoki soạn xong ( 720). Thiên hoàng Shômu trị vì (729-749).

Dựng Tôdaiji (52), Tăng Giám Chân đến Nhật (754)

Xong Man.yôshuu

(759)

à

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

900

Kể từ đây, trong vòng 200 năm, hải tặc Viking làm cỏ Âu châu.

Triều Essex ở Anh,

Carolingue ở Pháp, Ý, Đức.

Thời của Nhan Chân Khanh, Bạch Lạc Thiên và Hàn Dũ.

Đường Vũ Tông (840-846) và vụ phá phật ở Hội Xương ( 845)

Loạn Hoàng Sào (875)

Vương Kiện (Wang Kon) dựng nước Cao Ly (935).

Nam Chiếu đánh vào Giao Chỉ (863)

Ngô Quyền phá quân Nam Hán (898)

Nhà Ngô

Thập Nhị Sứ Quân

Đinh Tiên Hoàng ( 968-979)

Lê Đại Hành (941

-1006)

Hai danh tăng Saichô và Kuukai sang nhà Đường (804).

Chuyến đi sứ cuối cùng sang nhà Đường (839)

Đình chỉ Khiển Đường Sứ (894)

à

 

 

 

 

 

 

 

1000

Vương quốc Castille thành lập (930-1479)

Hugo Capet lên ngôi ở Pháp (987-996).

Đường bị diệt vong 907), bắt đầu thời Ngũ đại thập quốc.

Thái tổ Da Luật A Bảo Cơ sáng lập triều Liêu (916), lấy 16 châu Yên Vân (936).

Tân La và Bột Hải bị diệt. Thái tổ Vương Kiến dựng nước Cao Lệ (918).

Phụ thuộc Tống rồi Liêu.

Thành lập chế độ văn võ lưỡng ban (yangban)

Chính tri sekkan (quan bạch nhiếp chính) hưng thịnh với Fujiwara Michinaga (966-1027)

à

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1100

Vương quốc Aragon thành hình.

Người Norman chinh phục vùng England.

Thập Tự Quân viễn chinh lần đầu (1096-99)

William, quận công xứ Normandy, lên ngôi ở Anh. (1066)

Tây Hạ kiến quốc (1038).

Tống học với Chu Đơn Di, Trình Di và Trình Hạo.

Văn nhân Âu Dương Tu, Tô Thức, Tư Mã Quang hoạt động.

Hòa ước với Tây Hạ (1044)

Cải cách của Vương An Thạch (1069-76).
Tống Huy Tông (1100-25)

Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (1010)

Triều Lý (1009-1225)

Chiến dịch bình định miền Đông Bắc (trận 9 năm và 3 năm). (1051-62) và (1083-87)

Thiết lập khế ước trang viên (1069)

Bắt đầu thời chính trị viện sảnh (1086)

Giới bushi can dự vào việc nước.

à

 

1200

Đại học Oxford được thành lập (1167)

Bồ Đào Nha độc lập khỏi triều đình Castille (1143)

Thập Tự Quân viễn chinh lần thứ hai (1147

-49) và thứ ba  (1189-92).

Nữ Chân kiến quốc (1115)

Bắc Tống diệt vong  (1127)

Nghề in phổ biến (1.200)

 

Thiên đô về Lâm An (Nam Tống) ( ( 1138)

Thời của Chu Hi (1130-1200)

Cao Lệ phục tùng nước Kim (Nữ Chân)

Kim Phú Thức viết Tam Quốc Sử Ký của Triều Tiên.

 

Triều Lý

Loạn Hogen (1156)

Loạn Heiji (1159)

Họ Heike hưng thịnh và diệt vong  (1167-85).

Mạc phủ Kamakura thành hình (1192) với Minamoto no Yoritomo (họ Genji)

à

 

1300

Đai hiến chương (Magna Carta) ( 1215) ở Anh dưới triều vua John.

Thập tự  quân viễn chinh lần thứ tư (1202-04)

Triều Capet ở Pháp.

Mông cổ xâm lăng Ba Lan và Hung (1240)

Marco Polo du hành qua nhà Nguyên (1.271)

 

Gengis Khan thống nhất Mông Cổ (1206)

Thế tổ Kubilai sáng lập triều Nguyên.

 

Kim và Tống diệt vong. (1234 và 1279) bởi Kubilai

Liên minh với nhà Nguyên tấn công Nhật Bản (1274 và 1281)

Triều Trần (1225 -1400)

Giặc Nguyên kỳ 1 (1257) do Ngột Lương Hợp Đài.

Giặc Nguyên kỳ 2 (1284) do Thoát Hoan, A Lý Hải Nha.

Giặc Nguyên kỳ 3 ( 1287) do Thoát Hoan, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi

Thời các shikken (chấp quyền) họ Hôjô.

Cuộc loạn năm Jôkyuu (1221) tranh chấp giữa triều đình và mạc phủ.

Tăng Dôgen về nước truyền Thiền Tào Động (1227), Tăng Nhật Liên khai sáng Nhật Liên Tông (1253).

Giặc Nguyên đánh vào Hakata (kỳ 1 năm 1274 và kỳ hai năm 1281).

à

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1400

Cuộc chiến tranh tôn giáo 100 năm (từ 1337).

Chaucer viết Canterbury Tales (khoảng  1340-1400)

Bắt đầu thời của ông hoàng viễn dương Enrique của Bồ đào nha (  1394-1460)

Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh (1368)

 

Cái biến Tĩnh nạn (1399-1402) loại Huệ Đế, đưa Vĩnh Lạc Đế lên ngôi.

Tướng Lý Thành Quế

(Yi Song-gye) dẹp giặc biển người Nhật ( 1380)

Lý Thành Quế cướp chính quyền, khai sáng 500 năm triều đại Choson (Triều Tiên) ( 1392-1910)

Gã Huyền Trân công chúa (1306)

Triều Trần suy vong

Hồ Quí Ly lên ngôi (1400)

Thời shikken cuối cùng Takatoki. Mạc phủ Kamakura diệt vong.

Trung hưng thời Kenmu (1334)

Mạc phủ Muromachi ( 1336-1573) thành hình với Ashikaga Takauji.

Nam bắc triều chia rẽ rồi kết hợp (1338-1392). Ashikaga Yoshimitsu lãnh chức Thái chính đại thần (1394).

 

( Hết Phần Một )



[1] Chữ Hatake là một quốc tự của người Nhật tự chế ra, hiểu là ruộng (nước cạn), không có âm Hán tương xứng nên để dấu cộng (+).

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114570123

Hôm nay

2159

Hôm qua

2367

Tuần này

22506

Tháng này

228647

Tháng qua

129483

Tất cả

114570123